Cuộc cạnh tranh gia tăng chưa từng có trong các thịtrường dịch vụbăng rộng đã 
buộc các nhà cung cấp dịch vụbăng rộng lập ra các chiến lược đểphân phát các 
dịch vụ“tay ba” với thoại, dữliệu và video được cung cấp chỉbởi một kết nối duy 
nhất. Những năm vừa qua, khi Internet và Intranet đã phát triển mạnh thì các yêu 
cầu đối với các ứng dụng tập trung vào băng rộng, chẳng hạn nhưchia sẻtệp đồng 
hàng và làm việc từxa đã dẫn dến các nhu cầu không ngừng gia tăng vềcung cấp 
băng thông rộng hơn. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 31 trang
31 trang | 
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tổng quan về các công nghệ băng thông rộng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z 
 
TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG NGHỆ 
BĂNG THÔNG RỘNG 
Tổng quan về các công nghệ băng rộng (Phần 1) 
Nguồn: khonggianit.vn 
1.Mở đầu 
Cuộc cạnh tranh gia tăng chưa từng có trong các thị trường dịch vụ băng rộng đã 
buộc các nhà cung cấp dịch vụ băng rộng lập ra các chiến lược để phân phát các 
dịch vụ “tay ba” với thoại, dữ liệu và video được cung cấp chỉ bởi một kết nối duy 
nhất. Những năm vừa qua, khi Internet và Intranet đã phát triển mạnh thì các yêu 
cầu đối với các ứng dụng tập trung vào băng rộng, chẳng hạn như chia sẻ tệp đồng 
hàng và làm việc từ xa đã dẫn dến các nhu cầu không ngừng gia tăng về cung cấp 
băng thông rộng hơn. 
Có nhiều công nghệ cạnh tranh nhau có thể 
cung cấp băng thông cần thiết để phân phát 
các dịch vụ băng rộng, nhưng mỗi công nghệ 
đều có các hạn chế riêng về mặt độ rộng băng,
độ tin cậy, giá cả và vùng bao ph
Chúng ta hãy rà soát lại tình hình phát triển mới nhất trong các công nghệ truy 
nhập băng rộng hàng đầu và hãy đánh giá khả năng của những công nghệ công 
nghệ nào đáp ứng được các các yêu cầu của khách hàng băng rộng trong tương lai. 
Đồng thời cũng so sánh và đối chiếu các công nghệ này nhằm xác định xem công 
nghệ nào có tiếp tục là cái tốt nhất trong kết nối băng rộng hay không. 
2. Các Công nghệ băng rộng cạnh tranh 
Nói chung, các giải pháp băng rộng có thể được phân loại thành hai nhóm: các 
ủ. 
công nghệ đường dây cố định hoặc các công nghệ không dây (vô tuyến). Các giải 
pháp đường dây cố định truyền thông qua một mạng vật lý để cung cấp một kết 
nối “có dây” trực tiếp từ khách hàng tới nhà cung cấp dịch vụ. Thí dụ điển hình 
của loại này là hệ thống POTS (hệ thống điện thoại kiểu cũ), trong đó khách hàng 
được kết nối vật lý tới nhà khai thác bằng một đôi dây xoắn bằng đồng. Các giải 
pháp không dây sử dụng các tần số vô tuyến hoặc vi ba để cung cấp một kết nối 
giữa khách hàng và mạng của nhà khai thác; kết nối điện thoại di động (ĐTDĐ) là 
một thí dụ rõ nhất. 
2.1 Các Công nghệ Đường dây Cố định 
Các công nghệ băng rộng đường dây cố định dựa vào một kết nối vật lý trực tiếp 
tới công sở hoặc tư gia của thuê bao. Nhiều công nghệ băng rộng như modem cáp, 
đường dây thuê bao số (xDSL) và đường dây tải điện băng rộng (broadband 
powerline - BPL ) đã được phát triển để sử dụng một dạng kết nối thuê bao hiện 
hữu làm phương tiện truyền thông. Các hệ thống modem cáp sử dụng các mạng 
TV Cáp bằng cáp đồng trục và sợi quang hỗn hợp hiện có, các hệ thống xDSL sử 
dụng đôi dây đồng xoắn truyền thống vốn được các POTS dùng cho các dịch vụ 
điện thoại. Công nghệ BPL sử dụng các đường dây điện dẫn đến nhà thuê bao để 
vận chuyển các tín hiệu băng rộng. Cả 3 công nghệ kể trên đều cố gắng sử dụng 
mạng đường dây (điện thoại, điện) đã có nhằm tiết kiệm chi phí lắp đặt. 
Trong khi đó, các mạng FTTH hoặc FTTC (cáp quang tới vỉa hè) đòi hỏi việc lắp 
đặt các tuyến nối sợi quang mới từ tổng đài nội hạt (tổng đài trung tâm) tới tận, 
hoặc tới gần nhà thuê bao. Kết quả là, mặc dù sợi quang nổi tiếng cung cấp cái tốt 
nhất trong các khả năng băng thông rộng, nhưng chi phí lắp đặt của những mạng 
như vậy, cho tới gần đây, vẫn cao một cách khó chấp nhận. 
Các công nghệ đường dây cố định cần đánh giá ở đây bao gồm: 
 - Cáp Đồng trục Sợi quang Hỗn hợp: TV Cáp và Modem Cáp. 
- Đường dây thuê bao số (xDSL) 
- Đường dây tải điện băng rộng (BPL) 
- Cáp quang tới nhà/vỉa hè. 
2.1.1 Cáp Đồng trục Sợi quang Hỗn hợp: TV Cáp và Modem Cáp 
Các mạng TV cáp số có khả năng cung cấp băng thông truyền số liệu hai chiều 
bên cạnh các dịch vụ thoại và TV số. Sử dụng một modem cáp tại nhà khách hàng 
và một Hệ thống kết cuối Modem cáp (CMTS) tại head-end của mạng thông qua 
chuẩn HFC, DOCSIS 1.1, sẽ cung cấp một dịch vụ truyền dữ liệu với các tốc độ 
lên tới 30 Mbit/s trên một kênh 8 MHz (6 MHz ở Hoa Kỳ), sử dụng các kỹ thuật 
điều chế QAM. 
Hình 1. Các kiến trúc TV Cáp, HFC (Cáp Đồng trục-Cáp quang Hỗn hợp) 
 Chuẩn HFC được thông qua mới đây, DOCSIS 3.0, có thể có băng thông 100 
Mbit/s cho mỗi kênh trong tương lai gần. Truyền số liệu trên các mạng TV Cáp có 
ưu điểm là, ở đâu cáp đồng trục đang ở trạng thái tốt và đang có (hoặc có thể lắp 
đặt) các bộ khuếch đại RF để mở rộng tầm với của mạng, thì các băng thông tương 
đối cao có thể được cung cấp tới người dùng đầu cuối mà không bị gới hạn nào về 
cự li. Tuy nhiên, dịch vụ băng rộng của TV Cáp dựa vào một kiến trúc mạng dùng 
chung (Hình 1) đã dẫn đến sự hạn chế là lượng băng thông phân phát tới khách 
hàng phụ thuộc vào việc có bao nhiêu người dùng chung một kết nối ngược tới 
head-end. Thông thường, một dịch vụ 1Mbit/s luồng xuống và 128 kbit/s luồng lên 
được cung cấp (gần đây nhất là 3 – 5 Mbit/s luồng xuống), nhưng cao nhất chỉ 
1.000 người dùng có thể dùng chung kết nối này tới head-end và do vậy băng 
thông thực tế có thể đạt được sẽ thấp hơn do tải của hệ thống bị vượt quá bởi các 
người dùng khác. 
2.1.2 Đường dây Thuê bao Số (xDSL) 
Công nghệ DSL sử dụng kiến trúc điện thoại cáp đồng hiện có để tạo thuận lợi cho 
các kết nối dữ liệu tốc độ cao. Thiết bị DSL làm được việc này nhờ phân chia các 
tín hiệu thoại và dữ liệu trên đường dây điện thoại thành ba băng tần riêng biệt. 
Thí dụ đối với ADSL, các cuộc đàm thoại được vận chuyển trong băng tần 0 – 4 
kHz (như trong tất cả các mạch POTS), kênh dữ liệu luồng lên được vận chuyển 
trong một băng tần giữa 25 và 160 kHz, kênh dữ liệu luồng xuống bắt đầu tại 240 
kHz và lên tới khoảng 1,1 MHz. Các kỹ thuật điều chế số liệu phức tạp cho phép 
các tốc độ dữ liệu lên tới 12 Mbit/s. Các môđun truy nhập DSL (các DSLAM) 
được bố trí tại tổng đài nội hạt hoặc tại các nút trong mạng truy nhập để phát và 
thu các tín hiệu dữ liệu. Tuy nhiên, xDSL có một nhược điểm ở chỗ nó là một 
công nghệ nhạy cảm với cự li. Khi độ dài kết nối từ người dùng tới DSLAM tăng 
lên thì chất lượng tín hiệu giảm đi và tốc độ của kết nối tụt xuống (xem Hình 2). 
 Có nhiều công nghệ DSL khác nhau, mà chủ yếu là ADSL (không đối xứng), 
SDSL (đối xứng), VDSL (tốc độ bít rất cao) và ADSL2+. Mới đây người ta đưa ra 
ADSL2++. 
Hình 2. Các kiến trúc mạng cho các dạng xDSL khác nhau. Chú ý rằng băng 
thông phụ thuộc vào cự li từ tổng đài nội hạt hoặc hộp đường phố đầu xa 
Bảng 1 chỉ rõ công nghệ ADSL có thể cung cấp các tốc độ luồng xuống tối đa là 
12 Mbit/s và luồng lên tối đa là 640 kbit/s tại cự li khoảng 0,3 km. Giới hạn cự li 
tột cùng đối với dịch vụ ADSL là 5,4 km, nhưng tại cự li này, các tốc độ truyền 
dẫn bị giới hạn ở xấp xỉ 500 kbit/s. Để tối đa hóa vùng bao phủ mạng tới cự ly 5,4 
km trọn vẹn, các tốc độ ADSL được cung cấp rộng rãi ở châu Âu là 500 kbit/s 
luồng xuống với các tốc độ luồng lên từ 128 kbit/s. 
Đối với các ứng dụng doanh nghiệp (DN), có thể dùng DSL đối xứng (SDSL), cho 
phép các tải xuống và lên tốc độ cao, nhưng đạt được băng thông khả dụng tối đa 
khoảng 3 Mbit/s. 
Với VoD cần ít nhất 3 Mbit/s và HDTV cần khoảng từ 15 đến 20 Mbit/s thì rõ 
ràng là cả ADSL, cả SDSL đều không thể đáp ứng các yêu cầu băng thông cho 
HDTV và phải gắng gượng để có thể cung cấp cho VoD và dịch vụ video căn bản 
qua toàn mạng. 
VDSL và ADSL2+ được giới thiệu mới đây có thể cung cấp băng thông đủ lớn 
cho các dịch vụ video. VDSL có thể cung cấp tới 52 Mbit/s nhưng chỉ trên các cự 
li rất ngắn. Do vậy, để cung cấp VDSL tới một tỷ lệ dân cư đáng kể thì các 
DSLAM cần được bố trí lại tại hộp đường phố (gần với thuê bao hơn) và các sợi 
quang tiếp sóng phải được lắp đặt tới tận các hộp đường phố. Các chi phí nâng cấp 
và lắp đặt cáp sợi quang như vậy là quá đắt đỏ so với công nghệ ADSL và việc 
triển khai VDSL đã bị hạn chế. 
Các công nghệ mới nhất xuất phát từ họ DSL là ADSL2+ và ADSL2++. 
ADSL2++ vẫn đang thời kỳ sơ khai và chưa được một chuẩn thích hợp nào hỗ trợ. 
Còn ADSL2+ thì đã được tiêu chuẩn hóa và cho phép truyền dẫn băng thông đủ 
cho một số dịch vụ video qua các cự li lớn hơn so với VDSL mà không cần bố trí 
lại DSLAM. Kết quả là ADSL2+ đang trở thành phương thức nâng cấp cho các 
nhà khai thác muốn cải thiện việc cung cấp dịch vụ ADSL tiêu chuẩn của họ. 
Bảng 1 Khả năng Băng thông so với cự li của xDSL. Chú ý rằng các khả năng tốc 
độ tối đa được trình bày là không khả dụng tại cự li tối đa. Luôn luôn có sự dung 
hòa giữa cự li và băng thông 
Công 
nghệ 
Dung 
lượng 
luồng lên 
tối đa 
Dung lượng 
luồng xuống tối 
đa 
Dải 
tối đa 
Dải 
xuống @ 
tối đa 
Dải tần 
ADSL 640kbit/s 12 Mbit/s 
(0,3km) 
5,4km 1,5 
Mbit/s 
1,1 MHz 
SDSL 3 Mbit/s 3 Mbit/s 2,7km 2 Mbit/s 1,1 MHz 
ADSLA2+ 1 Mbit/s 26Mbit/s 
(0,3km) 
3,6km 4Mbit/s 2,2 MHz 
VDSL 16Mbit/s 52Mbit/s 
(0,3km) 
1,3km 13Mbit/s 12 MHz 
2.1.3 Đường dây tải điện Băng rộng (BPL) 
Các hệ thống BPL cho phép truyền số liệu tốc độ cao qua các đường dây tải điện 
đang có và không cần đến sự xếp chồng mạng khi chúng có truy nhập trực tiếp tới 
các vùng bao trùm của ngành điện ở khắp mọi nơi. Các hệ thống BPL đang được 
đề xướng như một cách thức rẻ tiền để phục vụ số lượng lớn thuê bao băng rộng. 
Trong một hệ thống BPL, dữ liệu được phát qua đường dây điện đang có như một 
tín hiệu tần số cao điện áp thấp, tín hiệu này được ghép với tín hiệu điện lưới tần 
số thấp điện áp cao. Băng tần truyền dẫn đã được chọn lọc để bảo đảm can nhiễu 
tối thiểu tới tín hiệu điện lưới đang hoạt động. Các tốc độ dữ liệu điển hình đang 
được thử nghiệm hiện nay là 2 đến 3 Mbit/s, song các nhà sản xuất chỉ ra rằng, các 
hệ thống thương mại được chào hàng lên đến 200 Mbit/s rồi sẽ trở thành khả dụng. 
Tuy nhiên, không có một cách thức nâng cấp rõ ràng nào để đi tới các tốc độ dữ 
liệu cao hơn. Hầu hết các hệ thống BPL hiện tại chỉ giới hạn ở cự li 1 km trong 
phạm vi lưới điện hạ áp, nhưng một số nhà khai thác đang mở rộng tầm với này 
sang lưới điện trung áp. Thử nghiệm đã cho thấy rằng BPL đòi hỏi một chi phí đầu 
tư cao, để nâng cấp mạng truyền tải điện và vòng qua các máy biến thế, để hỗ trợ 
các dịch vụ băng rộng tốc độ cao và tin cậy. Ngoài ra, các tần số dùng cho BPL 
thường gây can nhiễu với truyền dẫn vô tuyến nghiệp dư và do vậy, một số cuộc 
thử BPL đã bị phản đối đáng kể. Hiện tại, do chi phí cao và do thiếu một đường lối 
nâng cấp cho nên dường như nó không thể xuất hiện như một công nghệ băng 
rộng dẫn đầu, nhưng vẫn là một lựa chọn băng rộng đường dây cố định thích hợp. 
2.1.4 Cáp quang tới Nhà /Vỉa hè 
FTTx là một thuật ngữ chung chỉ những công nghệ đưa sợi quang tới thuê bao. 
Tuy nhiên, không phải tất cả các giải pháp sợi quang trong các mạng truy nhập 
đều đem thẳng cáp sợi quang tới nhà thuê bao như được trình bày trong Hình 4. 
Một số công nghệ truy nhập nào đó có dựa vào cáp sợi quang như VDSL đem cáp 
sợi quang từ tổng đài nội hạt (tổng đài trung tâm) xuống một nút trong mạng truy 
nhập hoặc tới vỉa hè, nơi các thiết bị được lắp đặt trong một hộp đường phố để 
biến đổi các tín hiệu từ quang sang điện, được chuẩn bị sẵn cho chặng cuối cùng 
tới thuê bao bằng đôi dây đồng xoắn. Mức cung cấp cáp sợi quang như thế này 
trong mạng có thể được gọi là FTTC (Fiber to the Curb - cáp quang tới vỉa hè) 
hoặc FTTN (Fiber to The Node - cáp quang tới nút mạng). Các kiến trúc khác gồm 
có FTTB (Fiber to the Building- cáp quang tới cao ốc) hoặc FTTP (Fiber to the 
Premises - cáp quang tới tư gia), trong đó cáp sợi quang được đem tới tận cao ốc 
và sau đó được phân bố giữa các thuê bao cư trú qua đôi dây đồng xoắn hoặc sử 
dụng công nghệ không dây. FTTH là giải pháp truy nhập cáp sợi quang căn bản 
nhất, trong đó, mỗi thuê bao được kết nối tới một sợi quang. 
Hình 3. Kiến trúc mạng quang thụ động (PON) 
Khi FTTH đã hoàn thiện, các ứng dụng đã tập trung vào hai giải pháp được nhất 
trí chung. Giải pháp thứ nhất là Mạng quang thụ động (Passive Optical Network - 
PON). Các PON đã được mô tả cho FTTH ngay từ năm 1986. Trong kiến trúc này, 
tín hiệu chính từ tổng đài nội hạt được chia tách một cách thụ động sao cho nó 
được dùng chung giữa 16 đến 32 thuê bao (xem Hình 3). Tính riêng tư được bảo 
đảm bằng việc dịch thời gian và sự mã hóa cá nhân cho lưu lượng của mỗi thuê 
bao. Lưu lượng luồng lên là có thể có nhờ đồng bộ hóa TDMA. Các chi phí tổng 
đài và mạng cố định được chia sẻ giữa tất cả các thuê bao. Điều này làm giảm bớt 
giá thành chủ yếu cho mỗi thuê bao. Giải pháp PON có lợi lớn vì không có các 
thiết bị điện tử đặt ngoài trời, do đó làm giảm tính phức tạp của mạng và giảm các 
chi phí vòng đời đồng thời lại cải thiện được độ tin cậy. 
Kiến trúc FTTH phổ biến thứ hai là mạng điểm-nối-điểm (P2P), thường được gọi 
là Mạng Ethernet toàn quang (All Optical Ethernet Network - AOEN) (Hình 4). 
Trong giải pháp này, mỗi gia đình được kết nối thẳng tới tổng đài nội hạt bằng cáp 
sợi quang. Nó cung cấp một đường dây kết nối dùng riêng tới nhà khai thác cho 
mỗi thuê bao và đó là ưu điểm chính của các mạng P2P so với các mạng PON. 
Các đường dây kết nối dùng riêng của một mạng P2P tạo điều kiện thuận tiện cho 
việc cung ứng dịch vụ đặc trưng thuê bao. Băng thông thuê bao rộng hơn với độ 
an toàn lưu lượng được tăng cường, và cung cấp các dịch vụ đối xứng một cách 
đơn giản. Kiến trúc mạng P2P tương tự như thiết kế mạng LAN DN chung, và do 
vậy nó có ưu điểm là có thể sử dụng các cấu kiện và thiết bị đang có sẵn, việc này 
giúp làm giảm chi phí của hệ thống. Tuy nhiên, các mạng P2P đòi hỏi các hoạt 
động ngoài hiện trường và điều này có thể làm tăng các chi phí lắp đặt, vận hành 
và vòng đời và còn làm giảm độ tin cậy. 
Các tiêu chuẩn đã được thiết lập cho cả hai mạng PON và P2P và đang hiện hữu 
các nhà cung ứng cả các hệ thống PON và P2P, chào hàng mời sử dụng cả ATM 
cả truyền dẫn IP/Ethernet trên cả hai kiểu kiến trúc. Kết quả là có rất nhiều nhà sản 
xuất đang chào hàng các sản phẩm nối mạng PON và P2P với giá cả càng ngày 
càng cạnh tranh. 
Hình 4. Các kiến trúc cho các mạng P2P khác nhau, kể cả các kết nối cáp sợi 
quang P2P trực tiếp “chạy về nhà”, tiếp cáp sợi quang tới hộp đường phố của 
VDSL (sợi quang tới cáp đồng) và tiếp cáp sợi quang tới hộp đường phố toàn 
quang 
Các hệ thống PON Ethernet (EPON) hiện tại có thể hoạt động cao tới 1 Gbit/s trên 
các cự li tới 20 km, phân phát băng thông cao hơn 40 lần so với băng thông mà 
ADSL+ có thể đạt được tại cự li 1 km. Chẳng bao lâu nữa, các hệ thống EPON sẽ 
cung cấp bộ chia tách 2,5 Gbit/s giữa 64 người dùng (mặc dù 32 người dùng là 
thích hợp hơn). Ngay cả với băng thông EPON dùng chung giữa 64 người dùng thì 
băng thông được chào mời cho khách hàng FTTH có thể vượt khá xa cái mà các 
dịch vụ cáp hoặc ADSL2+ có thể đạt được trên một vùng bao phủ tròn 20 km. 
Ngoài ra, PON Ghép kênh Chia theo Bước sóng (WDM PON) hiện đang được 
triển khai. Bằng việc đem một kênh cáp quang duy nhất tới mỗi thuê bao (loại bỏ 
việc dùng chung băng thông), công nghệ này sẽ tiếp tục tăng băng thông mà các 
hệ thống PON có thể cung cấp. Như vậy, cáp sợi quang, đóng vai trò một phương 
tiện truyền thông, cung cấp băng thông gần như vô hạn trên các cự li lớn hơn 
nhiều so với tất cả các đối thủ cạnh tranh là điều không còn phải nghi ngờ. 
Tổng quan về các công nghệ băng rộng (Phần 2) 
Nguồn: khonggianit.vn 
2.2 Các công nghệ Không dây 
Nói chung, băng rộng không dây hàm ý các công nghệ sử dụng vi ba điểm-nối-
điểm hoặc điểm-nối-đa điểm trong các tần số khác nhau giữa 2,5 và 43 GHz để 
phát các tín hiệu giữa các điểm trung tâm và một máy thu người dùng đầu cuối. 
Trong khi trên mức mạng, chúng rất thích hợp với cả hạ tầng cơ sở truy nhập và 
đường trục, thì chúng lại nằm trong mạng truy nhập, nơi công nghệ băng rộng 
không dây đang nở rộ. Kết quả là, các thuật ngữ “băng rộng không dây” và “truy 
nhập băng rộng không dây” có thể đổi lẫn cho nhau. 
Có một phạm vi rộng các tần số, trong đó các công nghệ băng rộng không dây có 
thể khai thác với sự lựa chọn các băng tần được cấp phép và không cần cấp phép. 
Nói một cách tổng quát, các tần số cao hơn là có lợi so với các tần số thấp hơn do 
tại các tần số cao có nhiều phổ khả dụng hơn và có thể sử dụng các an ten nhỏ 
hơn, cho phép lắp đặt được dễ dàng. Hầu hết các hệ thống băng thông cao hơn đều 
sử dụng các tần số trên 10 GHz. Tuy nhiên, các hệ thống tần số cao bị suy hao 
nghiêm trọng bởi các điều kiện thời tiết xấu (chẳng hạn như mưa hoặc sương mù) 
và phải chịu các giới hạn về cự li. 
Các công nghệ không dây có thể được phân chia một cách rõ rệt thành loại yêu 
cầu trực thị (LOS) và loại không yêu cầu trực trị (NLOS). Vi ba điểm-nối-điểm, 
Hệ thống Phân phát Đa điểm Cục bộ (LMDS), Quang học Không gian Tự do 
(FSO – Free Space Optics) và vệ tinh băng rộng đều đòi hỏi trực thị cho truyền 
dẫn tín hiệu tin cậy, trong khi đó các công nghệ mạng tế bào như GSM, CDMA, 
3G, WiFi, WiMAX và các công nghệ băng rộng không dây cố định như Hệ thống 
Phân bố Đa Kênh Đa điểm (MMDS) không đòi hỏi trực thị giữa trung tâm phát và 
thiết bị thu. Rõ ràng là các công nghệ NLOS dữ liệu có các lợi thế về mặt dễ triển 
khai và vùng phủ sóng của mạng rộng hơn. 
Phần này đưa ra cái nhìn khái quát về mỗi công nghệ không dây này. Các công 
nghệ được đánh giá ở đây bao gồm: 
- Các tuyến Vi ba 
- MMDS (Dịch vụ Phân bố Đa kênh Đa điểm) 
- LMDS (Dịch vụ Phân bố Đa điểm Cục bộ) 
- FSO (Quang học Không gian Tự do) 
- WiFi ( Wireless Fidelity) 
- WiMAX (Worldwide Interoperability for Microwwave Access) 
- Vệ tinh 
- 3G (Mạng di động thế hệ thứ ba) 
2.2.1 Các tuyến Vi ba 
Các tuyến vi ba là vật mang tải truyền thống của các hệ thống băng rộng vô tuyến 
cố định và đã được dùng từ lâu trước khi thuật ngữ băng rộng không dây được đặt 
tên. Nó là phương pháp truyền dẫn không dây LOS điểm-nối-điểm cho cao nhất là 
155 Mbit/s (STM1 hoặc OC-3) với cự li lên tới 5 km. Các tuyến vi ba đơn kênh 
tương đối rẻ và dễ lắp đặt. Điều này đặc biệt đúng tại những vùng địa hình khó 
khăn (chẳng hạn như vùng núi non) hoặc có mật độ dân cư cao, nơi chi phí lắp đặt 
mạng cáp chôn truyền thống quá cao không chịu nổi. Tuy nhiên, các mạng vi ba 
có nhược điểm lớn là bị hạn chế ở một tốc độ dữ liệu rất thấp và do vậy, ít được sử 
dụng cho các tuyến dung lượng cao hoặc cho các mạng nơi việc bảo đảm rằng khả 
năng băng thông luôn luôn vượt xa nhu cầu của khách hàng là hết sức quan trọng. 
Dung lượng vi ba có thể được tăng cường nhờ lắp đặt nhiều tuyến hơn, song việc 
triển khai thêm các tuyến chẳng mấy chốc sẽ đưa tổng chi phí của một mạng vi ba 
tới một mức vượt quá xa chi phí cho một hệ thống cáp chôn truyền thống có băng 
thông cao hơn nhiều. Đối với các mạng có dự báo lưu lượng thấp thì vi ba có thể 
là giải pháp chi phí thấp nhất, nhưng vi ba sẽ ngăn cản việc mở rộng dung lượng 
quá đáng và về lâu về dài sẽ dẫn đến mất cơ hội kinh doanh. 
2.2.2 Dịch vụ Phân bố Đa điểm Đa kênh (MMDS) 
Đối với một vùng phủ sóng rộng, một hệ thống vi ba sẽ đòi hỏi có nhiều tuyến 
điểm-nối-điểm. MMDS cho phép hệ thống anten điểm-nối-điểm thường dùng cho 
các tuyến vi ba được thay thế bằng một an ten hình rẻ quạt tại trạm gốc phía phát, 
nơi gửi đi các tín hiệu tới nhiều địa điểm trong phạm vi một cung 60° đến 90° 
(Hình 5). Bằng việc khắc phục các giới hạn điểm-nối-điểm của các tuyến vi ba và 
cho phép một vùng phủ sóng rộng. 
Hình 5. Kiến trúc Mạng MMDS (Dịch vụ Phân bố Đa kênh Đa điểm) 
MMDS đưa ra một giải pháp vi ba với chi phí mỗi tuyến được giảm bớt. MMDS 
sử dụng kiến trúc điểm-nối-đa điểm để phân phát các tín hiệu truyền hình và gần 
đây nhất là thông tin thoại/fax và dữ liệu. 
Ban đầu được coi là “cáp không dây”, MMDS đã được đưa vào sử dụng từ những 
năm 70 của thế kỷ trước. Nó được giới thiệu như một phương án thay thế cho TV 
Cáp để phủ sóng cho các vùng xa xôi hoặc địa hình khó khăn, nơi chi phí lắp đặt 
cáp quá cao. Dịch vụ MMDS được phân phát nhờ sử dụng các máy phát vô tuyến 
đặt trên mặt đất. Các máy phát này sử dụng các tần số ở phần phía dưới của băng 
tần siêu cao (UHF) trong phổ vô tuyến (giữa 2,1 và 2,7 GHz), và được đặt tại vị trí 
cao nhất trong vùng phủ sóng dự kiến. Mỗi thuê bao thu được MMDS nhờ sử 
dụng một máy đầu thu số nhỏ đặt tại địa điểm của họ với tầm nhìn thẳng (trực thị) 
tới các máy phát. Tầm làm việc có thể đạt tới 100 km tại địa hình bằng phẳng 
nhưng sẽ ngắn hơn đáng kể trong các vùng địa hình đồi núi. Các kênh MMDS 
rộng 6 MHz và hoạt động theo các băng tần được cấp phép hoặc không cần cấp 
phép. Ở Hoa Kỳ, một khối băng thông 200 MHz được gán cho một sóng mang 
MMDS, tạo điều kiện cho 33 kênh truyền hình analog, mỗi kênh rộng 6 MHz. Với 
việc di trú sang các dịch vụ số, 33 kênh analog đã được chuyển thành 99 luồng dữ 
liệu digital 10 Mbit/s, cho phép khả năng kết nối Ethernet đầy đủ và một tổng 
dung lượng lên tới 1 Gbit/s. Dung lượng có thể được tiếp tục tăng lên nhờ đem 
ghép việc sử dụng các tần số và các tế bào chia chung. Tuy nhiên, khi một số 
lượng lớn người dùng có thể chia sẻ cùng các kênh vô tuyến như nhau thì độ lưu 
thoát dữ liệu thường thấp hơn nhiều so với nhiều phương án băng rộng không dây 
khác với các độ lưu thoát dữ liêu thực tế nằm trong phạm vi từ 500 kbit/s tới 1 
Mbit/s. Các khách hàng được bảo vệ không bị can nhiễu từ những người dùng 
khác khi nhà cung cấp sử dụng các tần số được cấp phép và do sử dụng các tần số 
phía thấp của phổ vô tuyến UHF, nên mưa, sương mù và tuyết không ảnh hưởng 
đến hiệu năng. Tuy nhiên, hạn chế căn bản của MMDS là số lượng giới hạn các 
kênh cấp phép khả dụng. Chỉ có 600 MHz băng thông là khả dụng giữa 2,1 và 2,7 
GHz và MMDS cấp phép thường chỉ được khai thác trong đoạn 200 MHz từ 2,5 
GHz đến 2,7 GHz. Điều này sẽ hạn chế băng thông khả dụng và vì thế mà hạn chế 
tốc độ dữ liệu mỗi thuê bao, hoặc giới hạn tổng số thuê bao có thể có, làm cho 
MMDS trở thành một giải pháp băng rộng chỉ phù hợp với các dịch vụ tốc độ dữ 
liệu thấp hoặc cục bộ hóa. 
2.1.3 Dịch vụ Phân bố Đa điểm Cục bộ (LMDS ) 
Cũng giống như MMDS, LMDS sử dụng anten rẻ quạt tại trạm gốc để phát theo 
kiểu điểm-đa-điểm trên một vùng bao phủ rộng (Hình 6). Bằng việc hoạt động 
trong các tần số vô tuyến UHF phía cao hơn (27,5 GHz đến 31 GHz), LMDS có 
thể cung cấp băng thông rộng hơn, nhưng tầm xa của các tín hiệu vô tuyến bị hạn 
chế tại khoảng 8 km, do suy giảm không gian tự do cao hơn. Do vậy mà nó là một 
dịch vụ hết sức cục bộ. Ở Hoa Kỳ, LMDS đã được phân bổ băng tần 27,5 đến 29,5 
GHz và hiện tại được dự kiến để phân phát các dịch vụ TV số với mỗi kênh chiếm 
20 MHz băng thông. LMDS còn có thể được sử dụng để cung cấp các dịch vụ 
băng rộng hai chiều, chẳng hạn như thoại, dữ liệu, video và Internet. Mỗi kênh 
LMDS có thể có luồng xuống 45 Mbit/s (với một giới hạn luồng lên 155 Mbit/s), 
nhưng đòi hỏi LOS giữa trạm gốc và máy thu phát của khách hàng. Giống như 
MMDS, LMDS cung cấp một giải pháp rẻ tiền hơn cho một vùng phủ sóng rộng 
hơn so với các tuyến vi ba điểm-nối-điểm. Tuy nhiên, LMDS bị hạn chế về cự li, 
dung lượng thuê bao cao nhất và tốc độ dữ liệu cực đại tương ứng của chúng cũng 
bị giới hạn trong phạm vi phổ vô tuyến khả dụng. 
Hình 6. Kiến trúc mạng Dịch vụ Phân bố Đa điểm cục bộ (LMDS) 
2.1.4 FSO (Free Space Optics) 
Hệ thống quang học không gian tự do (FSO) sử dụng các nguồn hồng ngoại hoặc 
các tia laze để hỗ trợ các tốc độ truyền dữ liệu trong không gian tự do trong 
khoảng từ 10 Mbit/s đến 1,25 Gbit/s giữa một máy phát và một máy thu trên các 
cự li lên tới 4 km. Hoạt động tại các tần số THz trong phổ vô tuyến, các hệ thống 
như thế cũng đòi hỏi LOS. Những ưu điểm chính của các hệ thống FSO là chi phí 
lắp đặt thấp và tránh được các yêu cầu cấp phép phổ vô tuyến do các hệ thống 
FSO sử dụng một tín hiệu ánh sáng thay vì một sóng vô tuyến. Tuy nhiên, do bản 
chất điểm-nối-điểm của các hệ thống FSO cho nên chúng không có hiệu quả kinh 
tế đối với vùng bao phủ rộng cần tính cạnh tranh trong thị trường khách hàng băng 
rộng ngày nay. Ngoài ra, quang học không gian tự do bị ngừng trệ trong các điều 
kiện thời tiết xấu. Do vậy, các hệ thống FSO chủ yếu chỉ phù hợp với các ứng 
dụng tư nhân. 
2.1.5 WiFi (Wireless Fidelity) và WiMAX (Tương tác toàn cầu cho truy nhập vi 
ba) 
WiFi có sự thích ứng cao với MMDS về mặt cục bộ hóa và nó không yêu cầu 
LOS. Dựa trên chuẩn IEEE 802.11x và truyền dẫn ở phổ tần không cấp phép 2,4 
GHz, WiFi hoạt động trong vùng tần số thấp của UHF theo kiểu điểm-đa-điểm. Sự 
thâm nhập càng ngày càng tăng lên của các tín hiệu tại các tần số này cho phép các 
máy phát WiFi hoạt động tại công suất thấp mà vẫn đạt được các tầm hoạt động 
tới 30m trong nhà và tới 450m ngoài trời. Ứng dụng chủ yếu của WiFi là cung cấp 
các kết nối radio không dây cục bộ tới thiết bị truyền thông (chẳng hạn như các 
PC, các máy điện thoại VoIP…) của người dùng đầu cuối trong phạm vi tư gia/nơi 
cư trú của khách hàng. Các sản phẩm WiFi mới nhất hỗ trợ các tốc độ dữ liệu lên 
tới 54 Mbit/s và phần mềm khóa mã được sử dụng để bảo đảm an toàn người 
dùng. Các WiFi “hotspot” là các địa điểm như các sân bay, các nhà hàng là nơi đã 
thiết lập kết nối WiFi cục bộ tới Internet. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 cong_nge_bang_thong_rong_5354.pdf cong_nge_bang_thong_rong_5354.pdf