Bảo hiến là vấn đề đặc biệt được coi trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc 
biệt là đối với các nước xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền. Hiện nay, chúng 
ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyềncho nên việc nghiên cứu về vấn đề bảo 
hiến trở nên hết sức cần thiết. Chúng ta đã có cơ chế bảo hiến hay chưa? Cơ chế 
bảo hiến hiện nay như thế nào? Hiệu quả chưa? Nếu chưa thì cơ chế bảo hiến nào 
là hiệu quả?
              
                                            
                                
            
 
            
                 48 trang
48 trang | 
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận - Bàn về cơ chế bảo hiến ở 
Việt Nam hiện nay 
Bảo hiến là vấn đề đặc biệt được coi trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc 
biệt là đối với các nước xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền. Hiện nay, chúng 
ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên việc nghiên cứu về vấn đề bảo 
hiến trở nên hết sức cần thiết. Chúng ta đã có cơ chế bảo hiến hay chưa? Cơ chế 
bảo hiến hiện nay như thế nào? Hiệu quả chưa? Nếu chưa thì cơ chế bảo hiến nào 
là hiệu quả? 
Phần mở đầu 
Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam. Điều này đã được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi 
nhận : ”Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền 
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Điều 2). Những đặc 
trưng cơ bản nhất của một Nhà nước pháp quyền nói chung là tính thượng tôn 
pháp luật và bảo đảm dân chủ. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã 
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải tạo dựng và phải tiếp tục hoàn 
thiện, đảm bảo có được hai đặc trưng đó. Tuy nhiên, đây là một bài tóan khó mà 
muốn giải được nó đòi hỏi chúng ta phải có nhiều bước giải khác nhau với các quy 
trình và thủ thuật thích hợp. Ở đây, chúng tôi muốn nói rằng, xây dựng Nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều “chất xám” 
và công sức. Chúng ta phải thực hiện rất nhiều việc trong thời gian lâu dài mới có 
thể xây dựng được. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập đến một trong 
những việc đó. Đó chính là xây dựng “cơ chế bảo hiến”. 
Bảo hiến là vấn đề đặc biệt được coi trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc 
biệt là đối với các nước xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền. Hiện nay, chúng 
ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên việc nghiên cứu về vấn đề bảo 
hiến trở nên hết sức cần thiết. Chúng ta đã có cơ chế bảo hiến hay chưa? Cơ chế 
bảo hiến hiện nay như thế nào? Hiệu quả chưa? Nếu chưa thì cơ chế bảo hiến 
nào là hiệu quả? Chúng ta phải nghiên cứu để có được câu trả lời hợp lí nhất cho 
những câu hỏi đó. Chúng ta phải nghiên cứu để xây dựng, để có được cơ chế bảo 
hiến hữu hiệu trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù đã 
có nhiều nghiên cứu về vấn đề này nhưng vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Và thực 
tiễn ở Việt Nam cho thấy nghiên cứu về vấn đề bảo hiến là một vấn đề không kém 
tính thời sự. Việc nghiên cứu này đang diễn ra thường xuyên ở các diễn đàn khoa 
học. Chúng tôi, với tư cách là những người đang học tập, nghiên cứu về khoa học 
pháp lý cũng muốn tìm hiểu về vấn đề này. 
Nghiên cứu về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, trước hết, chúng tôi muốn 
nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi muốn 
xây dựng cho mình góc nhìn pháp lý, cách tiếp cận vấn đề pháp lý một cách khoa 
học. Bên cạnh đó, chúng tôi hy vọng kết quả từ sự nghiên cứu của chúng tôi sẽ 
mang lại những lợi ích nhất định. Chúng tôi mong muốn bài viết này là tài liệu 
tham khảo cần thiết và hữu ích cho những ai quan tâm, tìm hiểu về vấn đề bảo 
hiến ở Việt Nam hiện nay. Đối tượng mà chúng tôi hướng đến chủ yếu là các bạn 
sinh viên như chúng tôi. “Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay”, chúng 
tôi mong muốn được góp ý kiến trao đổi về vấn đề này, để cùng nhau đi đến một 
sự đồng thuận, cùng đi tìm và xây dựng cơ chế bảo hiến thích hợp nhất ở nước ta. 
Để có được sản phẩm thực sự khoa học, chúng tôi đã bỏ ra thời gian tập trung 
nghiên cứu nhất định. Mong muốn có được kết quả tốt nhất, trên cơ sở khả năng 
của mình, chúng tôi đã vận dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác 
nhau. Về cơ sở phương pháp luận, đó là phương pháp chủ nghĩa duy vật biện 
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, đó là các 
phương pháp: tổng hợp, phân tích, tổng-phân-hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch… 
“Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay” thì có rất nhiều vấn đề để “bàn”. 
Có những vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu, lâu dài. Với kiến thức còn hạn 
hẹp của mình, chúng tôi chỉ có thể nghiên cứu một vài vấn đề nhất định mang tính 
cơ bản, dễ tiếp cận mà thôi. Trên tinh thần đó, bài viết này nghiên cứu về các vấn 
đề sau đây, cũng là cấu trúc của bài viết: 
PHẦN NỘI DUNG 
1. Cơ chế bảo hiến - nhu cầu tất yếu 
Tại Hội nghị đại biểu tòan quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII, năm 1994, Đảng cộng 
sản Việt Nam đã chính thức đề cập đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền. 
Tại Hội nghị, Đảng ta nêu ra nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn 
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân 
dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước 
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam 
được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy 
liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, 
do Đảng ta lãnh đạo”. Từ đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, trường kỳ. 
Tư tưởng đó được phát triển tại các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo và chính thức trở 
thành một vấn đề Hiến định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, 
vì nhân dân”[1]. Như phần mở đầu chúng tôi đã có đề cập, một trong những đặc 
trưng chung nhất của Nhà nước pháp quyền là tính tối cao của Hiến pháp, pháp 
lụât, trước hết là vị trí tối thượng của Hiến pháp. Hiến pháp và Nhà nước pháp 
quyền, đó là hai yếu tố không thể tách rời nhau, không thể có cái này mà không có 
cái kia. “Lý thuyết về Hiến pháp (Chủ nghĩa lập hiến) đồng thời cũng là lý thuyết 
về Nhà nước pháp quyền. Nội dung, yêu cầu của Hiến pháp cũng chính là nội 
dung, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền...Nói cách khác, nội dung của Hiến pháp 
điều chỉnh những vấn đề thuộc về nội dung, yêu cầu của Nhà nước pháp 
quyền”[2]. Vì vậy, Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp trở thành một đòi hỏi 
không thể tách rời Nhà nước pháp quyền.”Nhưng sự hiện diện của Hiến pháp chỉ 
là yếu tố cần chứ chưa phải là đủ của một chế độ dân chủ, của một Nhà nước pháp 
quyền, nếu như các cơ quan công quyền thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư 
pháp vượt quyền, lạm quyền, vi phạm thẩm quyền được Hiến pháp ghi nhận, ban 
hành các văn bản họăc thực hiện các hành vi trái Hiến pháp có khả năng hoặc thật 
sự đã gây thiệt hại cho công dân, cho các tổ chức xã hội. Vì vậy, để chế độ Hiến 
pháp được tôn trọng và bảo đảm trên thực tế, cần phải có cơ chế hữu hiệu bảo vệ 
và khôi phục trật tự hiến định”[3]. Để đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp thì 
nó cần phải được bảo vệ. Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp không thể bị 
xâm phạm vì bất kỳ lí do gì. Do đó, chúng ta cần phải có một cơ chế bảo hiến - cơ 
chế bảo vệ Hiến pháp. Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên cơ chế 
bảo hiến trở thành một đòi hỏi tất yếu. Nếu không có cơ chế bảo hiến hoặc có 
nhưng cơ chế không hiệu quả thì sẽ dẫn đến tính hiệu lực của Hiến pháp bị xâm 
hại, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền không được đảm bảo và chúng ta sẽ 
không có được Nhà nước pháp quyền! 
Hơn nữa, ngày nay, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều 
công nhận rằng Hiến pháp là đạo luật cơ bản của quốc gia. Bởi vì Hiến pháp xác 
lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất ý chí của nhân dân, sự lựa 
chọn chính trị của nhân dân.Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước do cơ 
quan đại diện có thẩm quyền thông qua hoặc do nhân dân trực tiếp thông qua; 
trong đó quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của chế độ chính trị, kinh 
tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và họat động 
của các cơ quan Nhà nước then chốt, thể hiện một cách tập nhất, mạnh mẽ nhất ý 
chí và lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội - ở nước ta, đó là toàn thể 
nhân dân vì nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Sự hiện diện của Hiến 
pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an tòan của 
người dân. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của một đất nước, nó 
bao gồm các chế định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ 
bản của công dân. Vì lẽ đó, Hiến pháp cần phải ở vị trí tối thượng vì nó là ý chí 
phổ biến và đầy đủ nhất của nhân dân. Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền 
Nhà nước, bảo vệ ý chí nhân dân.Chính vì điều này mà chúng ta cần thiết phải có 
một cơ chế bảo hiến hoàn chỉnh vì có liên quan mật thiết đến tính dân chủ của một 
Nhà nước, một chế độ, một xã hội và đến sự tồn vong của một thể chế. Tính tối 
cao của Hiến pháp được quy định trong Hiến pháp nước ta như sau (Điều 146, 
Hiến pháp 1992): “Hiến pháp nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là đạo 
luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp luật 
khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Tính tối cao (tối thượng) của Hiến pháp không 
phải chỉ được khẳng định trên văn bản bằng những con chữ mà chúng ta cần phải 
có cơ chế đảm bảo nó được thực hiện trong thực tế. Do đó, đòi hỏi tất yếu ở đây là 
cần có cơ chế bảo vệ. 
Không những vậy, cơ chế bảo hiến còn là một đòi hỏi, một nhu cầu mang tính 
nguyên tắc. Đó chính là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. “Pháp chế xã hội 
chủ nghĩa được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác hiến pháp và luật 
của mọi chủ thể của các quan hệ pháp luật. “Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992” quy định tại điều 12 “Nhà nước quản lí xã hội 
bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Nguyên 
tắc này cũng được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt 
động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành pháp và 
tư pháp, cần triệt để tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. 
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất của 
pháp chế, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và luật, bảo đảm và bảo vệ các 
quyền và tự do cơ bản của công dân đã được pháp luật quy định, ngăn chặn kịp 
thời và xử lí nhanh chóng, công minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm sự 
thống nhất giữa pháp chế và tính hợp lí, công bằng”[4]. Như vậy, nguyên tắc này 
đã khẳng định tính tối cao của Hiến pháp. Đã là nguyên tắc thì phải được tuân thủ 
nghiêm ngặt. Nhưng trên thực tế, khó tránh khỏi nguyên tắc này bị vi phạm. Do 
đó, để ngăn ngừa và xử lí việc vi phạm, một nhu cầu tất yếu là phải có biện pháp 
bảo vệ. Cơ chế bảo hiến đáp ứng được nhu cầu đó. 
Trên đây là một vài lý do để có một cơ chế bảo hiến. Chúng tôi cho rằng đó là 
những lý do hết sức thuyết phục để có một cơ chế bảo hiến hữu hiệu ở nước ta. Và 
những lý do đó cũng là những đòi hỏi khách quan, tất yếu về một cơ chế bảo hiến. 
Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng 
là lý do để có cơ chế bảo hiến. Đến lượt mình, cơ chế bảo hiến trở thành đòi hỏi tất 
yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì nó đảm bảo đặc trưng 
của mô hình Nhà nước này, đảm bảo được dân chủ. 
Tuy nhiên, chúng ta cũng lưu ý rằng, cơ chế bảo hiến chỉ đặt ra đối với Hiến 
pháp cương tính. Vì Hiến pháp cương tính mới đòi hỏi hiến pháp ở vị trí tối 
thượng, có hiệu lực pháp lý cao nhất và thủ tục sửa đổi phải tuân thủ nghiêm ngặt 
những trình tự phức tạp. Đối với Hiến pháp nhu tính thì không có đòi hổi đó, Hiến 
pháp nhu tính chỉ có vị trí như thường luật và thủ tục sửa đổi dễ dàng. Nếu một 
đạo luật được ban hành trái với Hiến pháp (nhu tính), thì nó được xem là sửa đổi 
điều khỏan của Hiến pháp. Chính vì vậy, không đặt ra cơ chế bảo hiến đối vơi 
Hiến pháp nhu tính. Có thể nói, Hiến pháp cương tính là cơ sở để có cơ chế bảo 
hiến[5]. 
Lịch sử lập hiến Việt Nam 
2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam 
2.1. Khái lược lịch sử lập hiến Việt Nam[6] 
Trước khi tìm hiểu cơ chế bảo hiến ở Việt Nam. Thiết nghĩ, chúng ta nên nhìn lại 
sơ lược về lịch sử lập hiến Việt Nam. Chúng ta phải có một nền lập hiến, có 
Hiến pháp thì mới đặt vấn đề bảo hiến. Tư tưởng lập hiến Việt Nam xuất hiện 
vào những năm đầu của thế kỷ XX. Trong quá trình đấu tranh yêu nước, nhiều sĩ 
phu, trí thức tiến bộ có cơ hội tiếp xúc tư tưởng của “đại cách mạng” Pháp 1789, 
ảnh hửơng của cách mạng Tân Hợi (Trung Hoa) 1911 và chính sách Duy tân mà 
Thiên hòang Minh Trị áp dụng ở Nhật Bản…Tư tưởng lập hiến Việt Nam đã xuất 
hiện từ những ảnh hưởng đó. 
Tư tưởng lập hiến lúc đó chia thành hai khuynh hướng: 
Khuynh hướng thứ nhất: thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới 
sự bảo hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong 
đó bảo đảm : quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế Việt 
Nam cần hạn chế và quyền của “dân An nam” về tự do, dân chủ được mở rộng. 
Đại diện cho xu hướng này là Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập hiến 
năm 1923) và Phạm Quỳnh. 
Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân 
tộc và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước 
độc lập đó. Không có độc lập dân tộc thì không thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. 
Đại diện cho chủ trương này là cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu 
nước Nguyễn Ái Quốc.Thực tiễn cách mạng Việt Nam và lịch sử lập hiến ở nước 
ta đã chứng minh chủ trương thứ hai là hoàn toàn đúng đắn. 
Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời trong bối cảnh nước ta đã giành được độc 
lập. sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ngày 02/09/1945, Chủ tịch 
Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" của 
nhân dân ta, dân tộc ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - Nhà 
nước công nông đầu tiên ở đông Nam châu Á. Ngày 03/09/1945, tại phiên họp đầu 
tiên của Chính phủ, Hồ Chủ Tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, 
trong đó có nhiệm vụ lập ra một Hiến pháp dân chủ: "Trước chúng ta đã bị chế độ 
quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta 
không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng 
ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Ngày 20/9/1945 Chính phủ lâm thời ban hành 
Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 bản Dự thảo Hiến pháp đầu tiên được công bố để 
nhân dân đóng góp ý kiến. Ngày 9/11/1946 tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I 
(do cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 bầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên 
của nước ta. 
Nền độc lập dân tộc vừa mới giành được lại bị đe dọa vì Thực dân pháp quay lại 
xâm lược. Với niềm tin "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" dưới sự lãnh 
đạo của đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta làm nên chiến thằng Điện Biên Phủ 
lịch sử. Thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (21/07/1954), miền Bắc được 
giải phóng nhưng đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng 
trong giai đoạn mới này là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh 
thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1946 “đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng 
so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp 
nữa. Vì vậy, chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy”. (Hồ Chí Minh: Báo cáo về Dự 
thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959). Ngày 23/1/1957 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội 
khóa I đã ra nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến 
pháp đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 1/4/1959 Dự thảo Hiến pháp sửa 
đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội 
khóa I, ngày 31/12/1959 Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 1/1/1960 Chủ 
tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp này. 
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một 
giai đoạn phát triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử lập 
hiến Việt Nam nói riêng. Đó là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực 
hiện hai nhiệm vụ chiến lược chung là: xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và 
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 cử tri cả 
nước đã bầu ra Quốc hội thống nhất. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất 
(25/6/1976 đến 3/7/1976), Quốc hội đã thông qua những nghị quyết quan trọng, 
trong đó có nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự 
thảo Hiến pháp gồm 36 vị do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh 
làm Chủ tịch. Sau hơn một năm chuẩn bị khẩn trương, Dự thảo Hiến pháp đã được 
lấy ý kiến, thảo luận trong cán bộ và nhân dân. Ngày 8/12/1980 tại kỳ họp thứ 7 
Quốc hội khóa VI đã chính thức thông qua Hiến pháp mới. Hiến pháp 1980 được 
xây dựng và thông qua trong hoàn cảnh đất nước chan hoà khí thế lạc quan, hào 
hùng của Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. 
Trên thế giới, Hiến pháp của các nước XHCN được ban hành vào cuối những năm 
60-70 đã khẳng định đây là thời kỳ xây dựng CNXH phát triển, đang thịnh hành 
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản 
đơn về CNXH. Điều này đã để lại dấu ấn trong nội dung của Hiến pháp 1980 và là 
một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội của đất nước. 
Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và 
phát triển, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới trên tất 
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách đối ngoại…, đặc biệt là đổi 
mới về kinh tế. Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về đổi mới chính sách đối ngoại, 
tháng 12/1988 Quốc hội thông qua nghị quyết sửa đổi Lời nói đầu Hiến pháp 
1980, bỏ hết những câu chữ chỉ đích danh từng tên thực dân, từng tên đế quốc…để 
thực hiện phương châm "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" với những nước 
vốn là kẻ thù xâm lược và đã từng gây tội ác đối với nhân dân ta. Tiếp theo, để dân 
chủ hóa đời sống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường vị 
trí và vai trò của các cơ quan dân cử ở địa phương, ngày 30 tháng 6/1989 tại kỳ 
họp thứ 5 nhiệm kỳ khóa VIII, Quốc hội đã thông qua nghị quyết sửa đổi 7 điều 
Hiến pháp 1980 để quy định thêm công dân có quyền tự ứng cử làm đại biểu Quốc 
hội, đại biểu HĐND; quy định việc thành lập cơ quan thường trực HĐND từ cấp 
huyện trở lên. Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội ra nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa 
đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980 nhằm đáp 
ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp 
thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980. 
Sau gần một thập kỷ tồn tại, đất nước có nhiều đổi mới, phát triển. Để phù hợp với 
tình hình mới, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X (12/2001), Quốc hội đã thông 
qua Nghị quyết 51/2001/QH10, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992. 
2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam 
Nhìn lại lịch sử lập hiến Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng dù chưa lâu đời nhưng 
chúng ta đã có được một nền lập hiến dân chủ. Ngay từ đầu, ngay từ bản Hiến 
pháp đầu tiên, chúng ta đã để cao vai trò của Hiến pháp. Trên thực tế, mặc dù Hiến 
pháp 1946 không được ban hành rộng rãi trong nhân dân vì hoàn cảnh chiến tranh 
nhưng Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí 
Minh luôn làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.Chính vì ngay từ đầu chúng ta đã 
đề cao tính tối cao của Hiến pháp nên đã sớm hình thành cơ chế bảo hiến. Tuy 
nhiên, trong thời gian đầu cơ chế này không thể hoàn thiện hay đầy đủ được cũng 
như chưa đáp ứng trọn vẹn về mặt ngữ nghĩa của cụm từ này. Cơ chế là cách thức 
theo đó một quá trình được thực hiện. Theo nghĩa rộng: cơ chế bảo vệ hiến pháp là 
tổng thể những cách thức và phương tiện pháp lý khác nhằm bảo đảm sự tuân thủ 
nghiêm chỉnh hiến pháp của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong xã 
hội. Theo nghĩa hẹp: cơ chế bảo hiến được hiểu là một thiết chế được tổ chức và 
hoạt động theo những nguyên tắc xác định của pháp luật để thể hiện các biện pháp 
nhằm bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng, giữ đúng vai trò của nó trong đời 
sống nhà nước, đời sống xã hội và chống lại mọi sự xâm phạm có thể xảy ra; được 
hiểu là hoạt động được thể hiện bởi một cơ quan nhằm gìn giữ cho Hiến pháp 
không bị xâm phạm, đặc biệt là từ trong hoạt động ban hành và thực thi các đạo 
luật, bảo vệ Hiến pháp thuờng gắn liền với việc cơ quan có thẩm quyền xem xét và 
ra quyết định về tính hợp hiến của các đạo luật do cơ quan lập pháp, hành pháp, tư 
pháp hoặc cũng có thể là cơ quan tư pháp ban hành đồng thời xét xử các hành vi vi 
phạm hiến pháp của các cơ quan hành pháp quyết định. Cơ chế bảo hiến ở nước ta 
trong thời gian đầu chính là được hiểu theo nghĩa rộng của từ này. Nó đảm bảo 
Hiến pháp không bị xâm phạm, không được thay đổi tùy tiện. 
Để hiểu rõ hơn về cơ chế bảo hiến ở nước ta, sau đây chúng tôi sẽ đề cập đến vấn 
đề này lần lượt qua các bản Hiến pháp. 
2.2.1. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua các bản Hiến pháp 1946, 1959 và 1980. 
Nhìn chung, cơ chế bảo hiến được quy định trong các bản Hiến pháp chính là cơ 
chế giám sát giữa các nhánh quyền lực trong lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm 
pháp luật. đó còn là việc khẳng định vị trí tối thượng của Hiến pháp, khẳng định 
hiệu lực pháp lý tối cao của Hiến pháp. Quy định cụ thể, nghiêm ngặt trình tự và 
yêu cầu, sửa đổi Hiến pháp. 
Trong bản Hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp 1946, việc bảo hiến nói chung quy định 
chưa nhiều, chỉ có một vài điều mà thôi. sở dĩ như vậy là vì đây là bản Hiến pháp 
đầu tiên, là bản Hiến phá đi tiên phong cho nền lập hiến Việt Nam. Chính vì đầu 
tiên cho nên vẫn có những hạn chế nhất định. Hơn nữa, Hiến pháp ra đời trong bối 
cảnh nước ta mới giành được độc lập thì lại phải chống Thực dân Pháp quay lại 
xâm lược. Rõ ràng, chúng ta không có điều kiện thật sự thuận lợi để chú ý xây 
dựng một bản hiến pháp. Tuy nhiên, đây là bản Hiến pháp có nhiều điểm tiến bộ 
đáng quý, là bản Hiến pháp dân chủ. về bảo hiến, Hiến pháp này có những ghi 
nhận sau: 
Điều 21: “Nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp và những việc quan hệ đến 
vận mệnh quốc gia, theo điều 32 và 70” 
Điều 32: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc 
quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật 
định” 
Điều 70: “Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây: 
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu. 
b) Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi. 
c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân 
phúc quyết.” 
Vấn đề bảo hiến ở đây chính là vấn đề sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp ghi nhận một 
cơ chế sửa đổi để bảo vệ Hiến pháp không bị xâm phạm, thay đổi tùy tiện. Ở đây, 
việc sửa đổi Hiến pháp có thủ tục bắt buộc là đưa ra "tòan dân phúc quyết". đây là 
một trong những đặc điểm thể hiện tính dân chủ của Hiến pháp này, và là một 
trong những biện pháp nhằm mục đích bảo hiến, bảo vệ ý nguyện của nhân dân. 
Cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp 1959: Chúng ta thấy rằng, dù Hiến pháp 1946, 
có quy định việc sửa đổi Hiến pháp nhưng chưa khẳng định hiệu lực pháp lý của 
Hiến pháp. Hiến pháp năm 1959 cũng chưa khẳng định điều này. Tuy nhiên, qua 
những gì được ghi trong Hiến pháp này thì tính tối cao của Hiến pháp cũng đã 
gián tiếp được thừa nhận. Hiến pháp này quy định: 
- Điều 50: “Quốc hội có những quyền hạn sau: 
1- Làm hiến pháp sửa đổi hiến pháp 
2- Làm pháp luật 
3- Giám sát việc thi hành hiến pháp. 
………………..” 
Những điều trên đã hạn chế quyền lực của quốc hội trong một định khung, tức là 
Hiến pháp đã gián tiếp thể hiện tính tối cao của mình đối với cơ quan quyền lực tối 
cao nhất trong bộ máy nhà nước. 
- Điều 112: “Chỉ có quốc hội mới có quyền sửa đổi hiến pháp.Việc sửa đổi phải 
được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu quốc hội biểu quyết tán thành”. 
- Điều 73: “Hội đồng chính thể căn cứ vào hiến pháp, pháp luật và pháp lệnh mà 
quy định những biện pháp hành chính, ban bố những nghị định, nghị quyết, chỉ thị 
và kiểm tra việc thi hành những nghị định , nghị quyết và chỉ thị ấy”. 
- Điều 105: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc hội đồng chính phủ, cơ 
quan nhà nước và công dân.Các viện kiểm sát nhân dân địa phương và viện kiểm 
sát nhân địa phương và viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do 
luật định". 
Như vậy, Hiến pháp 1959 đã đề cập đến vấn đề bảo hiến một cách đầy đủ hơn 
Hiến pháp 1946. Đã có nhiều chủ thể tham gia bảo hiến, đã có cơ chế giám sát văn 
bản quy phạm pháp lụât. 
Cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp 1980:Kế thừa nhứng gì đã quy định trong hiến 
pháp 1959, Hiến pháp 1980 tiếp tục có được những quy định nhăm mục đích bảo 
hiến. Một cơ chế bảo hiến theo mô hình giám sát dần dần hình thành qua các bản 
Hiến pháp Việt Nam. Hiến pháp này quy định chi tiết như sau: 
- Điều 4: “Đảng cộng sản Việt nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 209_3638.pdf 209_3638.pdf