Lộc ngộc thường được dùng làm cột nhà, cột điện tạm thời; Đồng 
bào dân tộc vùng cao dùng thân làm máng dẫn nước; làm cầu qua suối nhỏ, 
cột vó bè và làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy sợi. Măng lộc ngộc to, ăn 
ngon. 
Lộc ngộc là loài có thân to, vách dày và chắc nhất trong số các loài tre 
có đường kính thân lớn ở Việt Nam. Đây là nguyên liệu tốt nhất để làm cột 
nhà, đặc biệt các nhà làm bằng tre. Trọng lượng thân cây tươi: 
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Tìm hiểu cây Lộc Ngộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Lộc Ngộc 
Công dụng: 
 Lộc ngộc thường được dùng làm cột nhà, cột điện tạm thời; Đồng 
bào dân tộc vùng cao dùng thân làm máng dẫn nước; làm cầu qua suối nhỏ, 
cột vó bè và làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy sợi. Măng lộc ngộc to, ăn 
ngon. 
Lộc ngộc là loài có thân to, vách dày và chắc nhất trong số các loài tre 
có đường kính thân lớn ở Việt Nam. Đây là nguyên liệu tốt nhất để làm cột 
nhà, đặc biệt các nhà làm bằng tre. Trọng lượng thân cây tươi: 
- Phổ biến: đường kính 10-12cm; trọng lượng 40-50kg/cây. 
- Trung bình lớn: đường kính 14-16cm; trọng lượng 55-
70kg/cây. 
- Cá biệt: đường kính 16-18cm; trọng lượng 80-120kg/cây. 
Trong thân tre tươi chứa cellulose (44,87%); lignin (25,17%); pentosan 
(16,30%). Độ dài của sợi 2,73mm; tỷ trọng 0,43. 
Hình thái: 
 Thân ngầm dạng củ, thân khí sinh mọc cụm thành bụi lớn, dày đặc 
tới 30 trong một bụi, cao 15-25m, đường kính lớn, ngọn cong, nhưng thường 
bị cụt ngọn. Lóng dài 15-25cm, đường kính trung bình 14-16cm, cá biệt 16-
18cm, khi non màu xanh đen, có lông nâu, ép sát, khi già màu xanh nhạt 
nhẵn bóng; mắt cành lớn, rộng 2-3cm; các lóng gốc thường ngắn, phần giữa 
lóng phình to, hai đầu thót lại; vách dày 3-4cm; đốt có vòng mo nổi rõ, cao 
2mm, có 2 vòng lông màu trắng ở trên và dưới vòng mo, mỗi vòng rộng 10-
14mm; mắt to rộng 3-4cm, cao 2-3cm. 
Phân cành sớm, trên mặt đất khoảng 0,5m, có 3 cành chính,các cành 
thấp có dạng gai, mang nhiều gai cong, rất cứng, dài 5-10cm tạo thành bụi 
dày đặc; các cành trên mang lá, mọc ngang hay chếch, có gai hay không; 
trong 3 cành, cành giữa lớn và dài hơn cành trên, đường kính gốc cành chính 
đến 3cm. 
Mo thân chất da, tồn tại lâu trên thân; bẹ mo hình thang cân, đáy rộng 
30-50cm, cao 20-22cm, đỉnh rộng 8- 12cm, tạo thành 2 tai giả cong hình 
lưỡi hái, cao 2cm, rộng 2cm, gốc bẹ mo mặt ngoài phủ lông cứng màu nâu 
đen, mặt trong nhẵn, khi non nửa dưới màu xanh xám, nửa trên màu vàng da 
cam - đỏ nâu; tai mo nối liền với phiến mo, dài 2-3cm, cao 4-8mm, có nhiều 
lông mi cứng màu xám dài 1cm; lưỡi mo xẻ nông, cao 8-10mm, có lông xám 
dài 3-5mm, sớm rụng; phiến mo hình trứng - tam giác, đỉnh nhọn, dài 5-
8cm, mặt ngoài nhẵn, mặt trong có lông cứng màu nâu đen, nhất là phía gốc. 
Lá 7-9, mặt trên xanh thẫm, dưới xanh nhạt, dài 25 x 2,5- 3cm, lá rộng 
nhất dài 45cm, rộng 4cm, gân chính 6-8 đôi; tai nhỏ 1mm, có 4-6 lông mi 
xám trắng sớm rụng; lưỡi mo rất nhỏ, cao 1 mm; bẹ lá màu xanh vàng, khi 
non có lông vàng, mịn, sau nhẵn. 
 Cụm hoa mọc trên các cành có lá hay không, gồm các cụm bông 
nhỏ đường kính 2-5cm, mỗi cụm gồm 2-6 bông nhỏ ở mỗi đốt, hình mác dài 
3-5cm, rộng 0,5-0,6cm; bị ép ở 2 bên; mỗi bông nhỏ mang 5 hoa, dưới cùng 
là hoa cái, 3 hoa giữa lưỡng tính, trên cùng là hoa cái hoặc bất thụ; mày lớn 
và mày nhỏ màu vàng rơm, có mép hồng, không có mày cực nhỏ; nhị 6, bao 
phấn màu vàng; bầu cao 2mm, nhẵn, vòi ngắn. Quả chưa gặp. 
Phân bố: 
 Đây là loài tre đặc hữu hẹp của Việt Nam. Qua điều tra bước đầu, 
không gặp loài tre này mọc ở đâu ngoài các tỉnh vùng Đông Bắc Bắc Bộ. 
Hầu như tỉnh nào ở vùng này cũng có lộc ngộc phân bố, nhưng thường gặp ở 
các tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú 
Thọ, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh. Nhiều tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ như: Hà Tây, 
Hà Nội, Bắc Ninh cũng trồng lộc ngộc. Đồng bằng Bắc Bộ có thể coi là ranh 
giới phía nam của loài tre này. 
Đặc điểm sinh học: 
 Cây ưa khí hậu nhiệt đới mưa mùa với lượng mưa cao. Địa hình đồi 
núi thấp, bằng phẳng; thường gặp lộc ngộc ở chân đồi, ven khe suối thoát 
nước tốt. Cây thường mọc tự nhiên hoặc được trồng rải rác một vài khóm 
hoặc thành hàng ở trong vườn nhà hoặc ven chân đồi. 
Có khi trồng xen kẽ với tre gai, tre là ngà. Mới quan sát và thu thập 
được hoa của loài này. Sức sống của lộc ngộc rất mạnh, các đoạn thân tre 
cắm làm cọc vẫn có khả năng phát triển thành cây tre mới. Mùa măng vào 
tháng 6, 10. Tập trung vào tháng 7, 9. Chưa gặp lộc ngộc ra hoa hàng loạt. 
Thường hoa chỉ xuất hiện ở từng bụi, kéo dài 2-3 năm, sau đó cả bụi 
bị chết. Nếu lấy cây trong bụi lộc ngộc đang khuy làm giống trồng, các cây 
tre mới sẽ tiếp tục ra hoa. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 24_0427.pdf 24_0427.pdf