I. LÝ LUẬN
1. Khái niệm Xã hội dân sự
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về xã hội dân sự. Trong khuôn khổ bài thuyết 
trình hôm nay, nhóm xin giới thiệu 2 khái niệm về xã hội dân sự như sau:
- Theo Civicus (Liên hội Quốc tế Các Tổ chức Xã hội Dân sự) định nghĩa thì 
“xã hội dân sự là lãnh vực, ở bên ngoài gia đình, nhà nước, và thị trường, nơi 
người dân kết hợp hoạt động nhằm thăng tiến các lợi ích chung”
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1699 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Xã hội dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận xã hội dân sự 
I. LÝ LUẬN 
1. Khái niệm Xã hội dân sự 
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về xã hội dân sự. Trong khuôn khổ bài thuyết 
trình hôm nay, nhóm xin giới thiệu 2 khái niệm về xã hội dân sự như sau: 
- Theo Civicus (Liên hội Quốc tế Các Tổ chức Xã hội Dân sự) định nghĩa thì 
“xã hội dân sự là lãnh vực, ở bên ngoài gia đình, nhà nước, và thị trường, nơi 
người dân kết hợp hoạt động nhằm thăng tiến các lợi ích chung”. 
- GS. TS ĐẶNG NGỌC DINH - viện trưởng Viện Những vấn đề phát triển 
(VIDS): đó là các tổ chức xã hội nằm ngoài Nhà nước, nằm ngoài các hoạt động 
của doanh nghiệp (thị trường), nằm ngoài gia đình, để liên kết người dân với nhau 
trong những hoạt động vì một mục đích chung. Như vậy, thành phần quan trọng 
của XHDS là các hội, hiệp hội trong dân chúng, trong làng xóm, mang tính chất 
liên kết cộng đồng. 
Khái niệm “xã hội dân sự” ra đời từ cuối thế kỷ XVIII, đầu XIX nhằm phân biệt 
giữa xã hội chính trị (tức là nhà nước, vốn có chức năng bao trùm toàn xã hội) với 
mạng lưới dày đặc các mối quan hệ cá nhân, nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá 
nhân cực kỳ phức tạp, đa dạng. Mạng lưới dày đặc đó chính là xã hội dân sự. 
Thoạt đầu, ý tưởng về “xã hội dân sự” và “xã hội công dân” gần như đồng nhất, 
nhưng dần dần hai khái niệm ấy tách khỏi nhau vì trong tiến trình phát triển, người 
ta ngày càng thấy rõ rằng người công dân, đồng thời cũng là con người, với tất cả 
những đặc tính phong phú của nó. Cho nên, không thể quy toàn bộ tính phong phú 
ấy vào trong khái niệm “công dân”. Cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã 
hội..., vai trò của cá nhân ngày càng được nổi bật, ngày càng được tôn trọng. Theo 
đó, vai trò của xã hội dân sự càng được xác lập, đặc biệt là từ thập kỷ 70 của thế 
kỷ XX trở đi. 
“Xã hội dân sự” ra đời ở phương Tây, sau cách mạng công nghiệp và cách mạng 
dân chủ tư sản Pháp, nhằm phân biệt giữa “xã hội chính trị” (tức là “nhà nước”) 
với những cái không phải là nhà nước, tức là không thuộc vào “xã hội chính trị”. 
Hegel, tác giả của “Nguyên lý triết học về pháp quyền” là một trong những người 
đầu tiên phân biệt rõ xã hội dân sự và nhà nước được trình bày trong tác phẩm 
ấy. 
“Xã hội dân sự” nằm ngoài nhà nước, là một mạng lưới dày đặc các mối tương tác 
và trao đổi giữa những cá nhân, nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá nhân theo 
những cách riêng tùy theo nhu cầu và sở thích riêng trong mối quan hệ với cộng 
đồng. Cần phải có sự phân biệt đó, vì ở phương Tây, Nhà nước lúc đầu chính là xã 
hội, vì thế mới có khái niệm “xã hội chính trị”. Đó là xã hội của con người, được 
hình thành do hoạt động đặc trưng của con người, thiết lập những mối quan hệ 
giữa người và người, giữa những của cải của họ, bằng cách tạo ra một hình thức 
cai trị, hình thành những mối quan hệ giữa những người cai trị và những người 
bị cai trị. Đấy là Nhà nước, và Nhà nước với đặc điểm như vậy thì bao trùm toàn 
xã hội. 
Đến thời Phục hưng, người ta dần dần phân biệt cộng đồng tôn giáo và cộng đồng 
chính trị. Nhà thờ tách khỏi Nhà nước. Rồi tiếp đến, sau cách mạng dân chủ tư sản 
Pháp, tiến thêm một bước nữa, tách “xã hội dân sự” ra khỏi “xã hội chính trị” tức 
là Nhà nước. Điều này đánh dấu một bước phát triển của những thành tựu về dân 
chủ mà xã hội đạt được theo hướng “dân chủ hóa xã hội” nhằm thu hẹp và giảm 
bớt quyền hành của bộ máy nhà nước. Gần đây có ý kiến nhấn mạnh rằng: “Xã hội 
dân sự” xác định một “lĩnh vực tư” khác với “lĩnh vực công” mà guồng máy nhà 
nước phụ trách. Cả hai sự phát triển song hành đó đều dựa trên tinh thần đề cao 
quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân, tức là lĩnh vực tư, bên ngoài lĩnh vực công 
do nhà nước phụ trách” . 
Cho đến nay, khái niệm “xã hội dân sự” vẫn đang còn nhiều tranh cãi. Xã hội dân 
sự nổi bật lên với nhiều tác dụng nhưng tóm tắt lại, điều quan trọng nhất cần hiểu 
rõ, thì đó chính là đối tác bình đẳng của Nhà nước chứ không phải là cái đuôi 
của Nhà nước. Nó giữ vai trò là “đối quyền của quyền lực Nhà nước”, mà về 
thực chất, là tạo điều kiện để người dân thực sự tham gia vào việc hoạch định, 
thực hiện và giám sát các chủ trương và chính sách của Nhà nước, thực hiện trách 
nhiệm phản biện xã hội đối Nhà nước, kể cả phẩm chất và hành vi của viên chức 
Nhà nước. 
Đặc điểm Xã hội dân sự 
Xã hội dân sự là nơi mà mọi người cùng hành động theo đuổi mục tiêu chung, 
không vì động cơ lợi nhuận hay quyền lực chính trị. Hình thức tồn tại của nó bao 
gồm các tổ chức hội, hiệp hội, liên hiệp hội, đoàn thể, mạng lưới, các tổ chức xã 
hội, các phong trào, v.v., có các đặc điểm cơ bản như sau: 
- Tự nguyện: các thành viên có thể tham gia và không tham gia tự nguyện vào tổ 
chức, phong trào, trong quá trình đó không có sự ép buộc hay cưỡng bức hành 
chính như các qui định luật pháp của nhà nước. Đặc điểm này phân biệt sự khác 
nhau giữa các tổ chức xã hội dân sự và nhà nước. Nó mang tính phi chính phủ: tồn 
tại độc lập với nhà nước và trên cơ sở tự nguyện của người dân, trong khi nhà 
nước sử dụng các biện pháp hành chính và cưỡng chế. 
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm: Trong quá trình hoạt động của mình, các tổ chức 
xã hội dân sự hoạt động độc lập với nhà nước, trong khuôn khổ pháp luật, không 
chịu sự chi phối và can thiệp của các tổ chức khác kể cả nhà nước, cho dù tổ chức 
này có nhận tiền tài trợ của nhà nước hay không. 
- Không vì mục tiêu lợi nhuận: các tổ chức này thường có thể thu lợi nhuận 
nhưng không chia cho các cá nhân mà đem phần lợi nhuận đó để phục vụ các mục 
tiêu xã hội. Phi lợi nhuận khi nó không tham gia vào các hoạt động kinh doanh lợi 
nhuận, còn không vì mục tiêu lợi nhuận khi nó có thể tham gia vào kinh doanh để 
có lợi nhuận, nhưng lợi nhuận tìm kiếm được không phải để phục vụ cá nhân, mà 
phục vụ xã hội. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt giữa tổ chức xã hội dân sự 
và các doanh nghiệp, vì mục tiêu của các doanh nghiệp là lợi nhuận cho các cá 
nhân. 
- Nguồn tài chính đa dạng từ hỗ trợ của nhà nước, hội phí, hoạt động kinh doanh, 
đóng góp cá nhân. 
Xã hội dân sự là nơi mà mọi người cùng hành động theo đuổi mục tiêu chung, 
không vì động cơ lợi nhuận hay quyền lực chính trị. Hình thức tồn tại của nó bao 
gồm các tổ chức hội, hiệp hội, liên hiệp hội, đoàn thể, mạng lưới, các tổ chức xã 
hội, các phong trào, v.v., có các đặc điểm cơ bản như sau: 
- Tự nguyện: các thành viên có thể tham gia và không tham gia tự nguyện vào tổ 
chức, phong trào, trong quá trình đó không có sự ép buộc hay cưỡng bức hành 
chính như các qui định luật pháp của nhà nước. Đặc điểm này phân biệt sự khác 
nhau giữa các tổ chức xã hội dân sự và nhà nước. Nó mang tính phi chính phủ: tồn 
tại độc lập với nhà nước và trên cơ sở tự nguyện của người dân, trong khi nhà 
nước sử dụng các biện pháp hành chính và cưỡng chế. 
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm: Trong quá trình hoạt động của mình, các tổ chức 
xã hội dân sự hoạt động độc lập với nhà nước, trong khuôn khổ pháp luật, không 
chịu sự chi phối và can thiệp của các tổ chức khác kể cả nhà nước, cho dù tổ chức 
này có nhận tiền tài trợ của nhà nước hay không. 
- Không vì mục tiêu lợi nhuận: các tổ chức này thường có thể thu lợi nhuận 
nhưng không chia cho các cá nhân mà đem phần lợi nhuận đó để phục vụ các mục 
tiêu xã hội. Phi lợi nhuận khi nó không tham gia vào các hoạt động kinh doanh lợi 
nhuận, còn không vì mục tiêu lợi nhuận khi nó có thể tham gia vào kinh doanh để 
có lợi nhuận, nhưng lợi nhuận tìm kiếm được không phải để phục vụ cá nhân, mà 
phục vụ xã hội. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt giữa tổ chức xã hội dân sự 
và các doanh nghiệp, vì mục tiêu của các doanh nghiệp là lợi nhuận cho các cá 
nhân. 
- Nguồn tài chính đa dạng từ hỗ trợ của nhà nước, hội phí, hoạt động kinh doanh, 
đóng góp cá nhân. 
Các dạng tổ chức của xã hội dân sự: 
Có 3 hình thức cơ bản của các tổ chức Xã hội dân sự: 
- Các hội: là các tổ chức XHDS có thành viên, các thành viên này chính là hội 
đồng quản trị có quyền hạn cao nhất đối với tổ chức. Hội có thể thành lập nhằm 
mục tiêu phục vụ cho xã hội hoặc trực tiếp phục vụ cho lợi ích của các thành viên. 
Thông thường có các điều khoản yêu cầu số lượng thành viên tối thiểu mới được 
thành lập hội. 
- Các quĩ: là các tổ chức XHDS không có thành viên được quản lý bởi hội đồng 
quản trị do người sáng lập chỉ định. Quĩ chủ động hoạt động theo điều lệ và chiến 
lược, kế hoạch đặt ra. Các quĩ thường là các tổ chức có chức năng cung cấp các 
nguồn tài trợ theo mục tiêu đặt ra. 
- Các tổ chức phi chính phủ cũng là loại hình các tổ chức xã hội dân sự chủ yếu 
cung cấp dịch vụ công, vận động tài trợ và có thể làm các dịch vụ để có các khoản 
thu nhập cho hoạt động của mình. 
Mối quan hệ tương tác giữa xã hội dân sự với Nhà nước và Thị trường 
- Thị trường: Có thể nói một cách khai quát, Thị trường (về tổng thể) nó như con 
ngựa hay nhưng bất kham , trên đó Nhà nước và XHDS cùng cưỡi. Khi cưỡi lên 
lưng ngựa rồi, thì mọi người, kể cả các nhà lãnh đạo cao nhất của mỗi nước, sau 
khi đi ra khỏi nhiệm sở, rồi cũng đều cùng mọi người cưỡi trên lưng con ngựa 
này. Vì vậy, bất kể ai, về mặt nào đó, sẽ đều cùng một số phận như nhau, cùng là 
người dân, nghĩa là đều phải cùng nhau hiểu và biết điều khiển cho tốt Con tuấn 
mã Thị trường. 
Các nhà doanh nghiệp luôn năng động, sáng tạo để đảm bảo thuộc tính Tự chủ 
hành động, hiệu quả và lợi nhuận cao nhất, đồng thời luôn thiên về mục tiêu ngắn 
hạn và giành phần lợi ích lớn hơn không giới hạn (cho giới chủ, cho nhà tư bản); 
Vì các doanh nghiệp hoạt động nhằm mục tiêu ưu tiên là lợi nhuận, do đó thường 
chú ý vận dụng phương châm "hái quả ngọt ăn trước", do đó, thậm chí nhiều khi 
trà đạp (cố ý hoặc vô ý thức) lên quyền lợi của số đông người lao động và người 
tiêu dùng. Mặc dầu các doanh nghiệp thời nay đã nhận thức được các nhiệm vụ 
mục tiêu xã hội, song động lực lợi nhuận vẫn luôn luôn chiếm ưu thế. Đó là thuộc 
tính và hệ quả của cơ chế thị trường gắn với họ. Vì vậy phải có cơ chế hãm phanh, 
đối trọng, cân chỉnh lại hành động tự do bóc lột nhiều khi theo bản chất CON nói 
trên của Thị trường. 
- Về Nhà nước: Nhà nước lý tưởng là cần phải làm tốt hai chức năng chủ yếu: 
Xây dưng luật và quản lý, cưỡng bức thi hành luật, đảm bảo cho quyền lợi và 
nghĩa vụ công dân phải được thực thi; hai là điều hoà, điều tiết các hoạt động xã 
hội, trong đó quan trọng là điều tiết thu nhập để đảm bảo bình đẳng xã hội. Nhà 
nước luôn phải đổi mới để thực thi cho tốt nghĩa vụ, tổ chức tốt xã hội và thị 
trường , cầm cân, nảy mực, kiểm tra, kiểm soát thị trường và điều tiết quan hệ 
giữa Thị trường và XHDS. Nhà nước phải ngăn chặn xã hội khỏi trạng thái tư do 
hoang dã, chỉ quay cuồng vì hiệu quả cao và lợi nhuận lớn, hoặc ngược lại, trì trệ, 
giữ gìn bình đẳng xã hội trong thiếu thốn, nghèo hèn. Nhà nước lý tưởng đã từng 
được nhân dân kỳ vọng hết mức, coi như hiện thân của công lý trước thiên hạ, 
đồng thời lại được coi là nô bộc của dân. Đứng giữa thị trường, mà đại diện là các 
lực lượng kinh tế hùng mạnh các loại, và XHDS, mà chủ yếu là những người lao 
động ăn lương và tiêu thụ, Nhà nước – con người thường trao đảo, thậm trí trục 
lợi, tham lam, vị kỷ, rất nhiều khi quá thiên về ủng hộ các lực lượng mạnh về kinh 
tế, làm thiệt hại quyền lợi quảng đại quần chúng lao động và cộng đồng dân cư. 
Trước đây, hiện nay đều như vậy. Đây chính là chỗ yếu, thuộc căn tính chao đảo 
của nhà nước- con người, cần có một lực lượng thứ ba - XHDS - để giúp cân chỉnh 
lại chính cán cân công lý, tức là cũng cần xây dựng Đối quyền cho Nhà nước. 
- Về Xã hội dân sự: XHDS như đã biết, là tập hợp tất cả cư dân của một nước, 
hay của khu vực và cả thế giới không nằm trong xã hội chính sự và những tập 
đoàn quyền lực các loại. Có thể nói một cách nôm na: XHDS không bao hàm vào 
mình những Nhà cầm quyền và các nhà Tài phiệt. Vì vậy XHDS có thuộc tính đấu 
tranh cho Bình đẳng và Dân chủ trong quản lý xã hội, thích hợp với hoàn cảnh đã 
thay đổi, luôn thiên về mục tiêu lâu dài và đấu tranh cho quyền lợi của cộng đồng. 
Bản chất của XHDS và những tập đoàn quyền lực các loại, trong đó chủ yếu là lực 
lượng thị trường, thường trái ngược nhau, do đó XHDS, ngoài chức năng đối tác, 
phải thực thi trách nhiệm Đối trọng, trước hết là với Thị trường để đảm bảo công 
bằng cho các nhóm lợi ích khác nhau, trong đó có nhóm những người làm thuê và 
tiêu thụ, và bảo vệ những tầng lớp dễ bị tổn thương trong xã hội. Vì vậy XHDS 
được coi như cái chân thứ ba của cái kiềng ba chân của xã hội loài người: Nhà 
nước - Thị trường - XHDS. XHDS có quyền được thông báo mọi thông tin thuộc 
nhà nước và thị trường để có thể phản biện, tư vấn, kiểm tra, kiểm soát, thực hiện 
đối quyền với Nhà nước và Thị trường các cấp (quốc gia, khu vực và toàn cầu) từ 
khi các chính sách và quyết định còn đang trong quá trình hình thành. XHDS, qua 
những hoạt động trong "Toàn cầu hoá ngoài luồng", thực sự đã là một lực lượng 
đối trọng, một đối quyền tự nhiên cực kỳ cần thiết của Nhà nước và Thị trương 
toàn cầu. 
Thực tiễn và Đánh giá về Xã hội dân sự ở Việt Nam 
Theo phương pháp của Liên minh Thế giới về sự Tham gia của người dân 
(CIVICUS), đánh giá về xã hội dân sự thường được tiếp cận dưới dạng một mô 
hình hình thoi với bốn đỉnh, đó là cấu trúc, môi trường, các giá trị và cuối cùng là 
tác động của xã hội dân sự đối với đời sống xã hội. 
Hình 1: Hình thoi Xã hội dân sự, Việt Nam 
Về cấu trúc, đây là phương diện mô tả về quy mô tổng thể, sức mạnh và mức độ 
lan rộng của xã hội dân sự. Bao gồm chiều rộng sự tham gia của người dân trong 
các tổ chức xã hội dân sự; chiều sâu của sự tham gia; tính đa dạng của các thành 
phần tham gia; trình độ tổ chức; mối quan hệ giữa các đối tượng hoạt động trong 
xã hội dân sự; các nguồn lực sẵn có đối với xã hội dân sự. 
Sơ đồ 1: Điểm số cho các tiểu mục 
thuộc bình diện “Cấu trúc” của Xã hội dân sự 
- Chiều rộng sự tham gia của người dân chỉ những hình thức tham gia khác nhau 
của người dân trong xã hội dân sự. Ở Việt Nam, việc tham gia này có thể thông 
qua các hoạt động như tình nguyện làm việc trong các tổ chức; hành động cộng 
đồng như tham gia vào các buổi họp cộng đồng, các sự kiện hoặc các nỗ lực chung 
nhằm giải quyết các vấn đề cộng đồng. Tại Việt Nam, kể từ khi có Quy chế dân 
chủ ở cơ sở, việc người dân tham gia vào các hoạt động cộng đồng ngày càng 
nhiều và đạt được những hiệu quả tích cực, nhất là việc người dân tham gia giám 
sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, tạo những 
chuyển biến tích cực trong bài trừ các tệ nạn như tham nhũng, cửa quyền, hách 
dịch, nhũng nhiễu Tham gia làm từ thiện cũng là một hoạt động được dùng để 
đánh giá chiều rộng của sự tham gia của người dân trong xã hội dân sự. Đây là 
hoạt động mang tính nhân đạo và nhân bản sâu sắc, là truyển thống quý báu của 
dân tộc Việt Nam tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách. Hoạt động này thường 
xuyên được khởi xướng bởi Hội chữ thập đỏ và các cơ quan báo chí như Báo Lao 
động, Tuổi trẻ 
- Chiều sâu của sự tham gia chỉ mức độ tham gia của người dân vào xã hội dân 
sự thông qua các phương thức và hành động thực tế. Ở Việt Nam, chiều sâu của sự 
tham gia này thể hiện ở mức độ đóng góp của người dân trong việc làm từ thiện. 
Theo thống kê không chính thức, mức đóng góp của người dân làm từ thiện là 1-
2% thu nhập. Dù số tiền đóng góp không lớn nhưng ý nghĩa xã hội là rất lớn lao và 
tạo được những hỗ trợ tích cực cả về vật chất lẫn tinh thần đối với những đối 
tượng cần trợ giúp. Chiều sâu của sự tham gia cũng thể hiện ở việc tình nguyện 
tham gia vào các hoạt động cộng đồng của người dân. Mỗi người dân Việt Nam 
có thể là thành viên của nhiều tổ chức xã hội, như một người về già vừa là thành 
viên của hội hưu trí, hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi và tổ dân phố Việc 
tham gia các hội này là tự nguyện và thường dành nhiều thời gian vào việc thực 
hiện các hoạt động mang tính cộng đồng của hội. 
- Sự đa dạng của các thành phần tham giathể hiện ở việc thành phần tham gia xã 
hội dân sự và tính hoà nhập của các hội viên từ nhiều thành phần khác nhau. Các 
nhóm xã hội tiêu biểu trong sự tham gia này là phụ nữ, nông dân, người nghèo, 
người dân tộc thiểu số, công chức nhà nước, tín đồ tôn giáo 
- Cấp độ cơ chế tổ chức thể hiện ở việc tồn tại các cơ quan bảo trợ hay không đối 
với tổ chức xã hội dân sự, tính hiệu quả của các mối quan hệ này, cơ chế hỗ trợ và 
các mối quan hệ của tổ chức xã hội dân sự. Ở Việt Nam, hầu hết các tổ chức xã 
hội dân sự là thành viên của một liên hiệp hoặc cơ quan bảo trợ nào đó. Mặt trận 
Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc có mạng lưới rộng khắp 
các thành viên từ trung ương đến địa phương. Các tổ chức này có mối quan hệ 
chặt chẽ với Đảng và Nhà nước. Các hội nghề nghiệp và các hội đoàn khác có sự 
quan hệ với Nhà nước ít chặt chẽ hơn và thường không mặc nhiên có sự bảo trợ 
mà thường là xin bảo trợ hoặc do các hội viên tự đóng góp. Khi bảo trợ, các cơ 
quan bảo trợ đều có những mục tiêu đặt ra cho hoạt động của các tổ chức xã hội 
dân sự và đa số đều đạt được những mục tiêu đề ra, điều này đúng với hầu hết các 
tổ chức xã hội dân sự, nhất là các tổ chức quần chúng và các tổ chức thành viên 
của Mặt trận Tổ quốc. 
- Mối quan hệ giữa các đối tượng hoạt động trong xã hội dân sự thể hiện sự hợp 
tác và thông tin giữa các tổ chức xã hội dân sự với nhau. Ở Việt Nam, việc chia sẻ 
thông tin trong các hoạt động không phải là một thói quen trong hoạt động của các 
tổ chức này. Vì thông tin gắn với quyền lực và cơ hội. Tuy nhiên trong xu thế phát 
triển chung hiện nay, việc chia sẽ thông tin trong hoạt động của các tổ chức đã trở 
nên phổ biến nhằm tăng thêm sức mạnh trong các hoạt động vì mục đích chung. 
Và cùng với xu thế đó, việc hợp tác giữa các tổ chức xã hội dân sự đã được thiết 
lập với nhiều cấp độ khác nhau. 
- Các nguồn lực thể hiện mức độ nguồn lực sẵn có để có thể đạt được những mục 
tiêu của các tổ chức xã hội dân sự. Bao gồm các nguồn lực về tài chính, nguồn 
nhân lực và nguồn lực cơ sở vật chất kỹ thuật. Ở Việt Nam, nguồn lực tài chính 
của các tổ chức xã hội dân sự phần lớn từ phía Nhà nước, sau đó là các tổ chức 
nước ngoài và tư nhân. Các nguồn lực này nhằm thực hiện những mục tiêu mang 
tính cộng đồng như xoá đói giảm nghèo, một số vấn đề liên quan đến dân sinh như 
nước sạch, môi trường, phát triển kinh tế nông thôn Nguồn nhân lực của các tổ 
chức thường rất đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất của tổ chức đó. Ở những tổ chức 
quần chúng, hội nghề nghiệp hay các tổ chức thành viên của Mặt trận, trình độ học 
vấn của các thành viên thường rất cao, phần lớn là trình độ đại học, thạc sỹ và tiến 
sỹ. Các tổ chức còn lại thành phần thường ở trình độ học vấn thấp hơn. 
v Về môi trường, bao gồm môi trường chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá và pháp 
lý đối với xã hội dân sự. Đi sâu vào chi tiết và đánh giá về vấn đề này, môi trường 
của xã hội dân sự thường được phân chia làm các tiểu mục nhỏ, cụ thể hơn để 
đánh giá, đó là: Bối cảnh chính trị; các quyền tự do cơ bản; bối cảnh kinh tế-xã 
hội; bối cảnh văn hoá-xã hội; môi trường pháp lý; mối quan hệ xã hội dân sự và 
nhà nước và cuối cùng là mối quan hệ giữa xã hội dân sự với khu vực tư. 
[FONT="] 
Biểu đồ 2: Điểm của các tiểu mục trong “Môi trường” của Xã hội dân sự 
- Bối cảnh chính trị trong phân tích, đánh giá về môi trường của xã hội dân sự 
bao gồm quyền chính trị, cạnh tranh chính trị, sự phân cấp quản lý và hiệu quả 
quản lý của nhà nước. 
Quyền chính trị là quyền của người dân tham gia vào bầu cử, ứng cử vào các vị trí 
của bộ máy nhà nước. Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân mỗi 
quốc gia trên thế giới, quyền này của người dân ngày càng được mở rộng và phổ 
biến hơn cùng với tiến trình dân chủ lan rộng trên toàn cầu. Ở nước ta, quyền bầu 
cử và ứng cử của công dân đã được Hiến pháp quy định và cụ thể hoá trong hệ 
thống văn bản pháp luật. Cùng với quyền bầu cử và ứng cử, các quyền chính trị 
khác như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, hội họp, lập 
hội và biểu tình theo quy định của pháp luật cũng đã được Hiến pháp và pháp luật 
quy định. 
Cạnh tranh chính trị là một vấn đề phổ biến ở các nước phương tây, nơi mà đặc 
trưng của hệ thống chính trị là đa đảng. Các đảng phái cùng cạnh tranh trong việc 
giành quyền lãnh đạo đất nước. Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, 
không phân chia, có sự phân công và phối hợp của các cơ quan nhà nước trong 
việc thực hiền quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều 4 Hiến pháp quy định 
“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại 
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả 
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh 
đạo Nhà nước và xã hội ”. 
Phân cấp quản lý là sự phân quyền giữa trung ương và địa phương trong quản lý 
nhà nước. Trong đánh giá về môi trường chính trị, phân cấp quản lý được đề cập 
tới ở khía cạnh tài chính. Vấn đề này ở Việt Nam đã được giải quyết tương đối 
hiệu quả sau khi Luật ngân sách được thông qua. Ngân sách đã được phân cấp đến 
các tỉnh, điều này tạo sự độc lập tương đối và tự chủ tài chính cho các địa phương. 
Sự hiệu quả của nhà nước được đánh giá trên khả năng thực hiện chức năng của 
nhà nước như chức năng kinh tế, xã hội, đảm bảo sự ổn định an ninh – chính trị, 
bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ 
tổ quốc Việt Nam đang dần từng bước thực hiện các cải cách về mặt hành chính, 
tư pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc 
tăng cường sự tham gia giám sát của người dân, của các tổ chức xã hội dân sự đối 
với hoạt động của bộ máy nhà nước đã mang lại những hiệu quả tích cực, nhất là 
trong công tác đấu tranh chống tham nhũng trong khu vực công ở Việt Nam hiện 
nay. 
- Các quyền tự do cơ bản của công dân được xem xét trên cơ sở các quy định của 
luật pháp và việc thực thi các quy định đó. Ở Việt Nam, các quyền này đã được 
quy định cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Cụ thể Điều 69 
của Hiến pháp 1992 đã quy định Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo 
chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định 
của pháp luật. Các quyền tự do khác cũng được quy định tại Chương V của Hiến 
pháp, trong các văn bản pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. 
- Bối cảnh kinh tế - xã hội là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến 
sự phát triển của xã hội dân sự tại các quốc gia. Bối cảnh xã hội được đánh giá dựa 
trên các yếu tố như tỷ lệ nghèo đói, nội chiến, xung đột sắc tộc hoặc tôn giáo, 
khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội, sự mất cân bằng kinh tế - xã hội, tỷ lệ 
mù chữ, thất nghiệp Đánh giá toàn diện về vấn đề này, Việt Nam đã có những 
bước tiến quan trọng kể từ sau Đại hội Đảng VI năm 1986 đến nay. Tỷ lệ nghèo 
đói đã giảm từ 70% những năm 80 xuống còn 23% vào năm 2004 (Báo cáo phát 
triển Việt Nam của UNDP); xung đột sắc tộc hoặc tôn giáo không phải là một vấn 
đề đối với Việt Nam. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chăm lo đến đời sống vật 
chất, tinh thần của đồng bào vùng sâu, vùng xa, có các chính sách hỗ trợ đời sống 
và những chính sách phát triển kinh tế phù hợp nhằm nâng cao đời sống cho người 
dân. Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng cũng đã được Hiến pháp 1992 quy định và 
cụ thể trong Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo đã được Uỷ ban thường vụ Quốc 
hội ban hành; các cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội chưa xuất hiện ở Việt Nam, 
tuy nhiên trong cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á năm 1997, Việt Nam 
cũng đã bị những ảnh hưởng nhất định. Các cuộc khủng hoảng xã hội từ những 
quốc gia trong khu vực và trên thế giới cũng có những tác động bất lợi đối với sự 
ổn định của xã hội Việt Nam như đại dịch HIV/AIDS, nội chiến ; Việt Nam cũng 
là một trong những quốc gia có tỷ lệ mù chữ thấp nhất thế giới, điều này có được 
do các chính sách phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước, Điều 59 của Hiến 
pháp cũng đã quy định cơ bản về vấn đề này. 
Đánh giá tổng quan về bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam, chúng ta nhận thấy 
Việt Nam có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định nhưng xuất phát điểm thấp, xã 
hội ổn định, có những điều kiện cơ bản để phát triển các tổ chức xã hội dân sự, 
cùng thúc đẩy quốc gia phát triển bền vững. 
- Môi trường pháp lý bao gồm những quy định của pháp luật nhằm tạo điều kiện 
hay cơ sở phát triển xã hội dân sự. Tại Việt Nam, môi trường pháp lý cho vấn đề 
này đã được xác lập. Nhiều các tổ chức phi chính phủ được thành lập theo Nghị 
định số 35/HĐBT/1992 về việc thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ phi 
lợi nhuận; Nghị đính số 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động của các hiệp 
hội, Luật hợp tác xã Hiện Việt Nam đang xúc tiến xây dựng Luật về hội nhằm 
hoàn thiện cơ sở pháp lý cho vấn đề này. 
v Các giá trị là một trong những nhân tố quan trọng trong việc tiếp cận và đánh 
g
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 122_9454.pdf 122_9454.pdf