Lịch sử phẫu thuật ung thư thực quản rất
phong phú và hào hứng. Từ 2000 năm trước,
người Trung Hoa đã mô tả bệnh lý này.
Bước đột phá đầu tiên là năm 1868,
Kussmaul thử nội soi thực quản. Không có tiến
bộ về gây mê-hồi sức thì ngành này không thể
phát triển được. Năm 1876, Mac-Even phục hồi
kỹ thuật gây mê nội khí quản do Vesal thực hiện
lần đầu trên thú vào thế kỷ 16. Năm 1869,
Trendelenburg cũng gây mê qua lỗ mở khí quản
ra da.
Theodore Billroth, năm 1871, là người đầu
tiên cắt thực quản và nối lại thành công trên
chó. Ông là người nghĩ rằng có thể cắt thực
quản cổ bị ung thư trên người vào thì đầu, thì
sau đưa thực quản ngực lên nối lại.
Bước đột phá thứ hai do Czerny, cộng sự
của Billroth, năm 1877, thực hiện thành công
lần đầu tiên cắt thực quản trên người. Bệnh
nhân sống được hơn một năm. Trong vòng 25
năm tiếp theo nhiều tác giả đã thực hiện phẫu
thuật cắt thực quản cổ. Điểm thu hút lúc này
là tìm cách ráp nối đường tiêu hóa lại
              
            Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Tổng Quan 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 1
TỔNG QUAN VỀ CẮT THỰC QUẢN 
Lê Quang Nghĩa* 
TÓM TẮT 
Lịch sử phẫu thuật ung thư thực quản rất 
phong phú và hào hứng. Từ 2000 năm trước, 
người Trung Hoa đã mô tả bệnh lý này. 
Bước đột phá đầu tiên là năm 1868, 
Kussmaul thử nội soi thực quản. Không có tiến 
bộ về gây mê-hồi sức thì ngành này không thể 
phát triển được. Năm 1876, Mac-Even phục hồi 
kỹ thuật gây mê nội khí quản do Vesal thực hiện 
lần đầu trên thú vào thế kỷ 16. Năm 1869, 
Trendelenburg cũng gây mê qua lỗ mở khí quản 
ra da. 
Theodore Billroth, năm 1871, là người đầu 
tiên cắt thực quản và nối lại thành công trên 
chó. Ông là người nghĩ rằng có thể cắt thực 
quản cổ bị ung thư trên người vào thì đầu, thì 
sau đưa thực quản ngực lên nối lại. 
Bước đột phá thứ hai do Czerny, cộng sự 
của Billroth, năm 1877, thực hiện thành công 
lần đầu tiên cắt thực quản trên người. Bệnh 
nhân sống được hơn một năm. Trong vòng 25 
năm tiếp theo nhiều tác giả đã thực hiện phẫu 
thuật cắt thực quản cổ. Điểm thu hút lúc này 
là tìm cách ráp nối đường tiêu hóa lại. 
Bước đột phá thứ ba là Franz Torek, năm 
1913, lần đầu tiên mở ngực trái cắt thực quản 
bị ung thư đoạn giữa. Ông mở ngực trái, sau 
khi cắt toàn bộ thực quản ngực thì thực quản 
cổ được đưa ra da. Cuộc mổ kéo dài 1 giờ 45 
phút. Bệnh nhân là phụ nữ 67 tuổi. Đây là một 
tiến bộ vượt bậc thời bấy giờ. 
Sau khi có tiến bộ về gây mê mổ ngực các 
phẫu thuật viên đã thực hiện phẫu thuật càng 
ngày càng nhiều. Năm 1946, Ivor Lewis cắt 
thực quản với 3 đường mổ: cổ trái, ngực phải 
và bụng. Sau đó Scanlon khuyến cáo nên nối ở 
cổ với chủ trương: xì ở cổ chỉ mất đường nối 
nhưng không mất bệnh nhân. 
Năm 1978, Orringer nỗi tiếng với cắt thực 
quản không mở ngực(7). 
Một bước tiến dài là mổ qua nội soi với 
danh tiếng của Luketich(6). Các bước tiến được 
trình bày trong bảng 1. 
Bảng 1. Tóm tắt các sự kiện lịch sử liên quan đến mổ cắt thực quản. 
Năm Sự kiện 
1849 Long lần đầu tiên dùng dùng ether để gây mê 
1868 Kaussmaul lần đầu tiên đưa ống nội soi qua thực quản và dạ dày 
1869 Trendelenburg gây mê nội khí quản 
1871 Billroth cắt và nối thực quản cổ trên chó 
1897 Czerny lần đầu tiên cắt thực quản cổ thành công trên người 
1889 Roentgen nghiên cứu về X quang 
1898 Rehn mở trung thất sau bên phải để cắt thực quản ngực trên 2 bệnh nhân nhưng thất bại 
1901 Dobromysslow thực hiện thành công lần đầu tiên cắt thực quản ngực và nối lại trên chó 
1905 Beck mô tả cách dùng ống dạ dày dựa vào bờ cong lớn và mạch nuôi là động mạch vị mạc nối phải 
1907 Wendell cắt ung thư thực quản 1/3 dưới nối ngay nhưng bệnh nhân tử vong ngày hôm sau 
1908 Volecker cắt ung thư thực quản-tâm vị và nối ngay ngã bụng 
1913 Zaaijer cắt ung thư tâm vị ngã ngực-bụng 
1913 Torek, lần đầu tiên cắt ung thư thực quản ngực thành công 
1913 Denk mô tả cách cắt thực quản không mở ngực 
1931 Turner mô tả kỹ thuật khác cắt thực quản không mở ngực 
1933 Oshawa cắt ung thư thực quản ngực và nối ngay trên 18 bệnh nhân (thành công 8) 
1938 Adams là phẫu thuật viên Mỹ đầu tiên cắt thực quản ngã ngực và nối ngay 
1946 Ivor Lewis cắt thực quản và nối ngay ngã ngực phải 
1947 Sweet báo cáo 212 trường hợp cắt thực quản bị ung thư (tử vong 17% và sống 5 năm 8%) 
*ĐH Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: GS.TS. Lê Quang Nghĩa ĐT: 0903953232 Email: 
[email protected] 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 2
Năm Sự kiện 
1963 Logan báo cáo 853 trường hợp cắt thực quản (tử vong 29%) 
1978 Orringer và Sloan hoàn chỉnh kỹ thuật cắt thực quản không mở ngực của Gray Turner 
1984 Leichman phối hợp xạ trị và hóa trị 5FU-Cisplatin (37% có đáp ứng và 27% tử vong) 
1997 Nhiều nghiên cứu lâm sàng nhắm về điều trị đa mô thức 
2003 Luketich cắt thực quản qua nội soi ngực và bụng 
KỸ THUẬT CẮT THỰC QUẢN CỔ ĐIỂN 
(MỔ MỞ) (1,8,4,2) 
Phẫu thuật được Ivor Lewis trình bày lần 
đầu tiên tại Hội Ngoại khoa Luân Đôn vào năm 
1946. Đây là phẫu thuật được dùng nhiều nhất 
trên thế giới để điều trị ung thư thực quản 1/3 
giữa cho đến 1/3 dưới của thực quản. 
Lewis phối hợp 2 đường mổ bụng và ngực 
phải để cắt tổn thương nằm ở 1/3 giữa thực quản 
(hình 63). Kỹ thuật này được dùng như điều trị 
phẫu thuật trừ căn cũng như điều trị tạm. Phẫu 
trường ở ngực rộng nên có thể cắt bán phần thực 
quản và nạo vét hạch trung thất. 
Hình 1. Phối hợp 2 đường mổ bụng và ngực phải. 
CHỈ ĐỊNH 
 -Ung thư thực quản 1/3 giữa. 
 -Ung thư thực quản 1/3 dưới tế bào vảy. 
 -Hẹp thực quản 1 đoạn dài cắt TQ không 
mở ngực không giải quyết. 
CHỐNG CHỈ ĐỊNH 
 -Di căn xa 
 -Không có dò thực quản-khí quản 
 -Bướu không dài > 5 cm trên X quang cản 
quang 
 -Bệnh tim mạch-hô hấp nặng 
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VỚI THÂN 
NHÂN-BỆNH NHÂN 
 -Có thể liệt thần kinh quật ngược 2 bên 
 -Liệt thần kinh phế vị 
 -Tổn thương ống ngực gây tràn dưỡng 
trấp màng phổi 
GÂY MÊ 
Cần gây mê nội khí quản với ống Carlens. 
TƯ THẾ CỦA BỆNH NHÂN. 
 -Bệnh nhân nằm nghiêng cho thì ngực. 
 -Thì bụng nằm ngửa 
 -Có thể nằm nghiêng 45 độ để tránh thay 
đổi tư thế bệnh nhân trong khi mổ. Tuy nhiên tư 
thế nằm gây khó khăn cho phẫu thuật viên trong 
cả 2 thì ngực lẫn bụng 
KỸ THUẬT MỔ 
 -Mở ngực phải liên sườn 5 (cắt sườn hoặc 
không) 
 -Bóc tách màng phổi, cột và cắt cung tĩnh 
mạch đơn 
 -Bóc tách trên và dưới bướu hoặc đoạn 
hẹp 
 -Cắt đầu trên thực quản sát đỉnh phổi, 
khâu cột tạm 2 đầu thực quản 
 -Đóng ngực như thường lệ 
 -Đặt bệnh nhân nằm ngửa lại 
 -Kíp mổ phía trên mở cổ trái, bóc tách 
thực quản cổ 
 -Rút thực quản cổ đã cắt trong ngực đưa 
ra ngoài cổ 
 -Kíp mổ ở dưới mở bụng đường giữa trên 
rốn, bọc lộ thực quản bụng 
 -Rút cả thực quản ngực đã bóc tách hết 
trong ngực đưa xuống bụng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Tổng Quan 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 3
 -Cắt bỏ thực quản có bướu và uống dạ 
dày thành 1 ống theo Akiyama 
 -Đưa mảnh ghép này qua trung thất sau 
lên cổ nối với thực quản cổ 
Hình 2. Thế nằm của bệnh nhân. Hình 3. Mở ngực phải thấy 
cung tĩnh mạch đơn 
Hình 4. Cột và cắt cung tĩnh mạch 
đơn. 
Hình 5. Bóc tách trên và dưới bướu 
qua ngả ngực phải, cắt ngang thực 
quản sát đỉnh phổi 
Hình 6. Mảnh ghép nằm 
trong trung thất sau. 
Hình 7. Mở cổ trái 
Hình 8. Mở bụng bóc tách vòng 
ngang thực quản bụng. 
Hình 9. Bóc tách dạ dày, giữ 
cuống mạch và uốn thành ống 
Hình 10. Khâu tăng cường bờ 
cong nhỏ dạ dày. 
Hình 11. Đưa ống dạ dày lên nối ở 
cổ với thực quản còn lại 
Hình 12. Làm miệng nối Hình 13. Đặt ống ngang qua 
miệng nối 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 4
Hình 14. Khâu mặt trước miệng nối Hình 15. Miệng nối đã hoàn 
thành 
Hình 16. Vị trí các trocar 
Hình 17. Bóc tách thực quản qua 
nội soi ngực 
Hình 18. Cắt cung tĩnh mạch 
đơn qua nội soi ngực 
Hình 19. Trở lại thì bụng. 
Sau 7 ngày cho bệnh nhân chụp X quang 
thực quản kiểm tra với chất cản quang không 
phải barít (Gastrografin). Nếu không có bục 
hay dò miệng nối chúng ta cho bệnh nhân ăn 
lại dần dần. 
Phẫu thuật này trong tay người nhiều kinh 
nghiệm tỏ ra an toàn như Lee và Miller (1997) 
đã thực hiện phẫu thuật này cho 400 bệnh 
nhân với tỷ lệ bục miệng nối là 1-2% và tỷ lệ 
tử vong là 2%. 
KỸ THUẬT CẮT THỰC QUẢN CÓ NỘI 
SOI NGỰC HỖ TRỢ(3,6,5) 
Chỉ định và kỹ thuật 
Chỉ định tương tự như cắt thực quản cổ điển. 
Về kỹ thuật cần lưu ý: 
-Bệnh nhân được gây mê có nội khí quản với 
ống Carlens. 
-Bệnh nhân nằm nghiêng trái 90 độ. 
-Dùng kỹ thuật 5 trocar bóc tách, cột và dùng 
clip kiểm soát rồi cắt cung tĩnh mạch đơn. Dùng 
dissector bóc tách toàn bộ thực quản ngực. Cắt 
thực quản mang bướu. Bệnh nhân được đặt nằm 
ngửa lại. Thì cổ và thì bụng tương tự như mổ mở 
từ trước đến giờ. 
Một số tác giả áp dụng kỹ thuật mổ với tư 
thế bệnh nhân nằm úp cho kết quả tốt. 
Luketich hiện là người có số liệu cắt thực 
quản qua nội soi ngực và nội soi bụng nhiều 
nhất trên thế giới. 
Một tác giả Đài Loan và một số tác giả khác 
báo cáo kỹ thuật cắt thực quản với nội soi ngực 
qua 1 lỗ trocar. 
KỸ THUẬT CẮT THỰC QUẢN KHÔNG 
MỞ NGỰC (PHẪU THUẬT ORRINGER)(7) 
Năm 1913 Denk là người đầu tiên thực hiện trên 
xác người và trên thú bằng cách dùng dụng cụ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Tổng Quan 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 5
kéo tuột tĩnh mạch để tách thực quản ra khỏi 
trung thất sau. Năm 1933 Turner thực hiện thành 
công trường hợp cắt thực quản không mở ngực 
đầu tiên do ung thư và ở lần mổ thứ nhì đã dùng 
vạt da trước xương ức để tạo hình thực quản. 
Lúc này gây mê nội khí quản phát triển nên việc 
mở ngực cắt thực quản trở nên an toàn và nhìn 
thấy rõ nên kỹ thuật cắt không mở ngực bị quên 
lảng và chỉ thỉnh thoảng được dùng đến như là 
một thì của phẫu thuật cắt thanh quản -hầu 
trong ung thư thanh quản hay ung thư thực 
quản cổ mà trong đó dạ dày được uốn thành 
một ống dùng để tạo hình đường tiêu hóa. 
Năm 1960 Ong và Lee, LeQuesne và Ranger 
(1966) báo cáo các trường hợp đầu tiên thành 
công khi nối dạ dày vào hầu sau khi cắt hầu-
thanh quản và cắt thực quản qua ngã ngực. 
Trong các trường hợp này và các trường hợp của 
Akiyama (1971), toàn bộ thực quản ngực còn 
bình thường được cắt bỏ. 
Năm 1974 Kirk dùng cách cắt thực quản 
không mở ngực để điều trị tạm cho 5 bệnh 
nhân bị ung thư thực quản đã tiến triển xa. 
Năm 1977 Thomas và Dedo trị 4 bệnh 
nhân bị bỏng hầu-thực quản nặng bằng cách 
cắt thực quản không mở ngực và qua trung 
thất sau đưa ống dạ dày lên nối với hầu. 
Năm 1999, người nổi tiếng về cắt thực 
quản không mở ngực này là Orringer nên kỹ 
thuật còn được gọi là kỹ thuật Orringer hoặc 
transhiatal esophagectomy. 
Bệnh nhân nằm ngửa, gối kê dưới cổ như 
mổ tuyến giáp để vào cổ dễ. Cằm bệnh nhân 
xoay qua phải vì ở cổ thực quản bên trái dễ 
tìm hơn. Hai tay để dọc theo mình. 
1.Thì bụng: mở bụng giữa trên và ngang 
rốn trước. Thám sát vùng thực quản bụng và 
trung thất quanh lỗ cơ hoành. Nếu bướu bóc 
tách ra khỏi các cơ quan lân cận dễ dàng là có 
thể thực hiện phẫu thuật an toàn. Cùng ngã 
bụng có thể đáng giá tình trạng hạch và xem 
có di căn qua các cơ quan khác như gan,buồng 
trứng...hay không. Ngoài ra,phẫu thuật viên 
còn phải xem qua tình trạng dạ dày hay đại 
tràng để tiện chọn cơ quan thay thế thực quản 
sau khi cắt bỏ cấu trúc này. 
Sau khi quyết định cắt thực quản lúc này có 
thể khởi thêm thì cổ nếu có phẫu thuật viên thứ 
hai có kinh nghiệm mổ thực quản. 
Dạ dày được bóc tách tương tự như khi cắt 
toàn bộ dạ dày chỉ khác là giữ cẩn thận các cung 
mạch máu nuôi nhất là cung vị-mạc nối phải và 
trái. 
Phẫu thuật viên bụng khởi bóc tách mặt sau 
thực quản. Điều cần nhớ là bóc tách chậm và đi 
sát thành thực quản cũng như giữ theo đường 
giữa. Lúc này, phẫu thuật viên phía cổ có thể bóc 
tách tương tự từ trên đi xuống cũng giữ sát thực 
quản để tránh rách khí quản. 
Sau đó chuyển qua bóc tách mặt trước thực 
quản. Lúc cả 2 phẫu thuật viên trên và dưới đều 
không tiến thêm được nữa thỉ còn lại một đoạn 
thực quản 5 -7 cm phải bóc tách mù. Phẫu thuật 
viên bụng dùng kềm mang gạc để bóc tách mặt 
sau đoạn này và thường là dễ dàng. Kềm mang 
gạc ló ra ở vết mổ cổ được neo tại đây. 
2. Thì cổ: phẫu thuật viên phía cổ sẽ cắt đôi 
thực quản cổ. Đầu dưới thực quản cổ được khâu 
bít bằng chỉ khâu cỡ lớn. Sợi chỉ này được cột 
vào kềm mang gạc. Qua đó, phẫu thuật viên 
bụng sẽ lôi lộn đầu trên thực quản về phía sau 
đồng thời kéo nó xuống dưới bụng. 
Trong khi thực hiện thao tác này, tay phải 
phẫu thuật viên nằm trong trung thất sau đón 
lấy đầu trên thực quản để kéo tiếp. Dọc đường 
đi sẽ gặp một vài cản trở nhỏ có thể kẹp và cắt dễ 
dàng. 
Sau khi rút được toàn bộ thực quản ngực và 
toàn dạ dày làm một khối phẫu thuật viên chuẩn 
bị cho việc uốn dạ dày thành một ống theo kỹ 
thuật của Akiyama. Nếu vì lý do gì không dùng 
được dạ dày thì chọn một đoạn đại tràng theo ý 
thích của phẫu thuật viên. 
Thì kế tiếp, ống dạ dày đặt trong đường đi 
cũ của thực quản được đưa lên nối với đoạn thực 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 6
quản cổ còn lại. Chúng tôi chuộng cách nối một 
lớp mũi rời. Cổ được dẫn lưu với 1 penrose. 
Môn vị nếu kiểm tra thấy thông tốt, không 
hẹp, chúng tôi không mở rộng môn vị thường 
xuyên. Bụng được đóng lại như thường lệ sau 
khi mở hổng tràng ra da nuôi ăn trong những 
ngày đầu. 
Hình 20. Cắt thực quản không mở 
ngực. 
Hình 21. Cắt thực quản 
không mở ngực. 
Hình 22. Tạo hình làm ống thực 
quản. 
Hình 23. Cắt thực quản không mở 
ngực. Đưa ống dạ dày lên cổ. 
Hình 24. Cắt thực quản 
không mở ngực. Vị trí của 
ống dạ dày. 
Hình 25. Cắt thực quản qua lỗ 
hoành. Ngả vào lỗ hoành. 
Hình 26. Cắt rộng vùng lỗ hoành. Hình 27. Từ lỗ hoành nội soi 
phía trước thực quản. 
Hình 28. Từ lỗ hoành nội soi phía 
sau thực quản. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Tổng Quan 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 7
Hình 29. Phần mô được phẫu tích. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 
1. Akiyama H (1990): Surgery for Cancer of the Esophagus. 
Williams & Wilkins. pp. 259-264. 
2. Clavien PA et al: (2007) Atlas of Upper Gastrointestinal and 
Hepato-Pancreato-Biliary Surgery. Springer. 2007. 
3. Dallemagne B et al (1993): Thoracoscopic Esophageal 
Resection in Nagy A.G et al (eds): Minimally invasive surgery 
in gastrointestinal cancer. Churchill Livingstone. 
4. Izbicki JR et al (2009): Surgery of the esophagus. Textbook and 
Surgical Practice. Springer. 2009. 
5. Kakegawa T et al (2009): A history of esophageal surgery in 
the twentieth century. Gen Thorac Cardiovas Surg 57: 55-63. 
6. Luketich JD et al (2003): Minimally invasive esophagectomy: 
outcomes in 222 patients. Ann Surg 238: 486-494. 2003. 
7. Orringer MB et al (1999): Transhiatal esophagectomy: clinical 
experience and refinements . Ann Surg 230: 392-403. 
8. Pearson FG et al (1995): Esophageal Surgery. Churchill 
Livingstone. 
Ngày nhận bài báo: 10/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/12/2013 
Ngày bài báo được đăng 20/2/2013