Đặc điểm cơbản của hiện tượng đứng im tương đối (hay trạng thái cân 
bằng tạm thời của sựvật trong quá trình vận động của nó) là trước hết hiện 
tượng đứng im tương đối chỉxảy ra trong một mối quan hệnhất định chứ
không phải trong mọi mối quan hệcùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là 
trong mối quan hệbến cảng, còn so với mặt trời và các thiên thểkhác thì nó 
vận động theo sựvận động của quả đất. Thứhai, đứng im chỉxảy ra với một 
hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứkhông phải với mọi hình thức 
vận động trong cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là nói vận động cơhọc, 
nhưng ngay lúc đó thì vận động vật lý, vận động hoá học cứdiễn ra trong bản 
thân nó. Thứba, đứng im chỉbiểu hiện trạng thái vận động của nó, đó là vận 
động trong thăng bằng trong sự ổn định tương đối biểu hiện thành một sựvật, 
một cây, một con trong khi nó còn là nó chưa bịphân hoá thành cái khác. 
Chính nhờtrạng thái ổn định đó mà sựvật thực hiện được di chuyển hoá tiếp 
theo, không có đứng im tương đối thì không có sựvật nào cả. Do đó đứng im 
còn được biểu hiện nhưmột quá trình vận động trong phạm vi chất của sựvật 
còn ổn định, chưa thay đổi. Thứtư, là vận dộng ổn định nào đó, còn vận động 
nói chung tức là sựtác động qua lại lẫn nhau giữa sựvật và hiện tượng làm 
cho tất cảkhông ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉlà một hiện tượng tạm 
thời. Ph.Anghen chỉrõ: "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân 
bằng, vận động toàn bộphá hoại sựcân bằng riêng biệt" và "mọi sựcân bằng 
chỉlà tương đối và tạm thời".
              
                                            
                                
            
 
            
                 17 trang
17 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1735 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm của Mác - Ănghen về vật chất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h thức vận động cao vào các hình thức vận động 
thấp và ngược lại. Ví dụ từ giữa thế kỷ XIX, những người theo chủ nghĩa 
Đacuyn xã hội" muốn quy vận động vật chất thành vận động sinh học, xem 
con người như một sinh vật thông thường giải thích hoạt động của xã hội loài 
người trong phạm vi tác động của quy luật sinh học là đấu tranh để sinh tồn. 
Họ cho rằng đấu tranh để sinh tồn dẫn đến tiêu diệt lẫn nhau trong xã hội loài 
người là một hiện tượng tự nhiên. Về cơ bản, chủ nghĩa "Đacuyn xã hội" là 
một học thuyết phản động nó đã cực đoan hoá và làm méo mó học thuyết tiến 
hoá của Đacuyn. Nguyên nhân chính tạo ra sai lầm này là những người theo 
học thuyết đó không thấy được sự khác nhau về trình độ giữa vận động sinh 
học và vận động xã hội, họ quy giản một cách gượng ép vận động xã hội về 
vận động sinh học. 
Khi triết học Mác Lênin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự 
vận động vĩnh cửu của nó thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng 
Tiểu luận triết học 
 13
đứng im của thế giới vật chất. Trái lại triết học Mác - Lênin thừa nhận rằng, 
quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại 
trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối, không có hiện 
tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được. "Trong vận 
động của các thiên thể, có vận động trong cân bằng và có vận động trong vận 
động. Nhưng bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào (…) cũng đều có xu 
hướng khôi phục lại sự đứng yên tương đối của các vật thể khả năng cân bằng 
tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất. 
Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối (hay trạng thái cân 
bằng tạm thời của sự vật trong quá trình vận động của nó) là trước hết hiện 
tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ 
không phải trong mọi mối quan hệ cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là 
trong mối quan hệ bến cảng, còn so với mặt trời và các thiên thể khác thì nó 
vận động theo sự vận động của quả đất. Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một 
hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức 
vận động trong cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là nói vận động cơ học, 
nhưng ngay lúc đó thì vận động vật lý, vận động hoá học cứ diễn ra trong bản 
thân nó. Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện trạng thái vận động của nó, đó là vận 
động trong thăng bằng trong sự ổn định tương đối biểu hiện thành một sự vật, 
một cây, một con… trong khi nó còn là nó chưa bị phân hoá thành cái khác. 
Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được di chuyển hoá tiếp 
theo, không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào cả. Do đó đứng im 
còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật 
còn ổn định, chưa thay đổi. Thứ tư, là vận dộng ổn định nào đó, còn vận động 
nói chung tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm 
cho tất cả không ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉ là một hiện tượng tạm 
thời. Ph.Anghen chỉ rõ: "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân 
bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt" và "mọi sự cân bằng 
chỉ là tương đối và tạm thời". 
Tiểu luận triết học 
 14
3. Không gian và thời gian 
Trong triết học Mác Lênin cùng với phạm trù vận động thì không gian 
và thời gian là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật 
chất. VI.Lênin đã nhận xét rằng: "trong thế giới không có gì ngoài vật chất 
đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài 
thời gian và không gian"1. 
Trong lịch sử triết học khái niệm thời gian và không gian là những 
phạm trù xuất hiện rất sớm. Ngay thời xa xưa người ta đã hiểu rằng bất kỳ 
khách thể vật chất nào đều chiếm một vị trí nhất định ở một khung cảnh nhất 
định trong tương quan về mặt kích thước so với khách thể. Các hình thức tồn 
tại như vậy của vật thể được gọi là không gian. Bên cạnh các quan hệ không 
gian, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biều hiện ở mức độ tồn tại 
lâu dài hay mau chóng của hiện tượng ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng 
của hiện tượng ở sự kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động. Những 
thuộc tính này được đặc trưng bằng phạm trù thời gian. 
Tuy vậy trong lịch sử triết học xung quanh các phạm trù không gian và 
thời gian đã từng có rất nhiều vấn đề gây tranh cãi, trong đó điều quan tâm 
trước hết là không gian và thời gian có hiện thực không hay đó chỉ là những 
trừu tượng đơn thuần chỉ tồn tại trong ý thức của con người. Những người 
theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan của không gian và thời 
gian. Chẳng hạn Beccơli và Hium con thời gian và không gian chỉ là nội dung 
của ý thức cá nhân. Cantơ coi không gian và thời gian chỉ là hình thức của sự 
trực quan của con người chứ không phải là thực tại khách quan. 
Vào thế kỷ XVII - XVIII các nhà duy vật siêu hình tập trung phân tích 
các khách thể vĩ mô, vận động trong tốc độ thông thường nên đã tách rời 
không gian và thời gian với vật chất. Niutơn cho rằng không gian và thời gian 
là những thực thể đạc biệt không gắn bó gì với nhau và tồn tại độc lập bên 
cạnh vật chất còn tương tự như các vật tồn tại độc lập bên cạnh nhau. 
1 VI.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ Matxcơva 
Tiểu luận triết học 
 15
Trên cơ sở các thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật 
biện chứng cho rằng không gian và thời gian là những hình thức tồn tại khách 
quan của vật chất. Không gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau 
và gắn liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó có nghĩa 
là không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời 
gian. Ngược lại, cũng không thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật 
chất. Ph.Angen viết: "các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và 
thời gian, tồn tại ngoài thời gian thì cũng vô lý như tồn tại ngoài không gian"1. 
Lênin cho rằng để chống lại mọi chủ nghĩa tín ngưỡng và chủ nghĩa duy tâm 
thì phải "thừa nhận một cách dứt khoát kiên quyết rằng những khái niệm đang 
phát triển của chúng ta về không gian và thời gian đều phản ánh thời gian và 
không gian thực tại khách quan, kinh nghiệm của chúng ta và nhận thức của 
chúng ta ngày càng thích ứng với không gian và thời gian khách quan, ngày 
càng phản ánh đúng đắn hơn và sâu sắc hơn"2. 
Quan điểm của triết học duy vật biện chứng như trên được xác nhận bởi 
những thành tựu khoa học tự nhiên. Chẳng hạn Lôbatxépxki trong hình học 
phi Ơcơlit của mình, bằng con đường hướng vào bản thân thực tại và vào bản 
thân của sự vật ông đã nêu lên định đề thứ 5 khác với Ơcơlit rằng: "Qua một 
điểm ở ngoài đường thẳng người ta có thể kẻ không phải là một mà ít nhất là 
hai đường thẳng song song với đường thẳng đó". Sự phát triển của hình học 
phi Ơcơlit đã bác bỏ tư tưởng Cantơ về không gian và thời gian coi như là 
những hình thức của tri giác cảm tính ngoài kinh nghiệm Thuyết tương đối 
của Anhxtanh đã xác nhận rằng, không gian và thời gian không tự nó tồn tại, 
tách rời vật chất mà nằm trong mối liên hệ qua lại phổ biến không thể phân 
chia. Như vậy không gian và thời gian có những tính chất sau đây: 
1 Các Mác và Anghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1994 
2 VI.Lênin: toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 1980 
Tiểu luận triết học 
 16
Tính khách quan, nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật 
chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách 
quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan. 
Tính vĩnh cửu và vô tận nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, 
cả về quá khứ tương lai cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về bên phải lẫn bên 
trái, cả về phía trên lẫn phía dưới. 
Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao). Còn 
thời gian chỉ có một chiều từ quá khứ đến tương lai. Khái niệm không gian 
nhiều chiều mà ta thường thấy trong khoa học hiện nay là một trừu tượng 
khoa học dùng để chỉ tập hợp một số đại lượng đặc trưng cho các thuộc tính 
khác nhau của khách thể nghiên cứu và tuân theo những quy tắc biến đổi nhất 
định. Đó là một công cụ toán học để hỗ trợ dùng trong quá trình nghiên cứu 
chứ không phải để chỉ không gian thực, không gian thực chỉ có ba chiều. 
Tiểu luận triết học 
 17
Kết luận 
Tổng kết lại ta thấy được rằng từ lúc mới xuất hiện, phạm trù vật chất 
đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ 
nghĩ duy tâm. Phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với con 
người. Quan niệm về vật chất ở thời kỳ cận đại và cổ đại Tây âu và trong triết 
học Mác - Lênin là rất khác nhau. ở thời kỳ cận đại Tây Âu đặc biệt là ở thế 
kỷ 17- 18 khoa học châu Âu phát triển khá mạnh. Do đó chủ nghĩa duy vật 
nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có những bước phát triển mới 
chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Theo quan niệm của Lênin thì vật chất là 
một phạm trù rộng lớn, do đó chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong 
quan hệ với ý thức. Đó chính là phạm trù vận động không gian và thời gian. 
Như vậy ta có thể thấy được rằng vật chất là một phạm trù tồn tại từ rất lâu và 
luôn luôn phát triển với yếu tố con người. 
Chính vì tính cấp thiết và sự quan trọng của nó mà em đã chọn đề tài: 
"Quan điểm của Mác - Ănghen về vật chất" làm đề tài bài viết tiểu luận triết 
học của mình. Trong quá trình làm bài viết này chắc chắn không thể tránh 
khỏi sai sót, rất mong được thầy góp ý và đánh giá. 
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô! 
Sinh viên 
Nguyễn Công Xuân 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 t129_9401.pdf t129_9401.pdf