Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nội tiết 443
TÍNH AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ CỦA LIỆU PHÁP TRUYỀN INSULIN 
ĐƯỜNG TĨNH MẠCH TRÊN BỆNH NHÂN NẶNG  
TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC 
Huỳnh Quang Đại*, Hoàng Thu Minh** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn  đề: Sử dụng liệu pháp truyền insulin tĩnh mạch giúp kiểm soát đường huyết nhưng cũng làm 
tăng nguy cơ hạ đường huyết ở những bệnh nhân nặng điều trị tại khoa Hồi sức tích cực (HSTC). 
Mục tiêu: Khảo sát tần suất hạ đường huyết và tỉ lệ đạt đường huyết mục tiêu ở những bệnh nhân kiểm 
soát đường huyết bằng truyền insulin tĩnh mạch tại khoa HSTC. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả, phân tích. Khảo sát những bệnh nhân có sử 
dụng insulin truyền tĩnh mạch tại khoa HSTC bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: Tổng cộng 416 bệnh nhân‐ngày và 1735 lần kiểm tra đường huyết được khảo sát. Tỉ lệ đạt đường 
huyết  trong khoảng mục  tiêu  là 36,4%. Tần suất hạ đường huyết  là 14,5%; hạ đường huyết nặng  là 7,8%. 
Trong suốt thời gian truyền  insulin, tỉ  lệ bệnh nhân có  ít nhất một  lần hạ đường huyết  là 67,3%, hạ đường 
huyết nặng là 25,5%. Biến cố hạ đường huyết không làm tăng tỉ lệ tử vong có ý nghĩa (OR = 1,17; p = 0,783); 
tuy nhiên, biến cố hạ đường huyết nặng có liên quan đến tăng tỉ lệ tử vong nằm viện (OR = 6,3; p = 0,016). Các 
yếu tố nguy cơ hạ đường huyết bao gồm bệnh nhân đái tháo đường, có bệnh lý tim mạch nền, nhập khoa HSTC 
vì bệnh lý nội khoa và có điều trị thay thế thận hoặc thở máy.  
Kết luận: Hạ đường huyết là biến chứng thường gặp ở những bệnh nhân kiểm soát đường huyết bằng liệu 
pháp truyền insulin tĩnh mạch tại khoa HSTC. Biến cố hạ đường huyết nặng liên quan đến tăng tỉ lệ tử vong 
nằm viện.  
Từ khóa: kiểm soát đường huyết, hạ đường huyết, truyền insulin tĩnh mạch, hồi sức tích cực 
ABSTRACT 
THE SAFETY AND EFFICACY OF INTRAVENOUS INSULIN INFUSION THERAPY  
FOR MANAGEMENT OF HYPERGLYCEMIA IN CRITICALLY ILL PATIENTS 
Huynh Quang Dai, Hoang Thu Minh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 443 ‐ 447 
Background:  Blood  glucose  control  with  intravenous  insulin  infusion  therapy  increases  the  risk  of 
hypoglycemia. 
Objective: Identify the incidence of hypoglycemia and the rate of achieving blood glucose target in critically 
ill patients with intravenous insulin infusion therapy.  
Method: Cross‐sectional study on the patients with intravenous insulin infusion therapy in Intensive care 
unit, Cho Ray hospital. 
Results: A total of 416 patient‐days and 1735 BG values were evaluated. The rate of achieving blood glucose 
target  was  36,4%.  The  daily  incidence  of  hypoglycemia  and  severe  hypoglycemia  were  14.5%  and  7.8%, 
respectively. Throughout days of insulin infusion, the rate of patients with at least one hypoglycemia and severe 
* Bộ Môn Hồi Sức Cấp Cứu Chống Độc – ĐHYD TP.HCM    ** Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BS.CKI Huỳnh Quang Đại     ĐT: 0908704668 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 444
hypoglycemia  were  67.3%  and  25.5%,  respectively.  Hypoglycemia  did  not  increase  mortality  significantly 
(OR=1.17, p=0.783), however severe hypoglycemia related to increasing hospital mortality (OR = 6.3, p = 0.016). 
The risk factors of hypoglycemia included diabetes mellitus, cardiovascular diseases, admission ICU for medical 
conditions, renal replacement therapy and mechanical ventilation. 
Conclusion: Hypoglycemia was a common complication in critically ill patients with intravenous insulin 
infusion. Severe hypoglycemia related significantly to increasing hospital mortality. 
Keywords: blood glucose control, hypoglycemia, intravenous insulin infusion, critical care, intensive care 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tăng đường huyết là tình trạng thường gặp 
ở bệnh nhân nặng tại khoa HSTC, dù cho bệnh 
nhân có tiền căn đái tháo đường hoặc không(11). 
Kiểm soát đường huyết giúp giảm tỉ lệ tử vong, 
giảm tỉ  lệ nhiễm  trùng, rút ngắn  thời gian điều 
trị tại khoa HSTC và thời gian nằm viện, giảm tỉ 
lệ suy thận cấp cần điều trị thay thế thận(16). Theo 
những đồng thuận và khuyến cáo hiện tại, mục 
tiêu  kiểm  soát  đường  huyết  cho  bệnh  nhân 
HSTC  trong  khoảng  140–180  mg%(4,8,10).  Liệu 
pháp truyền  insulin tĩnh mạch  là phương pháp 
kiểm soát đường huyết  thường được  lựa chọn, 
tuy  nhiên,  song  song  với  hiệu  quả  kiểm  soát 
đường huyết là tăng nguy cơ xảy ra biến chứng 
hạ đường huyết. Biến chứng này  là yếu  tố  liên 
quan độc lập làm tăng gánh nặng bệnh tật và tử 
vong(3,6,12).  
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Khảo sát tần suất hạ đường huyết và tỉ lệ đạt 
đường huyết mục tiêu ở những bệnh nhân kiểm 
soát đường huyết bằng truyền insulin tĩnh mạch 
tại khoa HSTC. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu cắt ngang mô 
tả phân tích, khảo sát những bệnh nhân có sử dụng 
insulin truyền tĩnh mạch tại khoa HSTC bệnh viện 
Chợ  Rẫy  trong  khoảng  6  tháng  cuối  năm  2011. 
Chúng tôi ghi nhận số lần thử đường huyết, chỉ số 
đường huyết,  liều  insulin. Hạ đường huyết được 
định nghĩa khi đường huyết <70 mg%, hạ đường 
huyết  nặng  khi  đường  huyết  <40 mg%.  Đường 
huyết đạt mục tiêu khi đường huyết trong khoảng 
140–180 mg%(5,9). 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tổng  cộng  55  bệnh  nhân,  416  bệnh  nhân‐
ngày  và  1735  lần  kiểm  tra  đường  huyết  được 
khảo sát và phân tích. 
Tuổi trung bình dân số nghiên cứu là 56,9 ± 
18,1  tuổi  với  tỉ  lệ  nam/nữ  tương  đương  nhau, 
trong  đó,  tỉ  lệ  bệnh  nhân  có  tiền  căn  đái  tháo 
đường chiếm 54,5% (Bảng 1). 
Bảng 1. Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu 
Giới 
Nam 50,9%
Nữ 49,1%
Tuổi trung bình (năm) 56,9 ± 18,1
Nhóm tuổi 
<40 tuổi 20%
40 – 60 tuổi 30,9%
>60 tuổi 49,1%
Bệnh lý nền 
Đái tháo đường 63,6%
Bệnh tim mạch 34,5%
Nguyên nhân nhập HSTC 
Không phẫu thuật 69,1%
Phẫu thuật 30,9%
Điểm SOFA ngày nhập khoa HSTC 6,6 ± 3,5
Điễm APACHE II ngày nhập khoa HSTC 19,1 ± 6,4
Thời gian nằm khoa HSTC (ngày) 13 (6;24)
Thời gian nằm viện (ngày) 24 (12;33)
Tỉ lệ tử vong nằm viện 58,2%
Bệnh nhân nhập khoa HSTC vì bệnh  lý nội 
khoa  chiếm  69,1%,  bệnh  lý  ngoại  khoa  và  đa 
chấn  thương  chiếm  30,9%.  Điểm  APACHE  II 
ngày nhập khoa 19,1 ± 6,4, điểm SOFA 6,6 ± 3,5. 
Tỉ lệ tử vong nằm viện 58,2% (Bảng 1). 
Tại  thời  điểm nhập  khoa HSTC,  tỉ  lệ  bệnh 
nhân  có  suy  chức  năng  thận  38,2%,  suy  chức 
năng gan 17,4%. Bệnh nhân cần thở máy chiếm 
74,5% và cần điều trị thay thế thận 36,4%.  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nội tiết 445
Giá trị đường huyết trung bình 177,4 ± 40,2. 
Tỉ lệ kiểm soát đường huyết trong khoảng mục 
tiêu  140  –  180 mg%  là  36,4%.  Số  lần  kiểm  tra 
đường huyết trung bình mỗi ngày là 4,7 ± 0,8 lần 
(Bảng 2). 
Bảng 2. Kết quả kiểm soát đường huyết 
Đường huyết trung bình 177,4 ± 40,2
Tỉ lệ kiểm soát đường huyết 36,4%
Số lần xét nghiệm đường huyết trung bình 
mỗi ngày 4,7 ± 0,8 
Liều insulin trung bình 1,2 ± 0,4
Trung  bình mỗi  ngày,  tần  suất  hạ  đường 
huyết và hạ đường huyết nặng lần lượt là 14,5% 
và 7,8%. Hơn nữa, nếu khảo sát trong suốt thời 
gian sử dụng insulin truyền tĩnh mạch, tỉ lệ bệnh 
nhân  có  ít  nhất  một  lần  hạ  đường  huyết  là 
67,3%, hạ đường huyết nặng là 25,5% (Bảng 3). 
Bảng 3. Biến chứng hạ đường huyết 
Đặc điểm Tỷ lệ (%)
Tỉ lệ hạ đường huyết 
 Hạ đường huyết (<70 mg%) 14,5 
 Hạ đường huyết nặng (<40 mg%) 7,8
Tỉ lệ có ít nhất một lần hạ đường huyết trong 
suốt thời gian truyền insulin 
 Hạ đường huyết (<70 mg%) 67,3
 Hạ đường huyết nặng (<40 mg%) 25,5
Biến cố hạ đường huyết làm gia tăng tỉ lệ tử 
vong  nằm  viện  không  có  ý  nghĩa  thống  kê 
(OR=1,17; p = 0,783), tuy nhiên biến cố hạ đường 
huyết nặng liên quan độc lập tới tăng nguy cơ tử 
vong với OR = 6,3 (95% KTC 1,14 – 63, p=0,016) 
(Bảng 4).  
Những bệnh nhân đái tháo đường cũng tăng 
nguy cơ  tử vong so với những bệnh nhân  tăng 
đường  huyết  nhưng  không  có  tiền  căn  hoặc 
không  được  chẩn  đoán  đái  tháo  đường,  với 
OR=3,3 (95% KTC 0,96 – 10,9, p = 0,05). 
Bảng 4. Mối liên quan giữa đái tháo đường, hạ 
đường huyết và tử vong nằm viện 
Tử vong 
 OR (95% KTC) p 
Có n (%) Không n (%) 
Hạ đường huyết 
Có 22 (59,5) 15 (40,5) 1,17 (0,32–4,23) 0,783
Không 10 (55,6) 8 (44,4) 
Hạ đường huyết nặng 
Có 12 (85,7) 2 (14,3) 6,2* (1,17 – 33,1) 0,022
Không 20 (48,8) 21 (51,2) 
Đái tháo đường 
Có 24 (68,6) 11 (31,4) 3,3* (0,96 – 10,9) 0,05 
Không 8 (40,0) 12 (60,0) 
* Đã hiệu chỉnh 
Bảng 5. Các yếu tố liên quan đến hạ đường huyết 
Các yếu tố 
Hạ đường huyết 
 OR (95% KTC) p 
Cón (%) Không n (%) 
Giới 
Nam 19 (51,4) 8 (44,4) 1,09 (0,76 – 1,58) 0,63 
Nữ 18 (48,6) 10 (55,6) 
Tuổi 57,9 ± 3,3 54,9 ± 3,4 0,57 
Điểm SOFA 6,7 ± 0,6 6,6 ± 0,8 0,91 
Điểm APACHE II 19,5 ± 1,1 18,2 ± 1,5 0,52 
Đường huyết trung bình 181,5 ± 50,9 168,3 ± 30,6 0,34 
Số lần kiểm tra đường huyết 4,6 ± 0,9 4,8 ± 0,7 0,35 
Liều insulin trung bình 1,22 ± 0,49 1,17 ± 0,56 0,72 
Năng lượng nhập trung bình 1232 ± 420 1132 ± 461 0,43 
Nguyên nhân nhập HSTC 
Không phẫu thuật 29 (78,4) 9 (50) 1,62 (0,96 – 2,77) 0,03 
Phẫu thuật 8 (21,6) 9 (50) 
Đái tháo đường 
Có 25 (65,6) 10 (55,6) 1,19 (0,79 – 1,80) 0,38 
Không 12 (32,4) 8 (44,4) 
Suy chức năng thận 
Có 14 (37,8) 7 (38,9) 0,99 (0,67 – 1,44) 0,94 
Không 23 (62,2) 11 (61,1) 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 446
Các yếu tố 
Hạ đường huyết 
 OR (95% KTC) p 
Cón (%) Không n (%) 
Suy chức năng gan 
Có 5 (15,6) 3 (21,4) 0,88 (0,49 – 1,56) 0,68 
Không 27 (84,4) 11 (78,6) 
Điều trị thay thế thận 
Có 15 (40,5) 5 (27,8) 1,19 (0,83 – 1,71) 0,36 
Không 22 (59,5) 13 (72,2) 
Thở máy 
Có 28 (75,7) 13 (72,2) 1,06 (0,68 – 1,65) 0,78 
Không 9 (24,3) 5 (27,8) 
Khi  phân  tích  hai  nhóm  bệnh  nhân  có  và 
không có biến cố hạ đường huyết, có sự  tương 
đồng về giới,  tuổi, mức độ nặng của bệnh  thời 
điểm nhập khoa HSTC, tỉ lệ suy chức năng gan, 
thận. Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý 
nghĩa  về  liều  insulin  truyền,  số  lần  kiểm  tra 
đường  huyết  cũng  như  tổng  năng  lượng dinh 
dưỡng trung bình mỗi ngày giữa hai nhóm. 
Tuy  nhiên,  những  bệnh  nhân  nhập  khoa 
HSTC  vì  bệnh  lý  nội  khoa  liên  quan  với  tăng 
nguy  cơ  hạ  đường  huyết  so  với  những  bệnh 
nhân ngoại khoa  (PR  =  1,62 với p  =  0,03). Bên 
cạnh đó, những bệnh nhân đái tháo đường hoặc 
cần phải điều trị thay thế thận có khuynh hướng 
tăng nguy cơ xảy ra biến cố này (Bảng 5). 
Ở những bệnh nhân không và có xảy ra biến 
cố hạ  đường huyết nặng,  chúng  tôi nhận  thấy 
cũng có sự tương đồng về các yếu tố giới, tuổi, 
mức độ nặng của bệnh, tỉ lệ suy chức năng gan, 
thận vào thời điểm nhập khoa HSTC. Chúng tôi 
cũng không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa về 
liều insulin truyền, số lần kiểm tra đường huyết, 
tổng  năng  lượng  dinh  dưỡng  trung  bình mỗi 
ngày giữa hai nhóm. Trong khi  đó,  có khuynh 
hướng  tăng nguy  cơ  xảy  ra  biến  cố  hạ  đường 
huyết nặng ở những bệnh nhân đái tháo đường 
hay có bệnh tim mạch nền hoặc thở máy.  
BÀN LUẬN 
Các đặc điểm về tuổi, giới, điểm APACHE II 
và SOFA ngày nhập khoa của bệnh nhân trong 
khảo sát của chúng tôi tương tự với các nghiên 
cứu trước đó tại khoa HSTC bệnh viện Chợ Rẫy. 
Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong ở nhóm này cao hơn so 
với dân số bệnh nhân chung (58,2% vs 39,2%)(7). 
Điều  này  cho  thấy  những  bệnh  nhân  tăng 
đường huyết cần kiểm soát bằng truyền insulin 
tĩnh mạch có gánh nặng bệnh tật và tử vong cao. 
Trong đó, bệnh nhân đái tháo đường chiếm tỉ lệ 
63,6%, có tỉ lệ tử vong cao hơn có ý nghĩa thống 
kê  so  với  những  bệnh  nhân  không  đái  tháo 
đường (68,6% vs 40,0%; OR = 3,3; p = 0,05).  
Trung  bình mỗi  ngày,  tần  suất  hạ  đường 
huyết  14,5%,  hạ  đường  huyết  nặng  7,8%.  Tần 
suất này  cao  hơn  rất  nhiều  so  với  nghiên  cứu 
NICE‐SUGAR, với tỉ lệ hạ đường huyết nặng ở 
nhóm bệnh nhân mục  tiêu  đường huyết  trong 
khoảng  140  –  180mg%  là  0,5%, và nhóm bệnh 
nhân mục  tiêu  đường  huyết  80  –  110mg%  là 
7%(5). Theo nghiên cứu của Devos, tỉ lệ hạ đường 
huyết nặng ở nhóm bệnh nhân mục tiêu đường 
huyết  140  –  180mg%  là  3% và  tăng  lên  10%  ở 
nhóm bệnh nhân  cố gắng  đạt mục  tiêu  đường 
huyết  80  –  110mg%(2).  Tương  tự,  trong  nghiên 
cứu của De La Rosa Gdel, tỉ  lệ hạ đường huyết 
và hạ đường huyết nặng ở nhóm bệnh nhân có 
đường  huyết  trung  bình  149 mg%  lần  lượt  là 
10% và 2%, thấp hơn so với khảo sát của chúng 
tôi(1). 
Hầu  hết  các  khoa  HSTC  trên  thế  giới 
khuyến khích sử dụng các phác đồ hướng dẫn 
truyền  insulin  tĩnh mạch  để  hướng  dẫn  việc 
theo  dõi  và  điều  chỉnh  đường  huyết  cho  các 
bệnh nhân nặng. Các phác đồ này có thể giúp 
cho điều dưỡng  theo dõi giá  trị đường huyết, 
điều chỉnh  liều  insulin thích hợp và xử trí kịp 
thời khi biến chứng khi xảy  ra. Nhiều nghiên 
cứu  chứng minh  áp  dụng  các  phác  đồ  giúp 
tăng hiệu quả kiểm soát đường huyết và giảm 
tỉ lệ hạ đường huyết(8,14,15). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nội tiết 447
Trong nghiên cứu của chúng tôi, biến cố hạ 
đường huyết  làm  gia  tăng  tỉ  lệ  tử  vong  nằm 
viện không có ý nghĩa thống kê (OR = 1,17; p = 
0,783), tuy nhiên biến cố hạ đường huyết nặng 
liên  quan  độc  lập  đến  tăng  nguy  cơ  tử  vong 
với OR=6,3 (95% KTC 1,14 – 63, p = 0,016). Kết 
quả này  tương  tự nghiên cứu của Krinsley và 
cộng sự, hạ đường huyết nghiêm trọng là yếu 
tố nguy cơ tử vong độc lập với OR = 2,28 (95% 
KTC, 1,41‐3,7; p =0,0008)(13). 
Một  số  yếu  tố  nguy  cơ  hạ  đường  huyết 
thường  được  đề  cập  đến  như  sử  dụng  liều 
insulin quá  cao,  theo dõi  đường huyết không 
chặt  chẽ,  nguyên  nhân  nhập  khoa  HSTC  vì 
bệnh lý nội khoa, bệnh lý quá nặng, bệnh nhân 
suy gan, suy thận, nhiễm khuẩn huyết, ngưng 
ăn hoặc dinh dưỡng kém, không bổ sung dinh 
dưỡng  đường  tĩnh  mạch,  ngừng  thuốc 
corticoids  hay  thuốc  vận mạch,  điều  trị  thay 
thế thận...(12).  
Khi so sánh hai nhóm không và có hạ đường 
huyết, chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có 
ý nghĩa về mức độ nặng của bệnh cũng như liều 
insulin,  số  lần  kiểm  tra  đường  huyết,  năng 
lượng nhập mỗi ngày,  tỉ  lệ suy chức năng gan, 
thận.  Tuy  nhiên,  những  bệnh  nhân  đái  tháo 
đường hay có bệnh tim mạch nền, cần phải điều 
trị thay thế thận hoặc thở máy có khuynh hướng 
tăng nguy cơ xảy ra biến chứng hạ đường huyết. 
KẾT LUẬN 
Hạ  đường huyết  là biến  chứng nguy hiểm 
thường gặp ở những bệnh nhân nặng kiểm soát 
đường huyết bằng  truyền  insulin  tĩnh mạch  tại 
khoa HSTC. Hạ  đường  huyết  nặng  liên  quan 
độc lập đến tăng tỉ lệ tử vong nằm viện. Để giảm 
biến  chứng  này,  bên  cạnh  việc  lưu  ý  và  kiểm 
soát  các yếu  tố nguy  cơ,  cần  thiết phải nghiên 
cứu  ứng dụng  các phác  đồ hướng dẫn  truyền 
insulin phù hợp cho mỗi khoa phòng(8). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. De La Rosa Gdel C, Donado JH, Restrepo AH, Quintero AM, 
Gonzalez LG, Saldarriaga NE, et al.  (2008),  ʺStrict glycaemic 
control  in  patients  hospitalised  in  a  mixed  medical  and 
surgical  intensive care unit: a randomised clinical  trialʺ. Crit 
Care, 12(5), R120. 
2. Devos P, Preiser  J, Melot C  (2007),  ʺImpact of  tight glucose 
control by intensive insulin therapy on ICU mortality and the 
rate of hypoglycaemia: final results of the glucontrol studyʺ. 
Intensive Care Med, 33(Suppl 2), S189. 
3. Egi M, Bellomo R, Stachowski E, French CJ, Hart GK, Taori G, 
et  al.  (2010),  ʺHypoglycemia  and  outcome  in  critically  ill 
patientsʺ. Mayo Clin Proc, 85(3), 217‐224. 
4. Fahy BG, Sheehy AM, Coursin DB (2009), ʺGlucose control in 
the intensive care unitʺ. Crit Care Med, 37(5), 1769‐1776. 
5. Finfer S, Chittock DR, Su SY, Blair D, Foster D, Dhingra V, et 
al.  (2009),  ʺIntensive  versus  conventional  glucose  control  in 
critically ill patientsʺ. N Engl J Med, 360(13), 1283‐1297. 
6. Hermanides  J,  Bosman  RJ,  Vriesendorp  TM,  Dotsch  R, 
Rosendaal FR, Zandstra DF,  et al.  (2010),  ʺHypoglycemia  is 
associated with  intensive care unit mortalityʺ. Crit Care Med, 
38(6), 1430‐1434. 
7. Huynh Quang Dai, Pham Thi Ngoc Thao, Dang Van Phuoc 
(2012), ʺApplication of the sequential organ failure assessment 
(SOFA) score  in predicting outcome of critically  ill patientsʺ. 
HCMC journal of medicine, 16(1), 21‐26. 
8. Ichai C, Preiser JC (2010), ʺInternational recommendations for 
glucose  control  in  adult  non  diabetic  critically  ill  patientsʺ. 
Crit Care, 14(5), R166. 
9. Inzucchi SE, Siegel MD (2009), ʺGlucose control  in the ICU‐‐
how tight is too tight?ʺ. N Engl J Med, 360(13), 1346‐1349. 
10. Kavanagh  BP,  McCowen  KC  (2010),  ʺClinical  practice. 
Glycemic  control  in  the  ICUʺ. N Engl  J Med, 363(26),  2540‐
2546. 
11. Kovalaske MA, Gandhi GY  (2009),  ʺGlycemic  control  in 
the medical intensive care unitʺ. J Diabetes Sci Technol, 3(6), 
1330‐1341. 
12. Krinsley  JS  (2011),  ʺUnderstanding  glycemic  control  in  the 
critically ill: 2011 updateʺ. Hosp Pract (1995), 39(2), 47‐55. 
13. Krinsley  JS,  Grover  A  (2007),  ʺSevere  hypoglycemia  in 
critically ill patients: risk factors and outcomesʺ. Crit Care Med, 
35(10), 2262‐2267. 
14. Newton CA, Smiley D, Bode B W, Kitabchi A E, Davidson P 
C, Jacobs S, et al. (2010), ʺA comparison study of continuous 
insulin  infusion protocols  in  the medical  intensive care unit: 
computer‐guided  vs.  standard  column‐based  algorithmsʺ.  J 
Hosp Med, 5(8), 432‐437. 
15. Rea  RS, Donihi AC,  Bobeck M, Herout  P, McKaveney  TP, 
Kane‐Gill  SL,  et  al.  (2007),  ʺImplementing  an  intravenous 
insulin  infusion  protocol  in  the  intensive  care  unitʺ.  Am  J 
Health Syst Pharm, 64(4), 385‐395. \ 
16. Van  den  Berghe G, Wouters  P, Weekers  F, Verwaest C, 
Bruyninckx  F,  Schetz M,  et  al.  (2001),  ʺIntensive  insulin 
therapy  in  critically  ill  patientsʺ.  N  Engl  J Med,  345(19), 
1359‐1367. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014