Trong sốba khu vực kinh tếgiàu có quan trọng, mỗi khu vực đều gặp vấn nạn. Rõ 
nhất là Nhật, với tỉlệtăng trưởng bình quân đầu người trung bình từnăm 1998 đến 
2002 bằng 0, và tỉlệtăng trưởng lao động đã ởmức âm kểtừnăm 1994. Những ngân 
hàng yếu kém, thâm hụt ngân sách cao, và dân số đang lão hóa của Nhật gây ra những 
thách thức kinh tếmà nếu càng tồn tại dai dẳng thì sẽcàng khó mà đương đầu nổi. 
Khu vực dùng đồng euro (bao gồm phần lớn Liên hiệp châu Âu trừVương quốc Anh, 
Đan Mạch và Thụy Điển) liên tục có tỉlệthất nghiệp cao, các phúc lợi xã hội nhưtrợ
cấp hưu trí ởmức không bền vững, và tỉlệsinh sản thấp hơn nhiều so với mức đủ
thay thếlực lượng lao động. Những mức thuếcao đánh vào người lao động có việc 
làm vĩnh viễn đã hạn chếtạo ra việc làm trong khu vực tưnhân, và góp phần làm tăng 
thâm hụt ngân sách. Mỹ đạt kết quảtốt hơn một chút so với khu vực dùng đồng euro 
xét vềmặt tăng trưởng GDP bình quân đầu người, và tốt hơn nhiều xét vềkhía cạnh 
lao động, nhưng cán cân thanh toán của Mỹdường nhưbịthâm hụt triền miên, và 
những vấn nạn đã được bàn tán rất nhiều vềbong bóng công nghệvà kếtoán doanh 
nghiệp đã tăng khảnăng bịsuy thoái nặng. 
Khi các nền kinh tếquá độ đang tìm cách đểphát triển, ít ra ta cũng cảm thấy bất an 
khi mỗi nền kinh tếtrong ba khối kinh tếlớn dường như đều vướng vào những vấn 
nạn trầm trọng. Cũng có thể đầy rủi ro cho một quốc gia muốn theo chân những nước 
khác trên con đường tăng trưởng dựa vào xuất khẩu nếu những thịtrường lớn trởnên 
bất ổn. Nếu những nước nhập khẩu lớn lâm vào cảnh đình trệkinh tếquá lâu, lượng 
nhập khẩu sẽtăng không bao nhiêu và các thếlực bảo hộcó thểthúc giục các chính 
khách dựng lên những rào cản thương mại. Vì thế, khảnăng của những nước giàu 
trong việc giải quyết những vấn nạn của họcũng có ý nghĩa đối với những nước 
nghèo hy vọng dùng hội nhập toàn cầu đểphát triển. Liệu những vấn nạn của họcó 
cơmay khắc phục hay không? 
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Tình hình bất ổn ở những nền kinh tế giàu - Liệu có ảnh hưởng xấu ra sao đối với các quốc gia đang phát triển?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Fulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countries 
Gs. David Dapice 1 Dịch: Lửa Hạ 
Tình hình bất ổn ở những nền kinh tế giàu - Liệu có ảnh hưởng xấu ra sao đối với 
các quốc gia đang phát triển? 
Giáo sư David Dapice, Đại học Tufts và Chương trình Việt Nam, Harvard. 
Lời mở đầu 
Trong số ba khu vực kinh tế giàu có quan trọng, mỗi khu vực đều gặp vấn nạn. Rõ 
nhất là Nhật, với tỉ lệ tăng trưởng bình quân đầu người trung bình từ năm 1998 đến 
2002 bằng 0, và tỉ lệ tăng trưởng lao động đã ở mức âm kể từ năm 1994. Những ngân 
hàng yếu kém, thâm hụt ngân sách cao, và dân số đang lão hóa của Nhật gây ra những 
thách thức kinh tế mà nếu càng tồn tại dai dẳng thì sẽ càng khó mà đương đầu nổi. 
Khu vực dùng đồng euro (bao gồm phần lớn Liên hiệp châu Âu trừ Vương quốc Anh, 
Đan Mạch và Thụy Điển) liên tục có tỉ lệ thất nghiệp cao, các phúc lợi xã hội như trợ 
cấp hưu trí ở mức không bền vững, và tỉ lệ sinh sản thấp hơn nhiều so với mức đủ 
thay thế lực lượng lao động. Những mức thuế cao đánh vào người lao động có việc 
làm vĩnh viễn đã hạn chế tạo ra việc làm trong khu vực tư nhân, và góp phần làm tăng 
thâm hụt ngân sách. Mỹ đạt kết quả tốt hơn một chút so với khu vực dùng đồng euro 
xét về mặt tăng trưởng GDP bình quân đầu người, và tốt hơn nhiều xét về khía cạnh 
lao động, nhưng cán cân thanh toán của Mỹ dường như bị thâm hụt triền miên, và 
những vấn nạn đã được bàn tán rất nhiều về bong bóng công nghệ và kế toán doanh 
nghiệp đã tăng khả năng bị suy thoái nặng. 
Khi các nền kinh tế quá độ đang tìm cách để phát triển, ít ra ta cũng cảm thấy bất an 
khi mỗi nền kinh tế trong ba khối kinh tế lớn dường như đều vướng vào những vấn 
nạn trầm trọng. Cũng có thể đầy rủi ro cho một quốc gia muốn theo chân những nước 
khác trên con đường tăng trưởng dựa vào xuất khẩu nếu những thị trường lớn trở nên 
bất ổn. Nếu những nước nhập khẩu lớn lâm vào cảnh đình trệ kinh tế quá lâu, lượng 
nhập khẩu sẽ tăng không bao nhiêu và các thế lực bảo hộ có thể thúc giục các chính 
khách dựng lên những rào cản thương mại. Vì thế, khả năng của những nước giàu 
trong việc giải quyết những vấn nạn của họ cũng có ý nghĩa đối với những nước 
nghèo hy vọng dùng hội nhập toàn cầu để phát triển. Liệu những vấn nạn của họ có 
cơ may khắc phục hay không? 
Những vấn nạn mang tính chu kỳ và mang tính cơ cấu 
Điều quan trọng là phải phân biệt giữa những biểu hiện của chu kỳ kinh tế, hiện vẫn 
còn hiện diện dù thường dễ chịu hơn nhiều so với thời kỳ ban đầu, và những vấn nạn 
mang tính cơ cấu đã ăn sâu. Kinh tế thị trường đôi khi cũng có sai sót. Có thể họ xây 
dựng quá dư thừa nhà cửa cơ ngơi hoặc đầu tư quá nhiều vào một số năng lực sản 
xuất. Nếu lượng xây dựng dư thừa chiếm tỉ lệ cao so với tổng sản lượng, thì kết quả 
thường là suy thoái. Đây là sự giảm sút tạm thời1 về sản lượng giúp cho những lượng 
dư thừa được tái định giá, khấu hao hoặc tìm hướng sử dụng khác. Khi những sai lầm 
1 Một định nghĩa phổ biến của suy thoái, dù không phải là định nghĩa chính thức, là sản lượng tính theo 
giá không đổi giảm sút trong ít nhất hai quý liên tiếp. Gần đây nhất vào năm 2001, Mỹ có ba quý sụt 
giảm sản lượng, và khoảng chừng một năm sụt giảm lao động. Nhật có năm năm giảm sút lao động 
(1998-2002), và hai năm liên tiếp sụt giảm sản lượng bình quân đầu người vào năm 2001 và 2002. 
Khu vực dùng đồng euro có mức tăng trưởng sản lượng và lao động trải đều hơn tuy thấp hơn, ít nhất là 
so với Mỹ. Tỉ lệ thất nghiệp của khu vực này xê dịch từ 8% đến 11%, so với 4%-6% của Mỹ và Nhật 
trong những năm gần đây. 
Fulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countries 
Gs. David Dapice 2 Dịch: Lửa Hạ 
này được chỉnh sửa, kinh tế sẽ tăng trưởng bình thường trở lại. Phần lớn các đợt suy 
thoái chấm dứt trong vòng một năm. Các khoản trợ cấp thất nghiệp giảm bớt khó 
khăn trong khi người lao động tìm việc làm mới. Một đợt suy thoái là một cách để 
vốn và lao động được tái phân bổ đến những nơi thực sự cần chúng. Suy thoái không 
phải là điều dễ chịu, nhưng cũng chẳng phải là sai lầm chết người. Qua kinh nghiệm 
đau thương, những nền kinh tế giàu sẽ tìm ra những cách sử dụng chính sách tiền tệ 
và thu chi ngân sách, cùng với những chính sách bình ổn khác, để giảm bớt tác động 
của suy thoái và rút ngắn thời gian suy thoái trong khi chúng vẫn hoàn thành những 
chức năng kinh tế của mình. 
Khác với một chu kỳ kinh tế bình thường, một vấn nạn mang tính cơ cấu là vấn nạn vẫn 
diễn ra triền miên trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh cũng như tăng trưởng chậm. 
Tỉ lệ thất nghiệp cao ở khu vực dùng đồng euro là một ví dụ. Một ví dụ khác là Nhật 
thất bại không tạo ra được việc làm mới hoặc không giải quyết được các khoản nợ vay 
ngân hàng khó đòi (hiện đã lên đến hơn 1000 tỉ đô-la) trong suốt nhiều năm. Thâm hụt 
cán cân thanh toán triền miên của Mỹ là ví dụ thứ ba. Cần phải nói là thâm hụt cán cân 
thanh toán không nhất thiết luôn là một vấn nạn. Nếu các dòng nhập vốn để trang trải 
cho khoản thâm hụt được dùng để đầu tư vào hàng xuất khẩu hoặc hàng thay thế nhập 
khẩu hiệu quả tạo ra thu nhập để trả nợ cho nhà đầu tư nước ngoài, thì chẳng có vấn đề 
gì cả. Tuy nhiên, thâm hụt của Mỹ trong những năm gần đây không thuộc loại “vô hại” 
này, bởi bong bóng công nghệ của Mỹ đã thu hút những nhà đầu tư cổ phiếu và công ty 
nước ngoài. Những nguồn vốn này đã đẩy giá trị của đồng đô-la lên đến mức không 
bền vững, mà từ đó giá trị đồng đô-la đang giảm xuống. 
Khi một vấn nạn kéo dài dai dẳng, thường là do người ta chẳng làm gì để giải quyết 
nó và những cơ chế chỉnh sửa “tự nhiên” khác thì yếu kém hoặc không được phép 
hoạt động. Đây chính là điều được gọi là một vấn nạn mang tính cơ cấu. Nó thường 
là do thất bại thể chế - một tình huống trong đó chính phủ, các ngân hàng, các công 
ty, và những nhóm khác không làm đúng vai trò của họ. Tất cả các hệ thống thỉnh 
thoảng cũng gặp thất bại thể chế. Câu hỏi lý thú là một hệ thống nên giải quyết nó 
như thế nào. Đôi khi vấn nạn được xác định khá nhanh, các biện pháp khắc phục 
được áp dụng, và tổn thất được hạn chế. Trong những trường hợp khác, việc giải 
quyết vấn nạn gây ra tổn thương quá lớn – ít ra là đối với một số nhóm quyền lợi nào 
đó – đến nỗi người ta liên tục trì hoãn hành động. Khi đó, vấn nạn trở nên trầm trọng 
hơn, và việc điều chỉnh cuối cùng có thể rất đau đớn. 
Các thất bại thể chế làm phức tạp hơn việc bình ổn hóa các chu kỳ kinh tế 
Cũng nên hiểu rằng một thất bại thể chế có thể gây cản trở cho khả năng của chính 
phủ trong việc bình ổn hóa nền kinh tế vĩ mô. Ta có thể thấy điều này rõ nhất ở Nhật, 
dù nó chí ít cũng là một nỗi lo ở Mỹ và khu vực dùng đồng euro. Hãy xét đến một 
nước đang bị suy thoái. Phản ứng “bình thường” là hạ lãi suất và giảm thuế, và/hoặc 
tăng chi tiêu chính phủ để tổng chi tiêu tăng lên. (Lãi suất thấp khuyến khích đầu tư; 
còn giảm thuế giúp cho các hộ gia đình có thu nhập sau thuế cao hơn nên cũng có thể 
chi tiêu nhiều hơn). Nhưng nếu các ngân hàng yếu kém, và có nhiều nợ khó đòi, thì 
dù lãi suất có giảm các ngân hàng cũng không tăng lượng cho vay. Thay vì thế, họ 
dùng nguồn vốn để nuôi sống những doanh nghiệp “đã chết”, và không chịu cấp vốn 
vay cho những công ty có thể làm ăn tốt hơn. Để tránh công nhận những khoản nợ 
khó đòi, họ làm cho kênh tiền tệ trở nên chậm chạp hoặc vô dụng. Tương tự, nếu một 
chính phủ tích lũy gánh nặng nợ vay khổng lồ, người dân bắt đầu thắc mắc liệu họ sẽ 
Fulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countries 
Gs. David Dapice 3 Dịch: Lửa Hạ 
có khả năng trả nợ hay không, hoặc trang trải những khoản trợ cấp hưu trí công cộng 
mà họ đã được hứa hay không. Như vậy, giảm thuế hay tăng chi tiêu chỉ khiến cho họ 
càng thêm lo lắng. Họ tiết kiệm nhiều hơn phòng khi thuế sẽ tăng lên hoặc các khoản 
trợ cấp sẽ bị cắt giảm trong tương lai. Kết quả là nợ vay của nhà nước chèn ép bất lợi 
đối với cầu tư nhân, nhưng lại không làm tăng tổng cầu. Những cơ chế này giải thích 
tại sao Nhật có tỉ lệ tăng trưởng thấp như thế dù đã có lãi suất rất thấp và thâm hụt 
chính phủ rất cao trong nhiều năm.2 
Làm sao để xác định được thất bại thể chế? Về cơ bản, nếu một vấn nạn trầm trọng 
được phép tồn tại mà không ai quan tâm đến, ta có thể đoán rằng có thất bại thể chế. 
Phần lớn những vấn nạn đều có thể khắc phục được. Nếu không, có nghĩa là có 
những ưu tiên khác quan trọng hơn. Trong một số trường hợp, những người ra quyết 
định có thể không tập trung vào một vấn đề cụ thể, và do vậy không nhận ra ngay 
chuyện gì đang xảy ra. Nhưng nếu cứ tiếp tục như vậy trong nhiều năm, thì rất có thể 
không phải là như thế. Nếu họ thực sự nhận ra vấn nạn, nhưng vẫn không chịu giải 
quyết nó, thì thường là do giải pháp sẽ gây ra những vấn nạn khác - thường mang tính 
chất chính trị. Trong trường hợp Nhật, nhiều công ty yếu kém cung cấp tiền cho chính 
đảng cầm quyền, trong khi cử tri nông thôn có ảnh hưởng lớn hơn cử tri thành thị và 
cũng nhận được những khoản trợ cấp lớn.3 Kết quả là hệ thống chính trị rất khó thay 
đổi tình hình, và thay vì thực hiện những cải cách căn bản, chính phủ chỉ biết vay 
mượn và chi tiêu nhiều hơn nữa. Kết quả là một mức nợ chính phủ nặng nề bằng 
150% GDP. Những nghĩa vụ nợ khác liên quan đến những đợt bảo lãnh cứu nguy 
ngân hàng trong tương lai, các chi phí trợ cấp hưu trí, và những vấn nạn của hệ thống 
tiết kiệm bưu điện sẽ đòi hỏi phải có mức lạm phát rất cao hoặc những khoản thanh 
toán tính theo giá không đổi thấp hơn nhiều so với những khoản hiện nay đã hứa. 
Chính mối nguy hiểm này đã khiến cho mức xếp hạng tín dụng dành cho nợ vay của 
chính phủ Nhật bị giáng cấp nhiều lần, hiện nay còn thấp hơn cả Botswana, một nước 
ở miền trung nam châu Phi. Trong tất cả những phương án hiện nay, chẳng có 
phương án nào dễ dàng cả. Nếu cứ tiếp tục tốc độ cải cách chậm như hiện nay, có thể 
sản lượng của Nhật sẽ bị giảm mạnh trong mấy năm tới. (Điều này sẽ có tác động lớn 
đối với Việt Nam vì Nhật là một thị trường xuất khẩu lớn và cũng là nước cung cấp 
vốn.) 
Tất cả các nước giàu đều gặp phải những vấn nạn thể chế, và chúng lan tràn qua biên 
giới các quốc gia 
Trường hợp, hay ví dụ, này minh họa làm thế nào ngay cả một nền kinh tế giàu và 
thành công cũng có thể gặp thất bại thể chế trầm trọng. Những tác động (của thất bại 
thể chế) có thể nghiêm trọng, thậm chí vượt ra ngoài biên giới của quốc gia gặp thất 
bại. Ví dụ, nền kinh tế toàn cầu xưa nay quá phụ thuộc vào cầu (tiêu dùng) từ Mỹ vốn 
được xem là “đầu tàu (tăng trưởng)”. Nếu Nhật tăng trưởng như trước đây, hay thậm 
chí nhanh bằng châu Âu, Nhật sẽ ca tụng Mỹ là nguồn cầu tiêu dùng, và nền kinh tế 
2 Tiếp tục nuôi sống những công ty “ốm yếu” có nghĩa là những công ty vững mạnh hơn phải cạnh 
tranh với những đối thủ được trợ cấp một cách không công bằng. Vì thế, ngay cả những doanh nghiệp 
mạnh cũng suy yếu do các khoản trợ cấp cho những doanh nghiệp suy sụp. Điều này dẫn tới tình trạng 
giảm bớt những công ty vững mạnh chịu cải tiến sáng tạo và nâng cao năng suất. Nguồn lực bị sử dụng 
kém hiệu quả. 
3 Nghị sĩ được bầu cử theo một khu vực bầu cử, chứ không phải bởi số cử tri bằng nhau. Các khu vực 
nông thôn có thể có số cử tri chỉ bằng 1/5 so với khu vực thành thị, thế nhưng mỗi khu vực bầu một 
nghị sĩ. Các cử tri nông thôn được hưởng chi tiêu cao hơn dành cho các công trình công cộng, được trợ 
cấp nông nghiệp nhiều hơn, và nhiều ưu đãi khác. Họ cũng già và bảo thủ. 
Fulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countries 
Gs. David Dapice 4 Dịch: Lửa Hạ 
toàn cầu sẽ an toàn hơn. Nhật không tạo ra được một môi trường đầu tư nội địa có khả 
năng sinh lợi, nên đã dẫn tới những dòng xuất vốn lớn đã góp phần tạo ra vụ bùng nổ 
đầu tư gây ra cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997. Như vậy, trong một thế giới hội 
nhập kinh tế, thất bại ở nơi này thường có tác động đến những nơi khác. 
Những vấn nạn ở khu vực dùng đồng euro ít trầm trọng hơn, và khó thấy hơn. Trên 
nhiều phương diện, khu vực dùng đồng euro xưa nay đã có thành quả kinh tế rất thành 
công – một số khía cạnh còn ưu việt hơn cả Mỹ. Khu vực này đã có tỉ lệ tăng trưởng 
sản lượng bình quân đầu người khoảng 2% trong suốt hai mươi năm, và khá ổn định, 
ít khi tăng vọt quá cao hay giảm xuống quá thấp. Khu vực này có tài khoản nước 
ngoài cân bằng, chi tiêu xã hội cao hơn, và các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội toàn 
diện hơn so với ở Mỹ. Năng suất mỗi giờ làm việc nói chung tương đương với Mỹ. 
Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với Mỹ vì có tỉ lệ dân số trong 
độ tuổi lao động tham gia vào lực lượng lao động thấp hơn, và những ai tham gia vào 
lực lượng lao động thì lại làm việc ít giờ hơn hoặc dễ bị thất nghiệp hơn. Kết quả là có 
số giờ làm việc ít hơn với một mức dân số nhất định trong độ tuổi lao động. Điều này 
có ý nghĩa quan trọng vì sẽ không thể trả những khoản trợ cấp xã hội hào phóng như 
lương hưu nếu lực lượng lao động không tăng nhanh hơn. Tuy nhiên, khu vực này lại 
không ủng hộ cho dân nhập cư, và tỉ lệ sinh sản lại thấp hơn nhiều so với mức đủ thay 
thế lao động. Như vậy, dần dà, lực lượng lao động sẽ – và hiện ở Đức đã xảy ra tình 
trạng này – thực sự giảm xuống. Điều này có nghĩa là sẽ ngày càng có ít người lao 
động hỗ trợ cho số lượng ngày càng nhiều những người hưu trí hy vọng sẽ nhận được 
những khoản lương hưu cao từ chính phủ. Thuế hiện đã rất cao, và tỉ lệ thất nghiệp của 
những người trẻ tuổi cũng rất cao. (Mức lương tối thiểu cao, cùng với thuế cao đánh 
vào lao động, và khó khăn trong việc tuyển dụng khiến cho chuyện tạo thêm việc làm 
mới trong khu vực tư nhân trở nên rất rủi ro.) Như vậy, hệ thống này về lâu về dài 
không bền vững. Giải pháp là cắt giảm mức hứa hẹn trợ cấp hưu trí, buộc thêm nhiều 
người làm việc cho đến một độ tuổi già hơn, và yêu cầu bắt buộc người lao động phải 
tiết kiệm cho lúc về hưu. Ngoài ra, nếu luật lệ về lao động linh hoạt hơn, thì sẽ tạo 
thêm được nhiều công việc hơn, và tỉ lệ thất nghiệp thấp hơn. Tuy nhiên, những biện 
pháp này không được công chúng ủng hộ và gặp sự phản đối kịch liệt của những ai hiện 
đã hưởng trợ cấp hưu trí và các trợ cấp khác. (Ở Ý, một giáo sư kinh tế ủng hộ cải cách 
thị trường lao động đã bị ám sát vì những quan điểm của ông.) 
Điều này thì nhiều người đã hiểu, và ta sẽ cho rằng người ta sẽ có biện pháp hữu hiệu. 
Điều chỉnh càng sớm thì càng ít đau đớn. Một vài quốc gia, chẳng hạn như Hà Lan, 
đã chuyển sang tình trạng có mức tiết kiệm hưu trí cao hơn, và tỉ lệ thất nghiệp thấp 
hơn. Những nước lớn trong khu vực dùng đồng euro như Pháp, Đức, và Ý thì chưa. 
Vẫn còn phải đợi xem liệu những liên minh ủng hộ các chính phủ khác nhau có thể 
tìm ra được một cách để chuẩn y những cải cách cần thiết hay không, hay liệu họ tiếp 
tục phản đối những thay đổi tất yếu. Nhưng phát biểu của các chính phủ châu Âu 
hiện tại cho thấy rằng họ sắp sửa công nhận một cách muộn màng rằng cần phải ra tay 
giải quyết, và có thể họ sắp bắt đầu hành động. Tuy nhiên, nếu để lỡ mất cơ hội, có 
thể họ khó mà nắm bắt lại được vì những biện pháp cần thiết sẽ trở nên khắc nghiệt 
hơn do tình hình ngân sách và dân số trở nên tồi tệ hơn. 
Có vẻ như là các nước nghèo chẳng cần quan tâm liệu các nước giàu có phải cắt giảm 
trợ cấp hưu trí cho người già hay không. Tuy nhiên, một giải pháp cho vấn nạn của 
họ là cho phép nhiều người nhập cư hơn. Nếu người ta làm như vậy, đó có thể là một 
Fulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countries 
Gs. David Dapice 5 Dịch: Lửa Hạ 
trong những biện pháp chính sách độc nhất, lớn nhất nhằm tạo bình đẳng thu nhập 
giữa các quốc gia. Những nhân công thuộc diện khiếm dụng lao động sẽ kiếm được 
và gởi về quê hương hàng tỉ đô-la4, học hỏi được nhiều kỹ năng và tạo được nhiều 
mối liên hệ, và cuối cùng quay về nước có thể mở các doanh nghiệp mới. Tuy nhiên, 
một phản ứng khác có thể là chống nhập cư do tình trạng thất nghiệp tạo ra bởi những 
điều kiện lao động đầy hạn chế. Hoặc có thể họ ra tay bảo hộ cho những ngành đang 
sa sút như nông nghiệp, thép và dệt. Đó là những mặt hàng mà các nước nghèo 
thường có hiệu quả sản xuất rất cao – nhưng một lực lượng lao động đang lão hóa thì 
thường không muốn thay đổi công việc. Như vậy, một lần nữa thất bại (ở nước giàu) 
cũng có thể tác động đến các nước nghèo. 
Tỉ giá hối đoái biến động và gây khó khăn ở nhiều nơi. 
Một khía cạnh khác của những thất bại chính sách kinh tế này có thể biểu hiện qua 
các tỉ giá hối đoái biến động. Trong những năm vừa qua, tỉ giá hối đoái giữa tiền tệ 
của các khối kinh tế lớn đã dao động rất mạnh. Đồng yên đã biến động từ điểm mạnh 
nhất với chỉ 80 yên ăn một đô-la xuống đến điểm yếu nhất với 145 yên ăn một đô-la - 
tất cả chỉ diễn ra trong năm 1995. Kể từ năm 1998, giá của đồng euro biến động từ 
1,2 đô xuống còn 0,8 đô. Thật đáng ngạc nhiên là những thay đổi này có tác động rất 
nhỏ đối với Mỹ, nước có 80% sản lượng là dịch vụ, ngoại trừ ở hai thái cực của giá trị 
đồng đô-la các ngành sản xuất hàng hóa có thể trao đổi ngoại thương (nông sản và 
hàng chế tạo công nghiệp) sẽ được hổ trợ rất nhiều hoặc bị cản trở nhiều.5 Tuy nhiên, 
những biến động về tỉ giá hối đoái có thể có tác động lớn đối với Nhật và khu vực 
dùng đồng euro. Khi giá trị đồng đô-la giảm nhẹ trong năm nay, triển vọng tăng 
trưởng của cả hai khu vực đó đã giảm sút vì mỗi khu vực dường như đều dựa vào xuất 
khẩu, nhất là xuất sang Mỹ, để đạt được mức tăng trưởng GDP thỏa đáng. Đồng đô-
la không thể đủ mạnh để hỗ trợ cho tăng trưởng của khu vực dùng đồng euro và Nhật 
trong khi còn yếu chưa đủ để giảm thâm hụt tài khoản vãng lai quá lớn của Mỹ, hiện ở 
mức khoảng 400 tỉ đô-la hay 4% GDP. Những biến động tỉ giá hối đoái này cũng có 
thể gây khó khăn cho các nước nghèo, trong đó có nhiều nước đã khánh kiệt vì vay 
mượn bằng loại tiền tệ này nhưng có thu nhập bằng loại tiền tệ khác. Kết quả có thể 
là những điều chỉnh đau đớn vì các gánh nặng nợ vay biến đổi không lường trước 
được. 
Một số nước nghèo thậm chí ràng buộc đồng nội tệ của mình với đồng đô-la, để rồi 
thấy đồng nội tệ có giá trị quá cao khi đô-la mạnh, và có giá trị quá thấp khi đô-la yếu. 
Một phần – nhưng chỉ là một phần thôi – trong những vấn nạn của Argentina xuất 
phát từ việc gắn chặt đồng nội tệ với đô-la. Một phiên bản hơi khác của việc “gắn 
chặt” với đô-la – như Thái Lan và Malaysia đã làm – đã dẫn đến những kiểu vay và 
cho vay không an toàn góp phần gây ra khủng hoảng châu Á. Sẽ dễ dàng hơn nhiều 
cho các nhà quản lý kinh tế ở các nước nghèo nếu tỉ giá hối đoái giữa các khối kinh tế 
lớn ổn định hơn. 
4 Một ước tính cho thấy hiện nay lượng tiền gởi về các nước đang phát triển là gần 100 tỉ đô-la - gần 
gấp đôi lượng viện trợ chính thức ròng đã cấp! Việc người lao động từ các nước nghèo có thể hưởng 
lương tại nước giàu với mức cao ít nhất gấp năm lần (so với ở quê nhà) cho thấy ở các nước nghèo 
cũng có thất bại thể chế. 
5 Khi đồng đô-la “mạnh”, hàng nhập khẩu rẻ, và hàng xuất khẩu của Mỹ không có lãi. Điều này 
thường làm tăng thâm hụt thương mại. Khi đồng đô-la yếu – và nó đã yếu đi trong những tháng gần 
đây – giá hàng nhập khẩu tính bằng đô-la sẽ tăng lên, làm hạn chế lượng nhập khẩu, và khả năng sinh 
lợi của hàng xuất khẩu của Mỹ tăng lên. 
Fulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countries 
Gs. David Dapice 6 Dịch: Lửa Hạ 
Các thất bại của Mỹ rất đáng kể nhưng nhanh chóng được chỉnh sửa 
Các thất bại thể chế quan trọng ở Mỹ đã được nêu ra nhưng chưa được phân tích. Về 
cơ bản, các thị trường chứng khoán ở Mỹ đã sôi động quá mức cần thiết (overheated) 
và được định giá quá cao so với thực tế (overvalued) trong giai đoạn 1998-2000 do 
một nhiều kiểu thất bại. Một kiểu thất bại (và là một thất bại rất đáng kinh ngạc) là 
nhiều nhà quản trị, hội đồng quản trị, và các hãng kế toán không kê khai đúng sổ sách 
tài khoản. Tổng giám đốc và các giám đốc phụ trách tài chính trong một công ty chịu 
trách nhiệm chính trong việc báo cáo trung thực kết quả tài chính cho cổ đông. Hội 
đồng quản trị có một ủy ban kiểm toán với nhiệm vụ giám sát họ, đó là một phần 
trong bổn phận của họ đại diện cho quyền lợi của cổ đông. Các hãng kế toán độc lập 
có nhiệm vụ kiểm tra những tài khoản này, và chứng nhận rằng chúng đã được người 
có năng lực kê khai đúng luật lệ. Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) của chính 
phủ trung ương có nhiệm vụ xem xét những trường hợp gian lận. TẤT CẢ các cơ 
quan và cá nhân này đã thất bại vì lý do này hay lý do khác. Những nhà quản trị được 
hưởng các quyền chọn cổ phiếu để mua cổ phần với giá thấp. Nếu có thể báo cáo kết 
quả tốt, họ có thể bán cổ phần với giá thổi phồng. Hội đồng quản trị thường quá tự 
mãn và quá thân thiện với các nhà quản trị. Các hãng kế toán thường cung cấp dịch 
vụ tư vấn với lệ phí rất đáng giá đến nỗi họ miễn cưỡng phê phán những tập quán kế 
toán đáng nghi ngờ. SEC không có đủ kinh phí hoạt động, và bị các chính khách chỉ 
trích nếu có vẻ làm mạnh tay quá. Các hãng môi giới và ngân hàng đầu tư dường như 
đã hợp tác trong những hoạt động này bằng cách làm ngơ trước những dấu hiệu cho 
thấy hoạt động kém cỏi, và đưa ra những đề xuất “Mua” cổ phiếu của những công ty 
mà họ biết là dưới mức trung bình. Tất cả những cơ chế chế ngự và kiểm tra lẫn nhau 
đã thất bại. Nhiều nhà đầu tư đã mất lượng tiền rất lớn khi thực trạng cuối cùng được 
phơi bày. 
Đây là những thất bại cực kỳ trầm trọng và căn bản. Nếu các công ty không báo cáo 
chính xác sổ sách tài khoản, thì vốn không thể được phân bổ một cách hợp lý. Toàn 
bộ lý do cơ bản cho sự tồn tại của các thị trường tài chính là chúng tạo nên “bộ não” 
của một nền kinh tế thị trường, đưa các nguồn vốn đến những nơi sử dụng có hiệu quả 
nhất. Quá trình này đòi hỏi phải có thông tin tốt. Không những điều này đã không 
xảy ra, mà còn có những dòng vốn quốc tế - cũng một phần dựa vào dữ liệu xấu – gây 
ra những tình trạng mất cân đối kinh tế vĩ mô (một đồng đô-la quá mạnh) và đầu tư dư 
thừa mà hiện nay cần phải được giải quyết để có thể tăng trưởng bình thường trở lại. 
Quá nhiều dòng vốn nước ngoài đổ vào Mỹ đã tạo nên thâm hụt thương mại lớn. 
Tính đến nay đã có nhiều phản ứng đáng kể trước các thất bại này. Một vài công ty 
rất lớn và một hãng kế toán lớn đã buộc phải phá sản. Những nhà quản trị của một số 
công ty đã bị bắt và tống giam. Một số khác đã bị sa thải. Quốc hội Mỹ đã thông qua 
một luật mạnh tay chống gian lận nhắm vào những tập quán như thế, và tổng thống 
Bush đã ký ban hành luật đó. Luật mới này lập ra một ban giám sát kiểm toán độc 
lập, tách biệt dịch vụ tư vấn và kiểm toán, và quy định phạt đến 20 năm tù cho hành vi 
gian lận trong doanh nghiệp. Luật này cũng giúp cho nhà đầu tư dễ dàng hơn trong 
việc thu hồi những khoản mất mát do các nhà quản trị gian lận, và yêu cầu các nhà 
quản trị phải báo cáo kịp thời những đợt bán cổ phiếu của mình. 
Giá cổ phiếu của những công ty chỉ mới bị nghi ngờ kế toán không minh bạch đã 
giảm mạnh, khiến cho ngay cả những công ty trung thực cũng phải làm sổ sách kế 
Fulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countries 
Gs. David Dapice 7 Dịch: Lửa Hạ 
toán minh bạch hơn. SEC đã yêu cầu tất cả các nhà quản trị trong 1000 công ty hàng 
đầu phải đích thân chứng minh các tài khoản công ty của họ trước ngày 14 tháng 8. 
Các hãng môi giới lớn đã bị phạt những khoản tiền lớn vì đã tư vấn thiên vị, còn 
những ngân hàng đầu tư lớn đang bị Quốc hội điều tra. Nhiều ngân hàng và hãng môi 
giới bị những nhà đầu tư phẫn nộ kiện ra tòa. Các phóng viên chuyên về tài chính bây 
giờ phải xác định các khía cạnh có thể có xung đột quyền lợi khi phỏng vấn một nhà 
môi giới hay nguồn tin khác về một công ty.6 Những tổ chức đầu tư trung gian lớn, 
chẳng hạn như các quỹ hưu bổng hay quỹ đầu tư chung, đã bắt đầu thúc giục các công 
ty tính quyền chọn cổ phiếu vào chi phí kinh doanh - thể hiện chi phí của chúng khi 
được cấp cho nhân viên công ty. Điều này sẽ có xu hướng làm giảm số lượng quyền 
chọn cổ phiếu được cấp, vì lợi nhuận báo cáo sẽ giảm khi chi phí này được ghi nhận 
đúng. Kinh phí hoạt động cho SEC đã được tăng lên đáng kể. Tất cả những điều này 
diễn ra trong vòng hai, ba quý vừa qua. Chắc chắn những nhà quản trị doanh nghiệp 
sẽ khó khăn hơn và sẽ nguy hiểm hơn nếu muốn lường gạt cổ đông. 
Xin nhắc lại là thỉnh thoảng các thể chế có thể thất bại. Cơ sở để kiểm tra xem một hệ 
thống có tốt hay không là những vấn nạn này được xác định, chẩn đoán, và xử lý kịp 
thời và hiệu quả sao cho tác hại có thể được hạn chế và không tái diễn. 
Tăng trưởng kinh tế hiện đại là một hiện tượng tương đối gần đây. Nó thật sự bắt đầu 
cách đây hai trăm năm ở Vương quốc Anh, và từ từ lan tràn sang những vùng khác 
của châu Âu, và những khu vực định cư của người châu Âu trong thế kỷ tiếp theo đó. 
(Nhật cũng gia nhập, bắt đầu t
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 _tinh_hinh_bat_on_o_nhung_.pdf _tinh_hinh_bat_on_o_nhung_.pdf