Tiểu luận Mối quan hệ di truyền và tâm lí

Sơ lược về mối quan hệ di truyền và tâm lí.

Đối với con người, mỗi cá thể sinh ra đã nhận được theo con đường di truyền từ các thế hệ trước một số đặc điểm về cáu tạo, chức năng của cơ thể. Trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và chức năng của các giác quan và não. Song vai trò của di truyền như thế nào trong sự phát triển tâm lí của con người thì có những quan điểm khác nhau.

- Một số nhà tâm lí học tư sản thừa nhận những đặc điểm tâm lí là những cấu tạo bẩm sinh, do tiềm năng sinh vật gây ra, mọi đặc điểm tâm lí đều do tiền định, đều có sẵn trong cấu trúc sinh vật. Sự phát triển của các thuộc tính đã có sẵn trong gen và được quyết định bằng con đường di truyền. Trong thời gian gần đây, người ta nói đến "Mức độ bẩm sinh của sự trang bị về gen, về những thuộc tính nhân cách, của năng lực được chương trình hóa, mã hóa trong gen. Đồng thời có chú ý đến yếu tố môi trường. Nhưng phẩm chất của cá nhân là kết quả sự tác động giữa yếu tố di truyền và yếu tố môi trường.

- Sinh vật học hiện đại chứng minh rằng bản thân di truyền cũng bị biến đổi dưới tác động của môi trường và hoạt động sống của cá thể. Mặt khác, cơ thể sống càng ở bậc cao của sự tiến hóa thì tính biến dị đảm bảo cho sự thích ứng của nó với điều kiện sống và kinh nghiệm các thể càng đóng vai trò lớn hơn. Ngoài ra riêng đối với con người, điều kiện xã hội và kinh nghiệm đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển tâm lí.

Tóm lại, di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát triển tâm lí con người, bởi vì chính di truyền tham gia vào việc tạo thành những đặc điểm giải phẫu và sinh lí của hệ thần kinh-cơ sở vật chát của các hiện tượng tâm lí. Song lí thuyết di truyền học hiện đại và các công trình nghiên cứu thực nghiệm chỉ cho phép ta khẳng định vai trò tiền đề của di truyền trong sự phát triển của cá thể.

 

doc13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1198 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ di truyền và tâm lí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG……………….. KHOA………………………….. Tiểu luận ĐỀ TÀI: Mối quan hệ di truyền và tâm lí MỤC LỤC A.Mở đầu: Sơ lược về mối quan hệ di truyền và tâm lí. Đối với con người, mỗi cá thể sinh ra đã nhận được theo con đường di truyền từ các thế hệ trước một số đặc điểm về cáu tạo, chức năng của cơ thể. Trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và chức năng của các giác quan và não. Song vai trò của di truyền như thế nào trong sự phát triển tâm lí của con người thì có những quan điểm khác nhau. - Một số nhà tâm lí học tư sản thừa nhận những đặc điểm tâm lí là những cấu tạo bẩm sinh, do tiềm năng sinh vật gây ra, mọi đặc điểm tâm lí đều do tiền định, đều có sẵn trong cấu trúc sinh vật. Sự phát triển của các thuộc tính đã có sẵn trong gen và được quyết định bằng con đường di truyền. Trong thời gian gần đây, người ta nói đến "Mức độ bẩm sinh của sự trang bị về gen, về những thuộc tính nhân cách, của năng lực được chương trình hóa, mã hóa trong gen. Đồng thời có chú ý đến yếu tố môi trường. Nhưng phẩm chất của cá nhân là kết quả sự tác động giữa yếu tố di truyền và yếu tố môi trường. - Sinh vật học hiện đại chứng minh rằng bản thân di truyền cũng bị biến đổi dưới tác động của môi trường và hoạt động sống của cá thể. Mặt khác, cơ thể sống càng ở bậc cao của sự tiến hóa thì tính biến dị đảm bảo cho sự thích ứng của nó với điều kiện sống và kinh nghiệm các thể càng đóng vai trò lớn hơn. Ngoài ra riêng đối với con người, điều kiện xã hội và kinh nghiệm đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển tâm lí. Tóm lại, di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát triển tâm lí con người, bởi vì chính di truyền tham gia vào việc tạo thành những đặc điểm giải phẫu và sinh lí của hệ thần kinh-cơ sở vật chát của các hiện tượng tâm lí. Song lí thuyết di truyền học hiện đại và các công trình nghiên cứu thực nghiệm chỉ cho phép ta khẳng định vai trò tiền đề của di truyền trong sự phát triển của cá thể. B.Phần nội dung: I.Tổng quát về di truyền và tâm lí. 1.Di truyền. a. Khái niệm: Di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống, đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật đối với thế hệ trước, đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn. b.Đặc điểm. - Đặc điểm giải phẫu sinh lí của cá thể, bao gồm những yếu tố do di truyền tạo nên và cả những yếu tố riêng tự tạo ra trong đời sống các thể của sinh vật, những yếu tố như thế đối với con người có ngay từ trong bào thai của mẹ. - Tư chất là một tổ hợp bao gồm cả những đặc điểm sinh giải phẫu vừa là những đặc điểm chức năng tâm sinh lí mà cá thể đã đạt trong một giai đoạn phát triển I' định dưới ảnh hưởng của môi trường sống và hoạt động. , đó là các đặc điểm giác quan của hệ thần kinh và tạo nên tiền đề vật chất cho việc phát triển năng lực của con người. - Đối với con người, mỗi một cá thể sinh ra đã nhân được theo con đường di truyền từ các thế hệ trước một số đặc điểm về cấu tạo, chức năng của cơ thể, trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và chức năng của các giác quan và não. Song vai trò của di truyền như thế nào trong sự phát triển tâm lí của con người thì có nhiều quan điểm khác nhau. 2, Tâm lý a, Khái niệm : " Tâm lý là sự phản sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, não có chức năng phản ánh nó. Sự phản ánh này có tính chất chủ thể và mang bản chất xã hội-lịch sử ". - Bản chất của hiện tượng tâm lý Trong đời sống hàng ngày chữ “tâm lý” dùng ở đây mới có thể mới được hiểu theo nghĩa hẹp, để chỉ thái độ, cách cư sử của con nguời. Để hiểu chính xác và khoa học tâm lý là gì, từng hiện tượng tâm lý nẩy sinh và phát triển ra sao, vận hành theo quy luật nào…, loài người đã phải trải qua một thời gian dài nghiên cứu, thử nghiệm; đã phải chứng kiến biét bao cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các khuynh hương khác nhau. Tóm lại tâm lý con người là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan, có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được nẩy sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó với các quan hệ xã hội lịch sử. - Tâm lý là bản chất của vật chất cao cấp Chủ nghĩa duy tâm cổ đại cho rằng, hiện tượng tâm lý là bản chất siêu hình đặc biệt của sinh vật và được gọi là linh hồn. Theo nhà triết học duy tâm cổ đại Hy lạp là Platon (427-347 trước công nguyên ), linh hồn là siêu hình và độc lập với thể xác; con người sống được là nhờ linh hồn liên hệ với thể xác. Khi con người sống, linh hồn là nguyên nhân sinh ra quá trình sống của cơ thể và nó truyền đạt tất cả các hiện tượng tâm lý vốn có của con người. Các nhà duy tâm khách quan, như G. Berkeley ( 1685 – 1753) cho rằng, thế giới ý niệm ra vạn vật, sinh ra thế giới vật chất. Còn các nhà duy tâm chủ quan cho rằng, vốn dĩ có thế giới vật chất, những vật chất cụ thể là do cảm giác của con người mà có. Thuyết linh hồn của Platon ở phương tây, thuyết tâm của đạo khổng phương đông đều tuyệt đối hóa thuộc tính tinh thần của tâm lý, hoàn toàn tách biệt tâm lý khỏi vật chất. Những người theo trường phái “nhị nguyên luận” như Decarte ( 1596 - 1650), đã dùng khái niệm phản xạ để giải thích các hoạt độngcủa cơ bắp đơn giản của động vật, của con người và cho rằng những hoạt động chủ định, có ý thức của con người và là do linh hồn điều khiển. Theo J.Lock tâm lý con người là những kinh nghiệm. Kinh nghiệm bên ngoài do tác động bên ngoài vào giác quan mà có; kinh nghiệm bên trong được sinh ra từ “ ý thức bên trong”, tự nó hoạt động, chỉ tự nó mới biết được nó. Quan niệm nhi nguyên là sự biến dạng của chủ nghiã duy tâm. Đối lập với quan điểm của chủ nghiã duy tâm là chủ nghĩa duy vật. Theo họ, trong vũ trụ bao la chỉ có vật chất là tồn tại mãi mãi và luôn luôn biến đổi, với những tính chất muôn hình muôn vẻ. Tâm lý không tồn tại ngoài vật chất. Quan điểm duy vật thô sơ cho rằng tâm lý là một thứ vật hoặc do các vật chất khác sinh ra như lửa, nước, không khí... Démocrit: Não là chỗ trú ngụ của linh hồn, là trung tâm hoạt động của tâm thần. Aristot (384-322 trước CN): Cảm giác do tác động của vật vào giác quan gây ra, tinh thần là chức năng của thân thể, thị giác là chức năng của mắt. Các nhà duy vật Trung Quốc đã từng dùng thuyết ngũ hành để giải thích nguồn gốc của vật chất (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Tuân Tử ( 315-230 trước CN) cho rằng: Thân thế con người sinh ra tinh thần và cái tốt, cái xấu ... đều nằm trong thân thế con người. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tâm lý là biểu hiện của vật chất, là sản phẩm dưới dạng đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người. Sự phát triển của tâm lý luôn gắn với sự phát triển của hệ thống thần kinh. Thế giới vật chất vận động và biến đổi không ngừng từ vô cơ thành thể hữu cơ, từ hữu cơ thành sự sống . Sự phát triển đó liên tục, ngày càng phức tạp, hoàn chỉnh dần và cuối cùng thành sự phản ảnh thế giới khách quan của những sinh vật có hệ thống thần kinh , có não bộ. Mặt khác, sự phản ánh của sinh vật với thế giới xung quanh cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Những sinh vật đầu tiên có bản tính kích thích, biến đổi để thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhờ đó cảm giác phát triển, đó chính là sự bắt đầu của phản ảnh tâm lý. Những phản ảnh ban đầu mang tính chung chung, đơn giản, sau đó phát triển dần thành những cảm giác chuyên biệt ( thị giác, thính giác , xúc giác…). Những sinh vật càng tiến hóa, hoạt động càng phức tạp thì phản ánh tâm lý của chúng càng phong phú và hoàn thiện, với những hình thức như: tưởng tượng, tư duy, xúc cảm, tình cảm…Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người. - Tâm lý có bản chất là phản xạ Hệ thần kinh động vật hoạt động theo cơ chế phản xạ. Những phản xạ này bao gồm các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.Phản xạ có điều kiện là cơ chế hoạt động của hệ thần kinh cao cấp, của vỏ não. Hoạt động của hệ thần kinh gắn liền với hoạt động nội tiết của cơ thể và vỏ não là bản chất thực tế bản chất tâm lý.Vì vậy, tất cả các hiện tượng tâm lý đều mang tính chất phản xạ. Các phản xạ được hình thành nhằm đáp ứng mọi kích thích của thế giới bên trong hoặc bên ngoài cơ thể. - Tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan Tâm lý có nội dung là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan. Sự phản ánh này là muôn màu muôn vẻ và phức tạp. Phản ảnh là một quá trình đi từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính rất phức tạp để nhận biết bản thân sự vật hiện tượng từ thuộc tính bên ngoài đến bản chất. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động trong không gian và thời gian và thường để lại những dấu vết của nó.Phản ánh tâm lý là những phản ánh đặc biệt tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới khách quan vào bộ óc con người (là vật chất được biến vào con người, là bản sao sinh động, sáng tạo, mang tính chủ thể, các chủ thể khác nhau phản ảnh khác nhau) Trong mối quan hệ qua lại với thế giới xung quanh, con người không chỉ nhận cảm, suy nghĩ, nhớ lại hoặc tưởng tượng ra mà còn thực hiện những hành động khác nhau gây nên những biến đổi thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên của mình. - Tâm lý con người có bản chất xã hội lịch sử Đây là điểm khác nhau giữa tâm lý người và tâm lý động vật. Con người khi sống trong xã hội lời người đã giao tiếp với nhau, cùng nhau lao động và phát triển xã hội.Tâm lý con người có bản chất xã hội lịch sử, phản ảnh sự hình thành và phát triển của lịch sử xã hội.Trong hoạt động, nhất là trong hoạt động sống, con người đã chuyển các hiện tượng tâm lý của mình vào những sản phẩm vật chất hoặc tinh thần. Ngược lại, khi con người sử dụng các sản phẩm, các công cụ lao động ... con người lại bóc tách những tinh túy tâm lý mà loài người, xã hội gửi gắm vào đó thành hiện tượng tâm lý của riêng mình. Vì vậy, trong mỗi hiện tượng tâm lý của con người đều mang dấu ấn của xã hội mà con người đang ssống và thay đổi theo lịch sử phát triển xã hội mà con người đã trải qua.Con người trên thực tế nếu thoát khỏi các mối quan hệ xã hội thì con người sẽ bị mất bản tính người. Tham gia vào sự hình thành và phát triển tâm lý con người có những yếu tố cơ bản sau: bẩm sinh, di truyền về mặt sinh học hoặc truyền lại cho nhau qua công cụ, đồ vật, hoạt động giao tiếp, giáo dục và tự giáo dục, điều kiện và hoàn cảnh sống… b, Đặc điểm : Hiện tượng tâm lý là hình ảnh của thế giới khách quan trong óc người. Là hiện tượng chủ quan nhưng là hình ảnh của hiện tại diễn ra ở thế giới bên trong của con người. Hiện tượng tâm lý có các đặc điểm: - Tính chủ thể Sự phản ánh tâm lý khác với sự phản ánh cơ giới vào sinh vật, bao giờ nó cũng mang dấu vết riêng của chủ thể phản ảnh. Mỗi chủ thể phản ảnh hiện tượng tâm lý đều thông qua kinh nghiệm, thái độ, xúc cảm riêng của chủ thể, phản ảnh trình độ nghề nghiệp, trí thức và tâm lý riêng của chủ thể. Tính chủ thể khiến cho hiện tượng tâm lý ngoài cái chung ra, còn luôn luôn mang màu sắc riêng của mỗi cá nhân. - Tính tổng thể của đời sống tâm lý Mọi hiện tượng tâm lý không đứng riêng lẻ mà luôn liên quan tới mọi hiện tượng tâm lý khác. Đời sống tâm lý của cá nhân là trọn vẹn và mỗi hiện tượng tâm lý cũng mang tính toàn vẹn, chủ thể.Mọi hiện tượng tâm lý đều có mối liên quan chặt chẽ đến nhau và chịu sự chỉ đạo tập trung của não bộ. - Sự thống nhất giữa hoạt động tâm lý bên trong và bên ngoài Tâm lý là hiện tượng thuộc về thế giới bên trong song có liên quan chặt chẽ với thế giới bên ngoài qua những sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài mà nó phản ảnh. Thông qua bản thể vật chất của nó là não bộ và những biểu hiện bên ngoài như hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ vẻ mặt dáng điệu... chúng ta có thể xét đoán được tâm lý bên trong. “Cùng trong một tiếng tơ đồng Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm” (Nguyễn Du) II. Mối quan hệ giữa di truyền và tâm lý 1.Quan điểm của các nhà tâm lý về mối quan hệ giữa di truyền và tâm lý chủ yếu được nghiên cứu trên trẻ em. Trong đó có những quan điểm sai lầm cho rằng những đặc điểm tâm lý là bẩm sinh, do tiềm năng sinh vật gây ra. Mọi đặc điểm tâm lý đều do tiền định, đều có sẵn trong các cấu trúc sinh vật. Sự phát triển của các thuộc tính đã có sẵn trong gen và được quyết định bằng con đương di truyền. Trong thời gian gần đây, người ta nói đến“ Mức độ bẩm sinh về sự trang bị về gen”, về những thuộc tính nhân cách của năng lực được chương trình hóa, mã hóa trong gen, đồng thời cũng chú ý tới yếu tố môi trường. Khi nghiên cứu về sự phát triển tâm lý trẻ em, có một số thuyết quan niệm sai lầm như sau: Thuyết tiền định: Thuyết này coi sự phát triển tâm lý là do các tiềm năng sinh vật gây ra, con người có tiềm năng này từ khi mới sinh ra và sự phát triển chỉ là sự trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và được quyết định bằng con đường di truyền này. Các nhà tâm lý học cho rằng: Những thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng được mã hóa, chương trình hóa trong các trang bị gen. Chẳng hạn S. Frớt cho rằng động lực phát triển tâm lý là các bản năng. J. Điuây cho rằng nhu cầu và các thuộc tính tâm lý được sắp sẵn trong gen. Các yếu tố di truyền quyết định giới hạn của giáo dục. Tuy nhiên, có những người theo thuyết này có đề cập đến yếu tố môi trường nhưng theo họ môi trường chỉ là “ yếu tố điều chỉnh”, “yếu tố thể hiện một nhân tố bất biến nào đó ở trẻ”. Một số nhà tâm lý học Mỹ đã sử dụng quan điểm của E. Toodai có từ những năm 20-30 của thế kỷ XX đã nói đến vai trò của giáo dục trong sự phát triển tâm lý người. Nhưng họ vẫn khẳng định rằng, tiềm năng sinh vật bẩm sinh đã đã quyết định trước giới hạn của sự phát triển tâm lý. Theo nhà tâm lý học E. Toocdai thì: “ Tự nhiên ban cho con người một vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất” và “vốn tự nhiên đó” đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó “ dù giảng dạy tốt”, số khác lại tỏ ra có thành tích “ dù giảng dạy tồi”... Từ quan điểm này làm cho con người mất lòng tin vào giáo dục, vào sự tu dưỡng và cải tạo bản thân. Họ cho rằng vai trò của giáo dục là thứ yếu, trẻ tốt hay xấu, học giỏi hay kém không phải do giáo dục mà do gen tốt hay gen xấu. Từ đó họ đi đến kết luận: “Trẻ em khó bảo, năng lực trí tuệ kém phát triển là do bẩm sinh chứ không phải do giáo dục, do môi trường”. Như vậy, vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp, giáo dục chỉ là yếu tố bên ngoài có khả năng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự nhiên, bị ức chế bởi tính di truyền. Và họ đã rút ra kết luận sai lầm: Mọi can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ đều là sự tùy tiện, không thể tha thứ. Thuyết duy cảm: Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của trẻ chỉ bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo các tác giả thuộc trường phái này thì: Môi trường là nhân tố tiền định sự phát triển của trẻ em. Xuất phát từ quan điểm triết học C. A. Henvêtiuyt cho rằng trẻ em ngay từ khi lọt lòng đã có những tiềm năng bẩm sinh như nhau, sự khác nhau về tâm lý là do tác động khác nhau của môi trường và của giáo dục chế ước một cách đầy đủ và tuyệt đối sự phát triển tâm lý. Các nhà tâm lý học tư sản hiểu môi trường xã hội một cách siêu hình bất biến và quyết định trước số phận con người. Con người như một yếu tố thụ động (trong đó có các nhà xã hội học Pháp như Đúychkhêm, Kanvac). Vì thế, họ cho rằng, muốn nghiên cứu con người chỉ cần nghiên cứu, phân tích môi trường mà con người sống. Mọi người sinh ra đều có sẳn những đặc điểm bẩm sinh như nhau để phát triển trí tuệ và đạo đức. Sự khác nhau giữa các cá nhân về điểm này hay khác là do ảnh hưởng của môi trường, ảnh hưởng của những tác động khác nhau. Với quan niệm như vậy, chúng ta không thể giải thích được vì sao trong một môi trường sống như nhau lại có những nhân cách khác nhau. Thuyết hội tụ hai yếu tố: Nhà di truyền học người Anh S. Auerbac cho rằng: “ Trình độ phát triển trí tuệ những năng lực chuyên biệt, những phẩm chất cá nhân – tất cả những cái đó là kết quả của sự tác động qua lại giữa yếu tố di truyền và yếu tố môi trường”. Nhà tâm lí học người Đức V. Stecnơ và nhà tâm lí học Mỹ Anataxi coi cả hai yếu tố di truyền và môi trường cùng quyết định sự phát triển tâm lí ở con người. Họ quan niệm rằng cả hai yếu tố này hội tụ lại cùng quyết định một cách máy móc sự phát triển tâm lí... Sự tác động qua lại giữa hai yếu tố này trực tiếp quyết định tâm lý, trong đó yếu tố di truyền giữ vai trò quyết định. Môi trường chỉ là điều kiện để biến những đặc điểm tâm lí đã được định sẵn trong gen di truyền thành hiện thực. Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của những năng lực, những nét tính cách, những hứng thú…mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc điểm tính cách do cha mẹ truyền lại cho trẻ dưới dạng sẵn có, bất biến... Một số người theo thuyết này có đề cập đễn vai trò của môi trường đối với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ em. Nhưng theo họ, môi trường không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn cảnh mà trẻ em sống mà chỉ là gia đình của trẻ… Ví dụ khi nghiên cứu những bệnh nhân dị thường về tính cách ( tâm lý) người ta thấy rằng một số trường hợp nguyên nhân chủ yếu thuộc về yếu tố bẩm sinh. Nhiều bác sĩ tâm thần học nhận thấy rằng những đặc điểm di truyền không thuận lợi có thể là nguyên nhân cơ bản gây nên bệnh thái tính cách ở bệnh nhân. Trong những trường hợp này đặc điểm tính cách thái quá có thể thấy ở những người cùng họ hàng như cha mẹ, anh chị em, chú bác... Tính cách đó thể hiện rất sớm ít thay đổi trong quá trình sống, nó vẫn diễn ra ngay cả khi con người được sống trong những điều kiện giáo dưỡng rất thuận lợi. Ví dụ về những quan điểm cho rằng cơ bản năng lực ( tâm lý) chịu sự quy định của các đặc điểm di truyền mà con người được thừa hưởng từ thế hệ bố mẹ. một trong những luận cứ được đưa ra là trong thực tế năng lực của các thiên tài thường bộc lộ từ rất sớm, chừng 3 – 4 tuổi. Hơn nữa, người ta thấy rằng sự phát triển tài năng về một lĩnh vực nào đó thường giới hạn trong độ tuổi nhất định. Ngoài ra những con số thống kê cho thấy dù trong những điều kiện sống và học tập như nhau, nhưng con cái của bố mẹ có tài trong lĩnh vực nào thường có năng lực về lĩnh vực đó. Người ta đã tiến hành so sánh năng lực của hai thế hệ con cái – bố mẹ ở những gia đình nhạ sĩ tài ba và thu được kết quả như sau: Con cái Bố mẹ Có năng khiếu âm nhạc rõ rệt Hoàn toàn không có năng khiếu âm nhạc Cả hai bố mẹ là nhạc sĩ 85% 7% Cả hai bố mẹ không là nhạc sĩ 25% 58% Những dữ liệu khoa học mang tính thuyết phục hơn chính là những kết quả trong một số công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học tư sản tiến hành trên trẻ song sinh. Qua các công trình nghiên cứu so sánh năng lực trí tuệ của trẻ song sinh cùng trứng và trẻ em thông thường người ta thấy rằng chỉ số năng lực của trẻ em song sinh cùng trứng thường giống nhau hơn so với chỉ số của trẻ em thông thường. 2.Di truyền không quyết định tới tâm li Như ta đã biết,đặc tính riêng của mỗi cá thể là sự biến đổi gen di truyền tạo nên số lương và chất lương khác nhau trong cấu tạo hình thể và trí tuệ của mỗi cá thể riêng biêt. Các cá thể ,ở đây là con người thì chúng ta cùng được di truyền lại từ tổ tiên những đặc tính cơ bản sau:dáng đứng thẳng,đi bằng hai chân,đôi tay linh hoạt,sự sắp xếp các vị trí và chức năng các bộ phân trong cơ thể người…………… Nhưng không bao giờ có sự trùng lặp giống nhau như những bản sao giữa hai cá thể ,thậm chí là sinh đôi cùng trứng. Với hai anh(chị)em sinh đôi cùng trứng,có thể giông nhau về phương diện giải phẫu do đươc di truyền từ cùng một tổ hợp gen trong quá trình thụ tinh.Tuy nhiên,cặp anh(chị)em này lai không có những biểu hiện tâm lí giống nhau khi cùng bị kích thích bởi cùng một hoat động.Chẳng hạn trong hoạt động thể thao,một người trong cặp sinh đôi này cười rất tươi khi nhận được lời mời tham gia thể thao=>tâm lí vui vẻ.Trong khi ở người còn lại không có biểu hiên này. +Nhưng với nhà tâm lí Đubinin,ông cho rằng bản chât xã hội của con người được thể hiện nhờ tính di truyền.Để truyền đạt nội dung của lĩnh vực này cho thế hệ sau bằng cách tạo ra một phương pháp kế thừa kinh nghiêm đặc biệt,đặc trưng cho riêng mình.Và bản chất xã hội của con người được di truyền theo kênh nào đó khác hơn so với thông tin di truyền được ghi trong phân tử AND. Quan điêm:Các yếu tố sinh học quyết định tất cả quá trình phát triển và mọi vấn đề trong hệ thống nhu cầu xã hội và các bảng giá trị đạo đức của con người được các nhà tâm lí như Langhe.Lorent,Uynxon,………tán thành. +Với Lorent,ông đã đưa ra ví dụ minh họa để chứng minh luận điểm của quan điểm trên là”tất cả những hoat động (hành vi)của con người là do bị qui định bởi chương trình gen di truyền từ tổ tiên của loài người”.Ông cho rằng,tổ tiên chúng ta và hắc tinh tinh cũng đã thủy chung với đồng loại của minh như ngỗng trời hay quạ nhỏ,như chó sói hay loài công.Không nghi ngờ rằng,anh ta cũng coi thường cái chết,sẵn sàng dâng hiến cuộc sống của mình,bảo vệ cộng đồng của mình,đối xử thận trọng với những thành viên nhỏ tuổi và cũng có những ngăn cấm sát nhân như tất cả các loài động vật này.Và chúng ta cũng thừa hưởng trọn vẹn những bản năng súc vật tương ứng ấy”.Ví dụ la:ông mô tả hành vi của người lần đầu tiên nắm hòn đá trong tay cũng như đứa trẻ lên ba cũng không ngần ngại choảng vào đầu đối phương sau khi lam anh ta tức giận.Theo ông,nếu bản chất của con người là sự hiếu chiến ,hay nói cách khác,sự xâm lăng được ghi trong gen di truyền thì nó có bôcj lộ ngay trong mối quan hệ với những người thân thuộc thâm chí với chính bản thân mình. +Với Moris,thì con người chỉ là một con vượn biết nói.khuynh hướng giết hại lẫn nhau ở con người là có nguồn gốc từ động vật. 3.Di truyền là yếu tố ảnh hưởng tới tâm li ở con người Như ta đã biết,gen là nhân tố quyết định sự di truyền.Từ đó,ta có thể thấy,gen là yếu tố ảnh hưởng tới tâm lí con người.Những nghiên cứu về vấn đề này khẳng định rằng:Tâm lí của con người tuy hình thành trong quá trình sống và chịu sự qui định của các điều kiện sống cũng như hoạt động sống của con người nhưng nó có cơ sở là gen. +Nhiều tác giả đã quan sát thấy rằng:có cùng phả hệ tương thích thì thường có tính cách khá giống nhau.Những người có cùng thể trạng cững thường có những tính cách bát thường như nhau.Đặc biệt những nghiên cứu so sánh tính cách ở những người song sinh cũng khẳng định.Trong một nghiên cứu về trẻ song sinh,người ta đã so sánh các nét tính cách của trẻ sinh ra cùng trứng nhưng bị tách biệt từ nhỏ và được nuôi dưỡng riêng rẽ với những đứa trẻ anh em được nuôi dưỡng cùng nhau. Hệ số tương quan về đặc điểm tính cách của những cặp trẻ sinh ra cùng trứng và trẻ anh em bình thường. 1 2 Độ bền vững của tình cảm Tinh hướng ngoại_nội Trẻ cùng trứng,nuôi riêng rẽ 0.53 0.61 Anh em thông thường,nuôi cùng nhau 0.11 0.17 1:Mức độ quan hệ,điều kiện môi trường 2:Đặc điểm tính cách =>từ bảng trên ta thấy,hệ số tính cách của những cặp anh em bình thường được nuôi cùng nhau vẫn thấp hơn hẳn hệ số của cặp trẻ sinh cung trứng=>Tính cách hay tâm lí bị chi phối bởi gen. +Có nhiêu nghiên cứu quan tâm tới mức độ ảnh hưởng của gen đối với tâm lí nói chung.(sự hình thành và phát triển các đặc điểm tâm lí).Kết quả nghiên cứu thì không đồng nhất.Trên cơ sở nghiên cứu của nhiêu tác giả đã đi tới kết luận rằng:”Vai trò của gen đối với quá trình phát triển các đặc điểm tâm lí con người tăng lên cùng với lứa tuổi và đạt đươc nhịp độ tăng lớn nhất vào lúc đứa trẻ chuyển từ giai đoạn tuổi thơ(0-3 tuổi) sang tuổi mẫu giáo(3-6 tuổi). +Một số khác lại có những nghiên cứu tìm hiểu về mối quan hệ giữa cấu tạo gen và các hành động hung hãn của con người và đã rút ra được một số kết quả sau: .Phân tích gen của nhiều phạm nhân và các bệnh nhân có tính hung hãn,các nhà khoa học làm việc trong cơ quan an ninh của nhiều nước đã thu được kết quả bất ngờ:Ở những phạm nhân và bệnh nhân này trên các nhiễm sắc thể thường thừa ra một nhiễm sắc thể bất bình thường kí hiệu là Y47.Sự hiện diện của nhiễm sắc thể này có liên quan tới tính hung hãn của các bệnh nhân. .Nghiên cứu những bệnh nhân dị thương về tính cách người ta thây rằng trong một số trường hợp,nguyên nhân chủ yếu thuộc về các yếu tố bẩm sinh.Nhiều bác sĩ tâm thần học nhận thấy rằng những đặc điểm di truyền không thuận lợi có thể là nguyên nhân cơ bản gây nên bệnh thái tính cách ở bệnh nhân.Trong những trường hợp này .đặc điểm tính cách thái quá có thể thấy ở những người cùng dòng họ như cha mẹ,anh em…… 4.Yếu tố sinh lí cũng bị thay đổi trong đời sống tâm lí Như trên,chúng ta đã thấy rõ vai tro của di truyên trong sự hình thành và phát triển tâm lí của con người.Mặt khác tâm lí cũng có tác động trở lại với di truyền. Chúng ta đã bíêt,những đặc điểm giải phẫu sinh lý của cơ thể – Cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý bao gầm những yếu tố do di truyền tạo nên và cả những yêu tố riêng tự tạo ra trong đời sống cá thể sinh vật. Tuy nhiên, chính yêu tố sinh lý cũng bị thay đổi trong đời sống tâm lý con người Thật vậy, sinh vật học hiện đại chứng minh rằng bản thân sinh lý, di truyền cũng bị biến đổi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_tam_ly_dai_cuong_5337.doc