Tóm tắt bài giảng: Xã hội học đại cương

Tiếp cận “tích hợp” của Osipov – đại diện XHH Mac-xit: (Xã hội học và

chủ nghĩa xã hội, 1992): nhấn mạnh yếu tố vĩ mô - tính toàn vẹn của xã hội

+ yếu tố vi mô - hành vi và hoạt động xã hội của con người  Xã hội học là

khoa học về các quy luật xã hội chung và đặc thù về sự phát triển, vận hành

của các hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ chế

tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của

các cá nhận, nhóm xã hội, các giai cấp và dân tộc.

 Theo cách tiếp cận này, đối tượng nghiên cứu của XHH không chỉ con

người hay xã hội hoặc cả xã hội lẫn con người mà XHH nghiên cứu mối

quan hệ hữu cơ, mối quan hệ biện chứng, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn

nhau giữa một bên là con người với tư cách là cá nhân, nhóm và một bên là

xã hội với tư cách là hệ thống xã hội, là cơ cấu xã hội hay cấu trúc xã hội.

pdf72 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tóm tắt bài giảng: Xã hội học đại cương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Truyền thông liên cá nhân (giữa người này với người khác). - Truyền thông tập thể (trong nội bộ một cơ quan, một công ty, một tổ chức đoàn thể, hay một nhóm xã hội nào đó). - Truyền thông đại chúng.  Truyền thông đại chúng: Truyền thông đại chúng (TTĐC) là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Các phương tiện truyền thông đại chúng (còn có thể gọi là các phương tiện thông tin đại chúng - mass media) chính là những công cụ kỹ thuật (hay những kênh truyền, phương tiện trung gian) mà nhờ đó, người ta có thể thực hiện quá trình truyền thông đại chúng.  Xã hội học Truyền thông đại chúng  Thiết chế/ Định chế Truyền thông đại chúng Là một thiết chế mới – nằm trong thiết chế văn hóa, thiết chế TTĐC có các đặc trưng căn bản: + Các PTTTĐC chỉ hoạt động trong lĩnh vực công cộng là thiết chế mở rộng cửa cho tất cả mọi người, chỉ quan tâm đề cập tới những vấn đề, sự kiện đại chúng. + Hoàn toàn không mang tính chất cưỡng bách + TTĐC là một ngành công nghiệp thực sự trong xã hội + Hoạt động của các PTTTĐC luôn luôn chịu sự chi phối và ràng buộc bởi một số chuẩn mực và qui tắc nhất định ít nhiều chặt chẽ hay lỏng lẻo tùy theo từng quốc gia, bao gồm những qui tắc thuộc về hệ thống pháp luật nhà nước lẫn những qui tắc thuộc về nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp.  Ý nghĩa sâu xa của thiết chế TTĐC xét về mặt xã hội học: thiết chế này tạo ra một không gian công cộng trong xã hội dân sự, trong đó mỗi công dân, về nguyên tắc, được xác lập quyền thông tin và quyền được thông tin về bất cứ chuyện gì xảy ra trong xã hội có liên quan đến quyền lợi và vận mệnh của mình.  Như vậy, theo ý nghĩa này, thiết chế truyền thông đại chúng là một thiết chế độc đáo của một xã hội dân chủ đặt cơ sở trên một nhà nước pháp quyền, vốn là những đặc trưng chỉ có trong các xã hội hiện đại. - 52  Những lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học TTĐC  - NC công chúng: nghiên cứu đặc điểm, ứng xử của công chúng đối các phương tiện TTĐC (họ là ai, thuộc những tầng lớp nào, họ theo dõi các phương tiện TTĐC nào nhiều nhất, hoặc phản ứng và thái độ của họ đối với TTĐC ra sao,)  - Nghiên cứu tổ chức truyền thông và các nhà truyền thông: về nguồn gốc xã hội cũng như những đặc điểm xã hội khác của các nhà TT ảnh hưởng đến phương thức và nội dung truyền thông; phân tích các vai trò của các tổ chức truyền thông; nghiên cứu tính chất hoạt động truyền thông và cơ cấu tổ chức của các hoạt động này.  Những lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học TTĐC  - Nghiên cứu nội dung truyền thông: phân tích nội dung các thông điệp truyền thông.  - Nghiên cứu hiệu quả truyền thông (tức nghiên cứu về ảnh hưởng hay tác động xã hội của các PTTTĐC).  TTĐC và quá trình hình thành dư luận xã hội  Khái niệm dư luận xã hội: DLXH là hiện tượng xã hội đặc thù – là phương thức đặc biệt của ý thức quần chúng – dạng thức biểu hiện thực tế và sinh động hàng ngày của ý thức xã hội; dư luận xã hội là biểu thị nhận thức và tình cảm, ý chí và nguyện vọng, ý kiến phán xét, đánh giá, thái độ, là sự phản ánh tâm lí và tâm trạng xã hội,... của các nhóm xã hội lớn hoặc của cộng đồng xã hội nói chung. Ở Việt Nam, DLXH đồng nghĩa với công luận hay chính kiến xã hội (Ng. Quý Thanh)  TTĐC và quá trình hình thành dư luận xã hội  Cơ cấu dư luận xã hội:  Chủ thể của dư luận xã hội có thể là ý kiến của các nhóm xã hội, hay là ý kiến của cộng đồng;  Khách thể của dư luận xã hội có thể là những vấn đề ở tầm vĩ mô (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ) hay chỉ một vấn đề thuộc về cá nhân nào đó (ví dụ: đời tư của một người nổi tiếng,...)  TTĐC và quá trình hình thành dư luận xã hội - 53  Chức năng của DLXH  Chức năng vĩ mô (ở cấp độ hệ thống xã hội): DLXH đo mức độ liên kết, đoàn kết trong xã hội – trong một hệ thống xã hội hoặc các hệ thống xã hội khác nhau với nhau; DLXH cung cấp thông tin tư vấn cho quản lí xã hội và tạo sức ép với những hành vi sai lệch; DLXH giải tỏa sự căng thẳng xã hội.  Chức năng vi mô (cấp độ sự kiện, hiện tượng xã hội): DLXH đánh giá, phán xét hành vi, sự kiện; DLXH kiểm soát, giám sát hành vi xã hội; DLXH điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; DLXH giáo dục, khuyến khích các hành vi tốt, ngăn chặn hành vi xấu; DLXH cố vấn, đề ra các kiến nghị, các lời khuyên,...  Phân biệt Dư luận xã hội và Tin đồn XHH Phân biệt Dư luận xã hội và Tin đồn TIÊU CHÍ DƯ LUẬN XÃ HỘI TIN ĐỒN Vấn đề được đề cập Liên quan đến số đông, đại chúng, những lĩnh vực công cộng. Chủ yếu là vấn đề cá nhân, đôi khi là vấn đề công cộng. Khả năng kiểm chứng Có nguồn kiểm chứng: Các cơ quan chức năng và các phương tiện TTĐC. Khó kiểm chứng và không có cơ quan chức năng kiểm chứng. Yếu tố tinh thần Mức độ tham gia cao và có sự tham gia của yếu tố tư duy. Mứa độ tham gia thấp và lan tỏa trong vô thức. Kênh lan truyền Chủ yếu thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Lan tỏa, truyền thông liên cá nhân. Tính ổn định Ổn định, khó thay đổi Không ổn định và dễ thay đổi.  Quá trình hình thành dư luận xã hội - 54 XHH Quá trình hình thành dư luận xã hội Bước 1: Các cá nhân tiếp xúc, làm quen với thông tin về sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội đang diễn ra và tìm kiếm thêm thông tin, trao đổi thảo luận với nhau để có thể hình thành những ý niệm ban đầu về sự kiện, hiện tượng xã hội đó. Bước 2: Các ý kiến cá nhân được trao đổi bàn bạc tong nhóm. Cơ sở cho việc thảo luận nhóm là lợi ích chung của nhóm và hệ thống giá trị chuẩn mực chi phối các khuôn mẫu tư duy và hành vi của các thành viên trong nhóm. Ở đây, ý thức cá nhân đã dần dần chuyển sang ý thức xã hội. Bước 3: Các nhóm trao đổi, tranh luận với nhau cùng tìm đến những điểm chung trong những ý kiến, quan điểm của mỗi nhóm. Cơ sở cho quá trình này là lợi ích và hệ thống giá trị, chuẩn mực chung cùng được các nhóm chia sẻ và thừa nhận. Bước 4: Trên cơ sở thảo luận, các nhóm đi đến những phán xét, đánh giá chung được đa số thừa nhận. Như vậy, DLXH được hình thành thể hiện thái độ của đông đảo cộng đồng người và thúc đẩy hành động thực tế của họ.  DLXH có sự phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong  quá trình biện chứng. XHH DLXH sau khi được hình thành sẽ phát triển theo các chiều hướng khác nhau: Nếu DLXH được giải quyết thỏa đáng thì DLXH sẽ tiêu vong; Nếu không được giải quyết thỏa đáng, DLXH sẽ tăng thêm cường độ hoặc xuất hiện DLXH mới theo chiều hướng mới (có thể DLXH lắng xuống chuyển sang dạng tiềm ẩn; có thể DLXH chuyển sang dạng hành động). DLXH là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội. Trong đó, truyền thông đại chúng là cơ chế hữu hiệu đảm bảo sự hình thành DLXH trên phạm vi rộng lớn và trong giới hạn thời gian phù hợp để đảm bảo tính thời sự. - 55  Tác động hai chiều giữa TTĐC và DLXH XHH Tác động hai chiều giữa TTĐC và DLXH - TTĐC khơi nguồn DLXH - TTĐC phản ánh và truyền dẫn DLXH - TTĐC định hướng DLXH - TTĐC điều hòa (giải quyết) DLXH - TTĐC tạo ra chương trình nghị sự xã hội (những vấn đề mà xã hội quan tâm, hướng sự chú ý của DLXH đến những vấn đề cốt yếu). DLXH cung cấp nguồn sự kiện và vấn đề vô tận – đề tài, nguồn tin phong phú cho TTĐC - Cùng với sự tác động của kỹ thuật và công nghệ truyền thông, DLXH có thể làm thay đổi tư duy và phong cách tác nghiệp của nhà báo. - DLXH là nguồn tin tiềm tàng, nguồn sự kiện nuôi sống và làm tươi mới sản phẩm báo chí và nhận thức của nhà báo. DLXH là tác nhân làm thay đổi TTĐC. Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có mối quan hệ hai chiều. Dư luận xã hội tích cực là một điều kiện dẫn đến ổn định chính trị xã hội. Từ dư luận xã hội sẽ dẫn đến các hành vi xã hội rộng lớn, tạo sức ép thúc đẩy, tạo ra những khuôn khổ bắt buộc đối với việc nhận thức và giải quyết tốt các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi truyền thông là phương tiện chủ yếu tuyên truyền hệ tư tưởng chính trị, truyền thông đại chúng thiết lập và củng cố thông tin trong công chúng, hợp pháp hoá các thể chế quyền lực. Truyền thông đại chúng là một nhân tố của sự kiểm soát xã hội, được giới cầm quyền sử dụng để hợp pháp hoá các chính sách, ổn định hoá hệ thống chính trị và kinh tế. CHƯƠNG 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC 5.1. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu xã hội học 5.1.1. Phương pháp luận  Phương pháp Nghĩa gốc:  Phương = lối, cách thức / Pháp = phép   Phương pháp là những cách thức đã trở thành phép tắc phải tuân thủ khi tiến hành một công việc - 56 Nghĩa chung nhất:  Phương pháp là con đường, cách thức đạt được mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định Phương pháp nghiên cứu là sự cụ thể hóa nội hàm kn phương pháp, đó là những cách thức, kỹ thuật, biện pháp, thao tác mà nhà khoa học sử dụng để chiếm lĩnh đối tượng một cách hiệu quả nhất.  Phương pháp luận - PPL là lý luận về phương pháp, là khoa học nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu; đồng thời, cũng là phương pháp thực hành cụ thể trong một lĩnh vực khoa học. - PPL sẽ xem xét, nghiên cứu để tìm ra phương pháp tối ưu. Mục đích của nó là xác định giá trị của phương pháp nghiên cứu, giúp các nhà nghiên cứu làm việc một cách có phương pháp.  Phương pháp và phương pháp luận liên quan trực tiếp với nhau:  Đối tượng của phương pháp luận chính là phương pháp.  Phương pháp luận chỉ có thể ra đời và phát triển trên cơ sở sự phát triển đến một mức độ cao của phương pháp. Phương pháp NC XHH là một thể thống nhất của 3 cấp độ:  Phương pháp luận (được rút ra từ các lý luận chung)  Phương pháp điều tra (dùng để thu thập, xử lý, phân tích thông tin)  Kỹ thuật nghiên cứu (các kỹ năng, thao tác cụ thể trong các giai đoạn của hoạt động nghiên cứu. VD: kỹ thuật lập bảng hỏi, kỹ thuật xử lý số liệu,)  Khách thể NC của các NC XHH là thực tại XH nói chung  do đó, các PPNC XHH cũng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu xã hội học  PPNC XHH là sự thống nhất biện chứng giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. PP nghiên cứu định lượng: là tập hợp các quy tắc, phương pháp, kĩ thuật hướng đến phân tích, xem xét khía cạnh lượng của các hiện tượng, các quá trình và các mối quan hệ xã hội được nghiên cứu - 57 PP nghiên cứu định tính: là nghiên cứu có tính khoa học nhằm tìm hiểu ý nghĩa riêng tư của kinh nghiệm và hành động của cá nhân trong bối cảnh môi trường xã hội  Những PP định lượng tiêu biểu  An-ket (điều tra bằng bảng hỏi)  Phân tích nội dung  Thực nghiệm  Những PP định tính tiêu biểu  Phỏng vấn (sâu)  Nhóm trọng điểm (làm việc nhóm/phỏng vấn nhóm)  Quan sát (tham dự) 5.2. Các bước tiến hành một cuộc điều tra xã hội học Cuộc nghiên cứu xã hội học thực nghiệm hay nói cách khác là cuộc điều tra xã hội học là phương pháp thu thập thông tin về các hiện tượng và quá trình xã hội trong phạm vi không gian và thời gian cụ thể nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Điều tra xã hội học có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Điều tra xã hội học có có thể tiến hành toàn diện (toàn bộ đối tượng trong diện nghiên cứu) hoặc điều tra chọn mẫu (chỉ điều tra trong các đối tượng được chọn một cách khoa học). Thực tế người ta hay dùng cách chọn mẫu và ít tốn thời gian và chi phí, kết quả suy rộng ra toàn diện. Có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về một cuộc nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Các ý kiến dù có khác nhau chăng nữa thì bất kỳ một cuộc nghiên cứu xã hội học nào cũng trải qua những bước cơ bản sau: - Xác định đề tài và mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng giả thuyết và thao tác hóa khái niệm - Xác định phương pháp thu thập thông tin - Xây dựng bảng hỏi - Lựa chọn mẫu điều tra - Lựa chọn và tập huấn điều tra viên, tiến hành điều tra ở địa bàn - Xử lý thông tin - Đánh giá, phân tích và báo cáo kết quả - 58 Các bước trên có thể xếp vào ba giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn thu thập thông tin và giai đoạn xử lý thông tin. 5.2.1. Giai đoạn chuẩn bị a. Xác định đề tài, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Xác định đề tài nghiên cứu Xác định đề tài nghiên cứu là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định cho bất kỳ một nghiên cứu khoa học nào và không ngoại trừ cuộc nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Để xác định được đề tài phù hợp, người nghiên cứu phải trả lời được các câu hỏi: Nghiên cứu gì (đối tượng nghiên cứu; khách thể nghiên cứu)? Nghiên cứu trong phạm vi nào (quy mô về thời gian và không gian)? Đối tượng nghiên cứu xã hội học thường là các vấn đề xã hội nghiên cứu và nhà xã hội học quan tâm, có nhu cầu tìm hiểu và hướng tìm cách giải quyết chúng. Thực tế đời sống xã hội chúng ta gặp những sự không phù hợp hay sự khác biệt giữa cái đang xảy ra với cái cần phải là. Sự không phù hợp hay sự khác biệt này có thể được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Chính sự không phù hợp hay sự khác biệt đó được nêu ra để nghiên cứu, để tìm hiểu được gọi là vấn đề nghiên cứu. Vấn đề nghiên cứu chỉ trở thành đề tài khi nó được chấp nhận và coi như đối tượng nghiên cứu. Lĩnh vực của thực tiễn xã hội chứa đựng các vấn đề nghiên cứu đó thì được gọi là khách thể nghiên cứu. Như vậy, việc xác định đề tài là cần phải thấy được sự tồn tại thật sự của vấn đề xã hội, cũng như phạm vi, lĩnh vực xác định vấn đề đó. Tên đề tài cần được trình bày một cách ngắn gọn, khoa học với câu chữ rõ rang, chính xác. Không cho phép tên đề tài có những từ ngữ câu chữ không xác định hoặc đa nghĩa. - Xác định mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là các vấn đề, cái đích mà cuộc nghiên cứu phải đạt đến, tức là cuộc nghiên cứu giải quyết được những gì có ích cho quá trình nhận thức và cải tạo xã hội theo đề tài đã chọn. Thường thì người nghiên cứu phải chỉ ra được các yếu tố, các khía cạnh, các mặt của đối tượng nghiên cứu cần được làm rõ, cần được chứng minh. Như vậy, mục đích nghiên cứu là giải thích thêm cho đề tài, cụ thể hóa đề tài, loại bỏ đi những yếu tố chưa xác định trong đề tài và trong - 59 chừng mực nào đó mục tiêu được xem xét như tiêu chuẩn cho đề tài. Mỗi đề tài có thể xác định mục tiêu cơ bản và các mục tiêu cụ thể. - Nhiệm vụ nghiên cứu là chi tiết hóa mục đích nghiên cứu, nêu ra những bộ phận của mục đích phải hoàn thành. b. Xây dựng giả thuyết và thao tác hóa khái niệm - Xây dựng giả thuyết: Giả thuyết trong nghiên cứu xã hội học là sự giả định có căn cứ khoa học về cơ cấu các đối tượng, về tính chất của các yếu tố và các liên hệ tạo nên các đối tượng đó, về cơ chế hoạt động và phát triển của chúng. Cũng có thể hiểu giả thuyết như là những giả định về vấn đề cần nghiên cứu mà chúng ta thu được qua cuộc điều tra. Nó là những nhận thức sơ bộ về vấn đề được nghiên cứu cho ta biết những ý niệm về đặc trưng, xu hướng và tính quy luật của các quá trình xã hội mà chúng ta tiến hành khảo sát. Thông thường, giả thuyết được biểu hiện dưới các mệnh đề có dạng như: vì thế này thì thế kia, nếu vấn đề này.thì thế kia, càng thế nàythì thế kia, trong điều kiện này..thì thế kia..v..v Trong quá trình xây dựng các giả thuyết, cần lưu ý những vấn đề sau đây: + Những giả thuyết đưa ra không được mâu thuẫn với những quy luật đã được xác định hoặc những kết quả đã được kiểm nghiệm là đúng trước đó. Trong trường hợp đặc biệt, giả thuyết đưa ra có thể mâu thuẫn với kết quả xã hội xác nhận trước đó. Lúc này người lập giả thuyết phải đưa ra các điều kiện mới hoặc phải giải thích - Giả thuyết đưa ra phải phù hợp với những nguyên lý xuất phát của chủ nghĩa duy vật lịch sử (mục đích của nó là dễ sàng lọc các giả thuyết lệch lạc, lựa chọn những giả thuyết đáng tin cậy, phù hợp với cuộc nghiên cứu). + Giả thuyết phải kiểm tra trong quá trình nghiên cứu hay trong thực tiễn. Xây dựng giả thuyết cần chú ý hai mặt: Tập hợp các nguyên nhân dẫn đến một hiện tượng nào đó và các nguyên nhân đó có thể kiểm tra được. + Việc phân tích lôgíc của các giả thuyết phải khẳng định được tính không mâu thuẫn của nó, cho phép trả lời các câu hỏi về một số mệnh đề của giả thuyết xem có phải là giả tạo hay không (ở đây bao hàm các thao tác lôgíc, các định nghĩa thao tác và quy tắc ký hiệu). - 60 Giả thuyết đưa ra có thể sẽ được kết quả của cuộc điều tra xác nhận là đúng song cũng có thể bác bỏ nó trong trường hợp bị phủ nhận, chúng ta cần xây dựng lại giả thuyết. Tuỳ thuộc vào vấn đề nghiên cứu mà số lượng giả thuyết được đưa ra nhiều hay ít. Song trong mỗi cuộc nghiên cứu thường là có một giả thuyết chính và một giả thuyết bổ trợ - các giả thuyết hỗ trợ có nhiệm vụ bổ sung và giải thích cho giả thuyết chính . Ngoài hai loại giả thuyết chính và bổ trợ ra, người ta còn chia giả thuyết ra làm 3 loại sau: Giả thuyết mô tả, nhằm chỉ ra những đặc trưng và thực trạng của đối tượng; Giả thuyết giải thích nhằm chỉ ra những nguyên nhân của một hiện tượng xã hội; Giả thuyết xu hướng nhằm chỉ ra xu hướng sẽ diễn ra trong tương lai của một hiện tượng hay một quá thình xã hội nào đó. - Thao tác hóa khái niệm Đây là khâu quan trọng của một công trình nghiên cứu thực nghiệm, nó cho phép chúng ta có thể tái tạo được vấn đề nghiên cứu và đo lường trực tiếp các vấn đề được nêu ra. Trong các đề tài nghiên cứu xã hội học, chúng ta thường gặp những khái niệm trừa tượng. Mức độ trừu tượng của các khái niệm có thể nhiều ít khác nhau. Song tất cả các khái niệm đó không thể trực tiếp sử dụng để thu thập thông tin, bởi những khái niệm đó thường gây ra sự khó hiểu. Vì lý do đó, người ta cần thao tác hóa khái niệm để tạo ra các khái niệm dễ hiểu. Thao tác hoá các khái niệm là những thao tác lôgíc nhằm chuyển những khái niệm trừu tượng, phức tạp thành khái niệm đơn giản, dễ hiểu. Muốn thao tác hóa khái niệm phải dùng hệ thống các chỉ báo. Nói cách khác, quá trình thao tác hóa khái niệm chính là quá trình xác định hệ thống các chỉ báo. Có hai loại chỉ báo thường dùng, đó là chỉ báo khái niệm và chỉ báo thực nghiệm. Chỉ báo khái niệm (chỉ báo trung gian) tức là các khái niệm có mức độ trừu tượng nhỏ hơn và cụ thể hơn so với khái niệm của đề tài. Nhiệm vụ của các chỉ báo này là nhằm làm sang tỏ, đầy đủ hơn các khái niệm của đề tài. Chỉ báo thực nghiệm là những khái niệm ở mức độ cụ thể nhất , cụ thể tới mức có thể đo lường, quan sát được và hoàn toàn thích hợp cho việc điều tra thực - 61 nghiệm. Nhiệm vụ của các chỉ báo thực nghiệm là làm sáng tỏ các chỉ báo trung gian. Khái niệm của đề tài > Chỉ báo khái niệm (chỉ báo trung gian) > Chỉ báo thực nghiệm Như vậy, nhiệm vụ của nhà xã hội học là phải chuyển những khái niệm trừu tượng sang những khái niệm thực nghiệm ít trừu tượng hơn (chỉ báo trung gian), sau đó là chuyển từ các chỉ báo trung gian sang các chỉ báo thực nghiệm. Nhờ có quá trình thao tác hoá các khái niệm và xác định các chỉ báo mà chúng ta có cơ sở để thu thập thông tin thực tế, sử dụng được các phương pháp định lượng để đo lường những hiện tượng và các dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài của một đối tượng hoặc một nhóm xã hội nào đó, từ đó mà có thể hiểu được nội dung và bản chất ẩn dấu bên trong của đối tượng. c. Lựa chọn phương pháp điều tra Trong điều tra xã hội học, để thu thập thông tin cá biệt (sơ cấp) và các thông tin khác, người ta sử dụng một số phương thông dụng như sau: phân tích tài liệu, quan sát, phát vấn (phỏng vấn, ankét, mêtric xã hội), thực nghiệm (đã trình bày ở chương 1). Thông thường, trong mỗi cuộc điều tra, nhà nghiên cứu thường sử dụng một nhóm các phương pháp có ý nghĩa bổ sung cho nhau. Trrong mỗi nhóm, lại chọn một hoặc hai phương pháp làm phương pháp chính (có ý nghĩa chủ đạo) trong cuộc nghiên cứu, còn các phương pháp khác chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Việc lựa chọn một nhóm các phương pháp (hay một phương pháp nào đó làm chính) là tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của cuộc nghiên cứu cũng như khả năng tài chính, trang thiết bị kỹ thuật và các thông tin có sẵn. 5.2.2. Giai đoạn thu thập thông tin a. Xây dựng bảng hỏi * Bảng hỏi và vai trò của bảng hỏi Bảng câu hỏi là công cụ cơ bản trong việc thu thập thông tin xã hội, là một tập hợp các câu hỏi được sắp xếp có hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc tâm lý và logic, nhằm thu được các nội dung cần thiết cho đề tài nghiên cứu, là sự thể hiện bên ngoài của giả thuyết đã nêu ở phần quá trình nghiên cứu. Bảng câu hỏi thường dùng trong các trường hợp sử dụng các phương pháp phỏng vấn, ankét, mêtric xã hội. - 62 Một bảng câu hỏi được xây xựng tốt sẽ cho phép thu được những lượng thông tin đáng tin cậy và khả quan, ngược lại sẽ làm thông tin thu được bị sai lệch hoặc méo mó. Xây dựng bảng hỏi là một công việc trí tuệ vất vả, chất lượng của bảng hỏi phụ thuộc vào trình độ của tác giả và sự chuẩn bị chu đáo ở ác khâu xác định đề tài và mục tiêu nghiên cứu, xây dựng các giả thuyết, mô hình nghiên cứu và thao tác hóa các khái niệm. Thông thường, lập một bảng câu hỏi phải tính đến hai yêu cầu: Phải đáp ứng được mục tiêu của cuộc điều tra và phải phù hợp với trình độ và tâm lý của người được hỏi. Cơ sở chủ yếu để tạo nên bảng hỏi là các câu hỏi. * Các loại câu hỏi Căn cứ vào nội dung câu hỏi, có: + Các câu hỏi đặc trưng cho một sự kiện, sự thật nào đó, trong một không gian và thời gian xác định. + Các câu hỏi thể hiện sự mong muốn, đánh giá của cá nhân, của nhóm về một vấn đề nào đó. Căn cứ vào tính chất câu hỏi, có: + Câu hỏi đóng: là câu hỏi có sẵn các phương án trả lời. Thông thường có hai dạng: câu hỏi đóng đơn giản là loại câu hỏi chỉ gồm hai phương án trả lời có – không; câu hỏi đóng phức tạp là câu hỏi có nhiều phương án trả lời hơn, phân biệt chi tiết hơn các phương án trả lời, ví dụ: Anh chị có hài lòng với công việc cuả mình không? - Hài lòng. - Bình thường - Không hài lòng. Ưu điểm của câu hỏi đóng là câu trả lời thường trúng trọng tâm nghiên cứu, dễ tổng hợp. Tuy vậy, loại câu hỏi này chỉ thích hợp với các vấn đề rõ rang, người nghiên cứu đã bao quát được các cách trả lời (nếu chưa bao quát hết các cách trả lời, ta sẽ bỏ mất các cơ hội thu được nhận thức mới). + Câu hỏi mở: Là loại câu hỏi không chuẩn bị phương án trả lời trước, người được hỏi trả lời theo sự hiểu biết, tâm trạng của mình, do đó, những câu trả lời nhận được cũng có nội dung khác nhau, mức độ dài ngắn cũng khác nhau. - 63 Ví dụ: Tại sao bạn chọn thi vào Trường Đại học Sư phạm? hoặc Anh chị có thể cho biết ý kiến của mình về vấn đề sống thử trong sinh viên hiện nay? Câu hỏi mở có ưu điểm là người được hỏi không bị ảnh hưởng bởi các câu trả lời được chuẩn bị trước, do vậy, nó có khả năng chỉ ra những hiện tượng xã hội mà chính tác giải đôi khi cũng chưa dự đoán trước được. Nhờ ưu thế này, câu hỏi mở thường được dùng cho những hiện tượng và quá trình chưa được hiểu biết một cách đầy đủ. Ngoài ra, khi cần kiểm tra tính đầy đủ và chất lượng của câu hỏi đóng, người ta cũng thường dùng câu hỏi mở. Tuy nhiên, câu hỏi mở cũng có nhược điểm là các câu trả lời thường có nhiều nghĩa rất khác nhau, nhiều cách trả lời khác nhau hay cách dùng từ đa nghĩa của người trả lời, gây khó khăn lớn cho việc xử lý số liệu thống kê. + Câu hỏi kết hợp: Loại câu hỏi này vừa đưa ra sẵn các cách trả lời, vừa có phần để ngỏ để người trả lời tự điền vào. Loại câu hỏi này hay được dùng vì nó kết hợp được ưu điểm của cả hai loại câu hỏi trên. Ví dụ: Có nhận định rằng: “lý luận báo chí góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động báo chí”. Ông (bà) có đồng ý với nhận định này không? - Đồng ý  1 x Vì: Không có lý luận sẽ đi vào lối mòn, bắt chước, thiếu sáng tạo và thiếu tầm. - Không đồng ý  2 Vì:...................................................................................................................... ...... ........................................................................................................................ Các loại câu hỏi khác: Trên thực tế, bảng hỏi còn có thể có nhiều loại câu hỏi khác nữa như: + Câu hỏi chức năng: loại câu hỏi này thường dùng để thực hiện 3 mục đích: (1) Kiểm tra sự am hiểu của người được hỏi đối với vấn đề do nhà nghiên cứu đặt ra (câu hỏi lọc), (2) Kiểm tra tính trung thực của câu trả lời, (3) Chức năng tâm lý: tạo ra sự hứng thú, xoá bỏ các hàng rào tâm lý, giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi cho người trả lời. + Câu hỏi theo bảng với hai mặt đối cực + Câu hỏi theo dạng cho điểm, ví dụ: - 64 Nếu được cho điểm, bạn chọn thang điểm nào cho chuyên mục Khách mời của báo Sinh viên Việt Nam - Điểm 9 đến 10  1 - Điểm 7 đến 8  2 - Điểm 5

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxa_hoi_hoc_1_2181.pdf