ĐỀ BÀI
A làm quen với B trên mạng. Sau vài lần trò chuyện, A ngỏ lời yêu B và hẹn B đi 
chơi, B nhận lời. Thấy B còn non nớt, chưa va chạm cuộc sống, A nảy sinh ý định 
hiếp dâm B. Trước khi đến điểmhẹn với B, A chủ động gọi điện cho N, V, Q và 
rủ ba tên này hiếp dâm B. N, V, Q đồng ý. Bọn chúng thỏa thuận, A sẽ đưa B đến 
con đường sát cánh đồng trò chuyện. N, V, Q sẽ bất ngờ xuất hiện và cả bốn tên sẽ 
thực hiện việc hiếp dâm nạn nhân. Thực tế, sự việc đã diễn ra theo đúng như dự 
tính của A, V, N, Q. Cả 4 tên đều có hành vi dung vũ lực và giao cấu trái ý muốn 
với nạn nhân (4 tên trong vụ án này đều thỏa mãn điều kiện chủ thể của tội phạm 
và là nam giới). 
              
                                            
                                
            
 
            
                 17 trang
17 trang | 
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Tổng hợp bài tập môn lý luận về Luật hình sự và tội phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng hợp bài tập môn lý luận về Luật 
hình sự và tội phạm 
ĐỀ BÀI 
A làm quen với B trên mạng. Sau vài lần trò chuyện, A ngỏ lời yêu B và hẹn B đi 
chơi, B nhận lời. Thấy B còn non nớt, chưa va chạm cuộc sống, A nảy sinh ý định 
hiếp dâm B. Trước khi đến điểm hẹn với B, A chủ động gọi điện cho N, V, Q và 
rủ ba tên này hiếp dâm B. N, V, Q đồng ý. Bọn chúng thỏa thuận, A sẽ đưa B đến 
con đường sát cánh đồng trò chuyện. N, V, Q sẽ bất ngờ xuất hiện và cả bốn tên sẽ 
thực hiện việc hiếp dâm nạn nhân. Thực tế, sự việc đã diễn ra theo đúng như dự 
tính của A, V, N, Q. Cả 4 tên đều có hành vi dung vũ lực và giao cấu trái ý muốn 
với nạn nhân (4 tên trong vụ án này đều thỏa mãn điều kiện chủ thể của tội phạm 
và là nam giới). 
1/ Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự, hãy phân loại tội phạm đối với tội 
hiếp dâm. Giải thích? 
2/ Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm. 
3/ Tội hiếp dâm là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm 
hình thức? Giải thích? 
4/ Hành vi hiếp dâm của A, V, N, Q có phải là hành vi đồng phạm không? Giải 
thích? 
5/ Hãy xác định loại người đồng phạm trong vụ án. Giải thích? 
6/ Giả thiết rằng A, V, N có hành vi giao cấu trái ý muốn nạn nhân, còn Q có hành 
vi giữ chân tay B để 3 tên kia giao cấu trái ý muốn với nạn nhân. Có ý kiến cho 
rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Ý kiến anh (chị) thế 
nào? Giải thích? 
BÀI LÀM 
1/ VẤN ĐỀ 1: 
Căn cứ vào Khoản 3 ĐIỀu 8 BỘ luật hình sự, hãy phân loại tội phạm đối với tội 
hiếp dâm. Giải thích? 
Tội phạm, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, 
có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. 
Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như trên, nhưng những hành vi phạm tội cụ 
thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Do vậy, tại khoản 
2 Điều 8 Bộ luật hình sự, tội phạm đã được phân thành bốn nhóm khác nhau: Tội 
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội 
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sự phân thành bốn nhóm tội như vậy vừa là biểu hiện 
cơ bản, vừa là cơ sở thống nhất nhất cho sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong 
Bộ luật hình sự. Đồng thời là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung hình 
phạt cụ thể để áp dụng cho từng loại tội phạm xảy ra. 
Căn cứ để phân loại tội phạm được thể hiện trong Khoản 3, Điều 8 BLHS năm 
1999, là căn cứ phân loại tội phạm dựa vào mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội 
của hành vi phạm tội, quy định: 
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hiểm không lớn cho xã hội mà 
mức cao nhất của khung hình phạt của tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm 
trọng là tội gây nguy hiểm cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối 
với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại 
rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 
mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc 
biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 
mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.” 
Như vậy, theo nội dung Khoản 3 Điều 8, các nhóm tội phạm được phân biệt với 
nhau bởi cả dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội và cả dấu hiệu về mặt hậu 
quả pháp lý. 
Tội hiếp dâm được các nhà làm luật ấn định tại Điều 111 của BLHS, thực tiễn đã 
thừa nhận tất cả các hành vi hiếp dâm khi xảy ra đều có chung đặc điểm đó là hành 
vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân. Tuy nhiên, để thực hiện được hành vi 
phạm tội trong thực tế rất đa dạng và phức tạp. Đối với mỗi trường hợp phạm tội 
khác nhau thì tính chất của hành vi, phương pháp, thủ đoạn, và hậu quả xảy ra 
cũng rất khác nhau. Do vậy đòi hỏi phải phân loại tội phạm đối với hành vi hiếp 
dâm để có thể cá thể hóa trách nhiệm hình sự, sự phân biệt và cá thể hóa được 
chính xác sao cho xét xử đúng người, đúng tội và trách nhiệm hình sự phải phù 
hợp với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Để đáp ứng đòi hỏi đó, Điều 111 BLHS 
đã tiến hành phân loại đối với những hành vi hiếp dâm có tính chất và mức độ 
khác nhau thường xảy ra trong thực tế và ấn định khung hình phạt cụ thể đối với 
các hành vi phạm tội có cùng tính chất. 
Dựa vào cơ sở đó và khoản 3 Điều 8 BLHS, tội hiếp dâm được phân loại như sau: 
1.1/ Hành vi hiếp dâm được quy định tại khoản 1 Điều 111 BLHS thuộc loại tội 
nghiêm trọng vì có tính nguy hại lớn cho xã hội và có mức cao nhất của khung 
hình phạt áp dụng lên đến 7 năm tù. 
“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự 
vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn 
của họ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. 
1.2/ Hành vi hiếp dâm được quy định tại khoản 2 Điều 111 BLHS thuộc loại tội 
rất nghiêm trọng vì có tính nguy hại rất lớn cho xã hội và có mức cao nhất của 
khung hình phạt áp dụng lên đến 15 năm tù. 
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến 
mười lăm năm: 
a) Có tổ chức; 
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa 
bệnh; 
c) Nhiều người hiếp một người; 
d) Phạm tội nhiều lần; 
đ) Đối với nhiều người; 
e) Có tính chất loạn luân; 
g) Làm nạn nhân có thai; 
h) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; 
i) Tái phạm nguy hiểm. 
1.3/ Phạm tội hiếp dâm được quy định tại khoản 3 Điều 111 BLHS thuộc loại tội 
đặc biệt nghiêm trọng vì có tính nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội và có khung hình 
phạt tương ứng cao nhất trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì, bị phạt tù từ mười hai năm 
đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: 
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; 
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; 
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 
1.4/ Tại khoản 4 Điều 111 BLHS quy định: 
“Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị 
phạt tù từ năm năm đến mười năm. 
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 
này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại khoản đó”. 
Nhận thấy, đoạn 1 khoản 4 Điều 111 BLHS quy định cho hành hiếp dâm đối với 
người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có mức hình phạt thấp nhất 
là năm năm tù và mức cao nhất là mười năm tù, như vậy nếu căn cứ theo khoản 3 
Điều 8 BLHS thì hành vi hiếp dâm được quy định tại đoạn 1 khoản 4 Điều 111 
BLHS thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng vì khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: 
“…tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội và mức cao 
nhất của kung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm 
trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà khung hình phạt đối với tội 
ấy là đến mười lăm năm tù”. 
2/ VẤN ĐỀ 2:Xác đỊnh khách thỂ và đỐi tưỢng tác đỘng cỦa tỘi phẠm. 
a/ Khách thể của của tội phạm. 
Cũng giống như các hoạt động khác của con người, hoạt động phạm tội cũng 
nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức và độc lập với ý thức của 
chủ thể nhưng không phải là cải biến khách thể mà là gây thiệt hại hoặc đe dọa 
gây thiệt hại cho chính những khách thể đó. 
Khách thể của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và 
bị tội phạm xâm hại. 
Theo luật hình sự Việt Nam , những quan hệ được coi là khách thể bảo vệ của luật 
hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định tại khoản 1 Điều 8 BLHS, bao 
gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ kinh tế, 
nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội , quyền, lợi ích hợp pháp 
của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, sở hữu, các quyền 
và lợi ích hợp pháp khác của công dân,… 
Dựa vào các căn cứ trên nhận thấy khách thể của tội phạm hiếp dâm là quan hệ 
nhân thân. Hành vi hiếp dâm ở mức độ nào đó đã xâm hại đến sức khỏe, nhân 
phẩm, danh dự thậm chí có thể xâm hại đến tính mạng của con người mà khách 
thể này đã được luật hình sự bảo vệ. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là vì khi 
hành vi hiếp dâm được thực hiện, tức là nó đã trực tiếp gây tổn hại đến sức khỏe 
của nạn nhân, thậm chí có thể tước đi tính mạng của nạn nhân, đồng thời thì nhân 
phẩm, danh dự của nạn nhân cũng bị ảnh hưởng. 
b/ Đối tượng tác động của tội phạm hiếp dâm. 
Đối tượng tác động của tội phạm được hiểu chính là một bộ phận của khách thể 
của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây gây thiệt hại hoặc đe dọa 
gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. 
Đối tượng tác động của tội phạm có thể là con người, các đối tượng vật chất hay 
hoạt động bình thường của chủ thể. Sự gây thiệt hại cho khách thể dù ở hình thức 
cụ thể nào cũng luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng 
của các đối tượng tác động – các bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội. 
Trong tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111 BLHS thì đối tượng tác động của 
tội phạm chính là con người. Theo định kiến cho rằng: trong hành vi giao cấu giữa 
nam và nữ vai trò chủ động và chi phối thuộc về nam giới với cấu tạo sinh học 
riêng mới có thể thực hiện được hành vi giao cấu với nữ giới mà không cần sự tự 
nguyện của nữ giới. Về lí luận cũng như thực tiễn, trong một số trường hợp đặc 
biệt, nữ giới vẫn có thể thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của nam giới. Ví 
như trường hợp nữ giới lợi dụng đối tượng (nam giới) đang ở trong tình trạng 
không có khả năng biểu lộ ý muốn đúng đắn (như chịu tác động ở mức độ cao của 
thuốc kích dục…) và thực hiện hành vi giao cấu với họ. Hành vi này có thể được 
xem là hành vi giao cấu trái ý muốn của đối tượng (là bản chất của hiếp dâm). Tuy 
nhiên, dưới góc độ tiếp cận về mức độ phổ biến của hành vi do nam giới và nữ 
giới thực hiện và yêu cầu xử lí bằng các biện pháp hình sự, thực tiễn xét xử cho 
thấy những trường hợp nữ giới thực hiện là rất cá biệt hầu như chưa từng xảy ra 
với nữ giới ở nước ta vốn chịu ảnh hưởng bởi các truyền thống đạo đức và lễ nghi 
nho giáo. Vì hành vi chỉ ở mức độ cá biệt nêncũng chưa đến mức đặt ra yêu cầu 
hình sự hóa. Vì vậy, thực tiễn xét xử hình sự từ trước đến nay chỉ thừa nhận nam 
giới là chủ thể đặc biệt của tội hiếp dâm. Đồng nghĩa với việc khẳng định đối 
tượng tác động của tội hiếp dâm chỉ có thể là nữ giới. 
Áp dụng vào tình huống bài tập đưa ra thì có thể thấy đối tượng của tội phạm tội 
hiếp dâm trong trường hợp này chính là B, nạn nhân của vụ hiếp dâm do A, V, N, 
Q thực hiện. 
3/ VẤN ĐỀ 3: TỘI HIẾP DÂM CÓ CẤU THÀNH TỘI PHẠM VẬT CHẤT 
HAY CẤU THÀNH TỘI PHẠM HÌNH THỨC? GIẢI THÍCH? 
Để có thể hiểu rõ tội hiếp dâm thuộc loại cấu thành tội phạm nào trong hai loại: 
cấu thành tội phạm hình thức và cấu thành tội phạm vật chất thì ta cần hiểu về cả 
hai loại cấu thành này. Cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình 
thức là hai dạng của cấu thành tội phạm khi phân loại cấu thành tội phạm dựa vào 
đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan. 
-Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu của mặt khách 
quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. 
-Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt 
khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. 
Từ định nghĩa này có thể nhận thấy, tội hiếp dâm thuộc loại cấu thành tội phạm 
vật chất, vì theo định nghĩa tội hiếp dâm đã được miêu tả trong BLHS tại Điều 111 
khoản 1: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng 
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái 
với ý muốn của họ…”. Như vậy tội hiếp dâm chỉ có thể được xác lập khi có hành 
vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân đã được thực hiện, tức là hành vi nguy 
hiểm cho xã hội xâm hại tới quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đã xảy ra hay 
nói cách khác hậu quả từ hành vi phạm tội đã phát sinh. Hậu quả ở đây có thể là 
sức khỏe của nạn nhân, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân bị ảnh hưởng, thậm chí 
có thể là tính mạng của nạn nhân bị đe dọa gây thiệt hại. Có mối quan hệ nhân quả 
giữa hành vi và hậu quả. Hậu quả của hành vi hiếp dâm không thể phát sinh khi 
hành vi giao cấu chưa được thực hiện và ngược lại, khi hành vi giao cấu trái với ý 
muốn được thực hiện thì hậu quả cũng phát sinh. Dấu hiệu hành vi và hậu quả 
trong tội hiếp dâm luôn là các yếu tố đi kèm với nhau, không thể thiếu một trong 
hai yếu tố đó. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì tội hiếp dâm không thể xác 
lập. Để có thể thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân thì chủ thể 
của tội hiếp dâm đã sử dụng các thủ đoạn đó là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực 
hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân hoặc một thủ đoạn khác. 
4/ VẤN ĐỀ 4: Hành vi hiẾp dâm cỦa A, V, N, Q có phẢi LÀ HÀNH VI đỒng 
phẠm không? GiẢi thích? 
Khoản 1 Điều 20 BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở 
lên cùng thực hiện một tội phạm”. 
Theo tình huống bài ra nhận thấy để có thể khẳng định hành vi của A, V, N, Q có 
phải là đồng phạm hay không ta cần phải xác định rõ các dấu hiệu cấu thành đồng 
phạm trong trường hợp này. 
Những dấu hiệu của đồng phạm bao gồm: những dấu hiệu về mặt khách quan và 
những dấu hiệu về mặt chủ quan, thiếu một trong hai dấu hiệu này thì không có 
đồng phạm xảy ra. 
a/ Về các dấu hiệu khách quan. 
- Theo tình huống đưa ra, A, V, N, Q đều đã thỏa mãn điều kiện chủ thể của tội 
phạm, tức là cả bốn tên đều có năng lực trách nhiệm hình sự và đã đủ tuổi chịu 
trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, đồng thời A, V, N, Q cũng thỏa 
mãn điều kiện của chủ thể đặc biệt cho loại tội hiếp dâm( đều là nam giới). 
-A, V, N, Q đã cùng thực hiện việc hiếp dâm B, dùng vũ lực để giao cấu trái với ý 
muốn của B, tất cả những hành vi của A, V, N, Q được thực hiện trong sự thống 
nhất chung với nhau từ trước. 
Như vậy, các dấu hiệu về mặt khách quan của đồng phạm trong vụ án này đã đầy 
đủ. 
b/ Về các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan. 
Dữ kiện tình huống đưa ra: “A nhận thấy B còn non nớt , chưa va chạm cuộc sống, 
A nảy sinh ý định hiếp dâm B. Trước khi đến điểm hẹn với B, A chủ động gọi 
điện cho N, V, Q và rủ ba tên này hiếp dâm B. N, V, Q đồng ý. Bọn chúng thỏa 
thuận A sẽ đưa B đến con đường sát cánh đồng trò chuyện. N, V, Q sẽ bất ngờ 
xuất hiện và cả bốn tên sẽ thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân..” 
Như vậy, về lý trí thì cả bốn tên đều biết hành vi hiếp dâm B là nguy hiểm cho xã 
hội, xâm hại tới quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, chúng đã cùng nhau lập 
kế hoạch thực hiện việc hiếp dâm B. Còn về mặt ý chí, A, V, N, Q đã có hành vi 
rủ rê, lập kế hoạch tức là đã có sự liên kết trong việc thực hiện tội phạm, có nghĩa 
là cả bốn tên đều mong muốn thực hiện hành vi hiếp dâm B xảy ra. Tất cả các 
hành vi của A, V, N, Q đều xuất phát từ ý chí của từng người. Đây là các biểu hiện 
của lỗi cố ý trực tiếp. 
Tổng hợp những điều kiện trên cho thấy hành vi của A, V, N, Q là hành vi đồng 
phạm. 
5/ VẤN ĐỀ 5:Hãy xác đỊnh loẠi ngưỜi đỒng phẠm trong vỤ án. GiẢi thích? 
Trong đồng phạm, có bốn loại hành vi: hành vi thực hành, hành vi tổ chức thực 
hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội phạm và hành vi giúp sức thực hiện 
tội phạm. Tương ứng với bốn loại hành vi đó thì trong đồng phạm cũng có bốn 
loại người là: người thực hành, người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức. 
Khoản 2 Điều 20 quy định: 
“Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những 
người đồng phạm. 
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. 
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. 
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. 
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực 
hiện tội phạm”. 
Từ quy định trên có thể thấy trong tình huống bài đưa ra có hai loại người đồng 
phạm sau: Người thực hành và người tổ chức. 
Người tổ chức trong đồng phạm của tội hiếp dâm này là A, vì A chính là chủ mưu 
cho vụ hiếp dâm B thể hiện ở hành vi A chủ động gọi điện cho V, N, Q và rủ ba 
tên này hiếp dâm B. A, V, N trong trường hợp này cũng tham gia thỏa thuận, lập 
kế hoạch nhưng hành vi của A, V, N chỉ ở thế bị động, tức là ý chí của Q, N, V 
không tự phát sinh âm mưu hiếp dâm B, mà âm mưu này do A gợi ra cho bọn 
chúng. 
Trong tình huống, cả bốn tên A, V, N, Q đều giữ vai trò là người thực hành, vì 
theo tình huống đưa ra thì cả bốn tên đều trực tiếp tham gia hiếp dâm B, tức là cả 
bốn tên đều có hành vi dùng vũ lực và giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân, các 
hành vi này đã được mô tả trong cấu thành tội phạm. Như vậy vai trò người thực 
hành trong tình huống đã xác lập cho cả bốn tên A, V, N, Q. 
6/ VẤN ĐỀ 6: GIẢ THIẾT RẰNG A, V, N ĐÃ CÓ HÀNH VI GIAO CẤU TRÁI 
Ý MUỐN NẠN NHÂN, CÒN Q CHỈ CÓ HÀNH VI GIỮ CHÂN TAY B ĐỂ 3 
TÊN KIA GIAO CẤU TRÁI Ý MUỐN VỚI NẠN NHÂN. CÓ Ý KIẾN CHO 
RẰNG: A, N, V, LÀ NGƯỜI THỰC HÀNH, CÒN Q LÀ NGƯỜI GIÚP SỨC. Ý 
KIẾN CỦA ANH CHỊ THẾ NÀO? GIẢI THÍCH? 
Trong tình huống đưa ra, A, V, N đã thực hiện hành giao cấu trái ý muốn nạn 
nhân, như vậy hành vi của A, V, N đã thỏa mãn các cấu thành tội phạm trong vụ 
án đồng phạm với tư cách là những người thực hành, đồng thời riêng bản thân A 
lại giữ thêm vai trò là người tổ chức vì theo tình huống đã đưa ra thì chính A là 
người đã gợi ra âm mưu của vụ hiếp dâm B cho đồng bọn. Chính vì vậy, trong vụ 
án này thì A là người giữ hai vai trò vừa là người thực hành và vừa là người tổ 
chức; còn V, N chỉ là người thực hành. Vấn đề còn lại là xác định hành vi của Q 
thuộc dạng người nào trong trong đồng phạm này. 
Giả thiết cho biết vì Q chỉ giữ chân tay của B, mà không thực hiện hành vi giao 
cấu trái với ý muốn nạn nhân nên đã có ý kiến cho rằng Q chỉ là người giúp sức. 
Tuy nhiên, theo quan điểm của bản thân tôi, nhận thấy, Q không thể là người giúp 
sức, mà chính là người thực hành trong vụ án. Quay lại các khái niệm về người 
thực hành và người giúp sức. 
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. 
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực 
hiện tội phạm. Hành vi của người giúp sức là hành vi tạo ra các điều kiện thuận 
lợi, dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm. 
-Hành vi tạo điều kiện về mặt vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi cung 
cấp phương tiện phạm tội như xe, súng, dao,…để người phạm tội thực hiện tội 
phạm. 
-Hành vi tạo điều kiện về mặt tinh thần là sự chỉ dẫn, hứa hẹn trước sẽ che giấu 
người phạm tội, che giấu các tang vật chứng hoặc sẽ tiêu thụ các vật do phạm tội 
mà có sau khi thực hiện tội phạm xong, góp ý kiến, tạo tác động tích cực vào quá 
trình thực hiện tội phạm. Hành vi giúp sức chỉ giúp người khác vốn đã có ý định 
phạm tội có thêm điều kiện thuận lợi việc thực hiện tội phạm hoặc yên tâm hơn 
khi thực hiện tội phạm. 
Áp dụng vào tình huống ta thấy, Q hoàn toàn không có dấu hiệu hành vi của người 
giúp sức, Hành vi giữ chân tay B của Q là hành vi dùng vũ lực trực tiếp thực hiện 
tội phạm mà ở người giúp sức thì không thể có điều này. Hành vi của Q tuy không 
thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội hiếp dâm nhưng trong đồng 
phạm, là người thực hành thì cũng không đòi hỏi mỗi người phải thực hiện trọn 
vẹn hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm mà có thể mỗi người đó chỉ thực 
hiện một phần hành vi đó. Q đã trực tiếp tham gia vào việc hiếp dâm B, nhưng 
hình thức tham gia của Q vào vụ phạm tội khác với các thành viên khác, đó là Q 
chỉ giữ chân tay để B không thể chống cự, còn ba tên kia thì thực hiện giao cấu trái 
ý muốn nạn nhân. Q đã trực tiếp tác động đến cơ thể của nạn nhân, tức là Q cũng 
là người trực tiếp tham gia việc thực hiện tội phạm, do vậy hành vi của Q đã thỏa 
mãn tất cả các dấu hiệu của người thực hành trong vụ án. 
Tài liệu tham khảo: 
1/ Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Đại học Luật Hà Nội, năm 2008. 
2/ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, phần chung – Đinh Văn Quế. 
3/ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, tập II , bình luận chuyên sâu – 
Đinh Văn Quế. 
4/ Sách chuyên khảo sau Đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình 
sự (phần chung) – TSKH, PGS Lê Văn Cảm. 
5/ Tội phạm và cấu thành tội phạm – Nguyễn Ngọc Hòa, NXB CAND. 
6/ Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 83_7098.pdf 83_7098.pdf