Thương hiệu quốc gia, theo cách nhìn của một người xây dựng thương hiệu, là những ấn tượng của một quốc gia trong quá trình buôn bán, sản xuất, đổi hàng hóa., là những quá trìnhmà khi nêu tên của một quốc gia, người buôn bán có thể dựa vào đó để tăng hay giảm giá trị của các sản phẩm mang yếu tố hình ảnh của quốc gia đó trong quá trình thương lượng để xác định được phần lợi về mình.
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 1 
              
            Nội dung tài liệu Thương Hiệu Quốc Gia: Từ góc nhìn của người tư vấn xây dựng thương hiệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thương Hiệu Quốc Gia: Từ góc nhìn của người tư vấn 
xây dựng thương hiệu 
Thương hiệu quốc gia, theo cách nhìn của một người xây 
dựng thương hiệu, là những ấn tượng của một quốc gia 
trong quá trình 
buôn bán, sản xuất, 
trao đổi hàng 
hóa..., là những 
quá trình mà khi 
nêu tên của một 
quốc gia, người 
buôn bán có thể 
dựa vào đó để tăng 
hay giảm giá trị 
của các sản phẩm 
mang yếu tố hình ảnh của quốc gia đó trong quá trình 
thương lượng để xác định được phần lợi về mình. 
Cũng có một số cách đề cập khác về thuật ngữ “thương 
hiệu quốc gia” nhưng trong bài viết này tôi không đề cập 
tới những khái niệm hình ảnh hay ấn tượng không mang 
tính thương mại, cụ thể hơn là không mang được lợi thế 
cho các thương vụ có gắn tới Việt Nam trong quá trình 
thương lượng. Như vậy, khi nói đến thương hiệu quốc gia, 
tức là nói đến các lợi thế cạnh tranh mà bản thân quốc gia 
đó có thể mang lại cho người tiêu dùng khi sử dụng một 
sản phẩm hay dịch vụ của quốc gia đó hay mang trên mình 
dấu hiệu bảo chứng chất lượng hay đặc thù dịch vụ/tính 
năng... của một quốc gia. Tất nhiên, thương hiệu quốc gia 
một phần được tạo nên từ những hoạt động trong lịch sử, 
nhưng cũng như các thương hiệu khác, thương hiệu quốc 
gia được tạo thành chính từ quá trình truyền thông của các 
thị trường mà quốc gia đó có ảnh hưởng tới. 
Bắt đầu từ thị trường 
Đầu tiên phải nói đến những địa bàn mà Việt Nam có ảnh 
hưởng, từ đó mới có thể đề cập tới sự ảnh hưởng của dòng 
chữ Made in Vietnam hay Designed by Vietnamese hay 
Vietnam origin materials... 
Hiện nay, Việt Nam vẫn còn biểu tượng cho một cuộc 
chiến vĩ đại, cuộc chiến đó đã chiến thắng và vẫn còn dấu 
ấn trong nhiều thế hệ ở nhiều nước. Xét về mặt thương 
hiệu, thì thương hiệu Việt Nam đã được định vị như là một 
vị thần chiến tranh: có thể là chiến tranh nhân dân, không 
đại diện cho một sức mạnh vũ khí mà đại diện cho sức 
mạnh con người trong chiến đấu và chiến thắng.Với một 
định vị như vậy, thương hiệu Việt Nam có thể rất thành 
công trong thị trường các sản phẩm có liên quan đến chiến 
tranh hay lòng dũng cảm hay các sản phẩm rèn luyện sức 
khỏe, ý chí của cá nhân hay tập thể. Trong các thị trường 
này thì thương hiệu Việt Nam sẽ hoàn toàn có thể lấn lướt 
các thương hiệu quốc gia khác, kể cả Made in USA hoặc 
Made in Japan vì thương hiệu Việt Nam có sức mạnh hơn 
hẳn các thương hiệu khác. 
Hiện nay, chúng ta đang muốn bán các sản phẩm nông lâm 
thủy sản hay dịch vụ nhưng thương hiệu các sản phẩm này 
ở Việt Nam chưa được xây dựng theo định hướng là một 
nhà sản xuất có uy tín hoặc một nhà cung ứng dịch vụ 
chuyên nghiệp, do đó chúng ta sẽ khó có thể cạnh tranh 
trên thị trường quốc tế trên cơ sở thương hiệu với các yếu 
tố lợi thế về giá và chất lượng dịch vụ. 
Một sản phẩm muốn cạnh tranh trên thị trường thì phải có 
các đầy đủ các yếu tố chất lượng, giá, dịch vụ và mức độ 
chấp nhận của thị trường. Có thể nói, cho đến nay, các nhà 
sản xuất của Việt Nam chưa bao giờ đánh giá các sản phẩm 
của mình một cách toàn diện khi tham gia thị trường. Trong 
quá trình thương thảo với các đối tác thương mại, họ cũng 
ít đề cập tới tổng thể các điều kiện cạnh tranh của sản phẩm 
cho từng thị trường cụ thể. Do đó, chúng ta luôn chỉ có thể 
dựa vào những gì có trong tay: đó là giá và chất lượng dịch 
vụ, mà ở đây chủ yếu là tốc độ và chi phí giao hàng chứ 
chưa hề nghĩ tới các yếu tố khác của sản phẩm. Ví dụ như 
mức độ chấp nhận, các chi phí cần thiết để tăng thêm mức 
độ chấp nhận và các phương án cần thực hiện ở các tầm qui 
mô và ảnh hưởng khác nhau. Đó chính là quá trình xây 
dựng thương hiệu của sản phẩm. Ở đây khi bàn tới thương 
hiệu quốc gia thì tất nhiên là phải có sự tương hỗ giữa hai 
quá trình: quá trình xây dựng thương hiệu của sản phẩm và 
quá trình xây dựng hình ảnh quốc gia tại cùng một thị 
trường. Có ba trường hợp xây dựng thành công hay thất bại 
của một hoặc nhiều thương hiệu tại một thị trường xác định 
Trường hợp 1: Sản phẩm đi trước 
Đa số các trường hợp thành công từ một sản phẩm, sau đó 
các sản phẩm của quốc gia đó đi cùng và từ từ xây dựng 
nên một hình ảnh chất lượng chung của một quốc gia. Điền 
hình là các sản phẩm của Nhật ở giai đoạn sau thế chiến thứ 
hai, khi đất nước Nhật không thể quảng bá hình ảnh thương 
mại của mình thì việc các sản phẩm như Sony hay Toyota 
xuất hiện một cách hiệu quả đã tạo ra một hình ảnh nước 
Nhật mới và từ đó các sản phẩm Made in Japan có điều 
kiện rất dễ dàng trong việc thâm nhập các thị trường quốc 
tế, và tất nhiên các sản phẩm khác cũng tinh tế và mang lại 
hiệu quả kinh tế cho người sử dụng cũng góp phần tôn tạo 
thêm giá trị Nhật Bản trong các sản phẩm của đất nước này. 
Trường hợp ngược lại là Trung Quốc. Khi các sản phẩm giá 
rẻ xuất hiện với chất lượng rất không ổn định thì hình thành 
một tâm lý là hàng Trung Quốc giá rẻ dùng một lần bỏ 
cũng được. Do đó khi các mặt hàng khác của Trung Quốc 
bị hư hỏng thì ai cũng chấp nhận vì tồn tại một tâm lý rằng 
hàng Trung Quốc thì đương nhiên mau hỏng. 
Điều này làm ảnh hưởng đến cả các sản phẩm quốc tế gia 
công tại thị trường Trung Quốc. Ở Việt Nam, các mặt hàng 
điện tử hay điện gia dụng có dòng chữ Made in China luôn 
có giá rẻ hơn từ 20% - 30% so với hàng cùng thương hiệu 
nhưng làm ở các nước khác. Để có thể cải thiện hình ảnh 
này thì Trung Quốc sẽ phải tốn rất nhiều thời gian và công 
sức. Một chiến lược quốc gia như kiểu chiến dịch vận động 
và thực thi Olympic Bắc Kinh xem ra chưa đủ mà nước này 
chắc chắn phải nỗ lực nhiều hơn đối với các sản phẩm đơn 
lẻ thì mới có thể cải thiện hình ảnh chung. 
Trường hợp 2: Hình ảnh đất nước đi trước 
Cộng hòa Dân chủ Đức hay Liên Xô trước kia là một ví dụ 
về hình ảnh “nồi đồng cối đá”. Cho tới nay các sản phẩm 
có xuất xứ từ hai quốc gia/vùng đất này vẫn được hình 
dung như vậy: nghĩa là hàng tốt, giá rẻ, bền nhưng mẫu mã 
kém, dành cho sản xuất hay cho giới bình dân chứ không 
thể dùng cho dân sành điệu (tất nhiên là loại trừ xe hơi của 
BMW hay Mercedes của nước Đức thống nhất ngày nay). 
Khi sản phẩm xuất phát từ một nước không có ấn tượng gì 
thì chắc chắn sẽ không tạo được lợi thế cạnh tranh cho sản 
phẩm. 
Trường hợp 3: Song hành cả hai 
Đây là trường hợp mà một quốc gia mới tham gia thị 
trường, do đó không có nhiều hình ảnh của quốc gia mình 
cũng như chưa có các sản phẩm ấn tượng. Thí dụ các sản 
phẩm của Úc lúc mới vào thị trường Việt Nam. Trên thực 
tế, đối với người tiêu dùng Việt Nam, các công ty Úc chưa 
hề tạo dựng được một hình ảnh ấn tượng trên cả bình diện 
đất nước, con người hay sản phẩm. Sau một thời gian thì 
Úc đã có thể xây dựng hình ảnh thân thiện và chất lượng tốt 
cho hàng nông sản, đặc biệt thông qua các sản phẩm sữa và 
trái cây. Trong trường hợp này, chúng ta có thể thấy rất rõ 
sự kết hợp chặt chẽ trong việc xây dựng hình ảnh quốc gia 
đồng hành với xây dựng hình ảnh sản phẩm. Đó là các 
chương trình hành động kết hợp giữa các doanh nghiệp với 
các hiệp hội và các tổ chức xúc tiến thương mại tư nhân 
cũng như nhà nước. 
Việt Nam cần làm gì? 
Thứ nhất là xác định hình ảnh của chúng ta ở các thị trường 
trên khắp thế giới. Chúng ta phải phân chia thế giới theo 
mức độ nhận diện Việt Nam, chứ không thể phân chia theo 
khu vực địa lý. Kết quả của công việc này là xác định được 
hình ảnh của Việt Nam và mức độ ảnh hưởng đến các quyết 
định mua sắm của người tiêu dùng tại từng thị trường, sau 
đó sẽ xác định từng khu vực thị trường. Công việc này đòi 
hỏi các cuộc nghiên cứu rộng khắp ở các quốc gia, đặc biệt 
là những quốc gia mà chúng ta quan tâm. Có thể chia thành 
các mức độ quan tâm ưu tiên để tập trung ngân sách và 
công sức nghiên cứu. 
Hai là xác định các mặt hàng có khả năng có được ảnh 
hưởng tốt nhờ vào uy tín của hai chữ Việt Nam để củng cố 
ngay thị trường trước khi hình ảnh này bị nhạt nhòa. 
Ba là xác định những hình ảnh mà chúng ta muốn xây dựng 
hoặc cải thiện, sau đó dựa vào những vị trí hiện tại mà đưa 
ra những quyết định và hành động để thực hiện việc cải 
thiện hình ảnh của Việt Nam. Công việc này có thể thực 
hiện thông qua các sản phẩm cụ thể, nhưng cũng có thể 
thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại hay các hoạt 
động văn hóa nghệ thuật. Điều cần lưu tâm là phải có sự 
thống nhất trong điều phối thì mới có thể đạt mục tiêu. Nếu 
không, với ngân sách hạn chế, với khoảng cách địa lý xa 
xôi và không có người theo dõi, điều phối thì các hoạt động 
sẽ như những hạt cát bỏ biển, khó có thể kết thành một nền 
tảng vững chắc để các doanh nghiệp phát triển trên nền 
tảng đã xây dựng được. Công việc này có thể do các cơ 
quan xúc tiến thương mai hay các hiệp hội thực hiện, còn 
các công ty thương mại/sản xuất thì chỉ có thể ủng hộ chứ 
không thể tự mình thực hiện. 
Bốn là với thị trường mới, chúng ta nên có một chiến lược 
thương hiệu cụ thể. Trước mắt là xác định được những sản 
phẩm nào sẽ có thể phát triển mạnh ở một khu vực thị 
trường cụ thể. Sau đó so sánh với các khả năng mà hai chữ 
Việt Nam có thể có tác dụng cộng thêm vào hiệu quả 
thương mại. Từ đó mới xác định được chiến lược, các hoạt 
động cụ thể trong từng giai đoạn và thông tin đến các 
doanh nghiệp cùng tham gia. 
Năm là hình ảnh của Việt Nam thông qua các hoạt động 
chính trị, xã hội, văn hóa và kinh tế phải được chắt lọc và 
thông tin/truyền thông một cách có chủ định và định hướng 
cụ thể cho từng khu vực thị trường để đảm bảo tính nhất 
quán, tạo cơ sở đánh giá hiệu quả công việc. Qua đó có thể 
cải thiện hoặc thúc đẩy quá trình xây dựng hình ảnh chung 
của Việt Nam trên phạm vi toàn cầu chứ không chỉ cho các 
hoạt động thương mại. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 17_5033.pdf 17_5033.pdf