về sức khỏe tâm thần. Mạng lưới phức tạp của các yếu tố 
góp phần vào việc xây dựng một hệ thống chăm sóc sức khỏe nhằm 
tạo ra một cộng đồng có sức đề kháng tốt đã được miêu tả trong sơ 
đồ ở cuối bài này (Ivbijaro, 2012). (7) Mục tiêu của nó là nhằm phát 
triển sức đề kháng ở cấp độ cá nhân và cộng đồng bằng cách cung 
cấp một phương pháp có tính khoa học trong sự hợp tác với các nhà 
làm luật và chính quyền. Lộ trình này có thể thích hợp với các quốc 
gia có thu nhập thấp, trung bình và cao, và nhấn mạnh vào việc củng 
cố các thành tố đã tồn tại trong cộng đồng và liên kết chúng thông 
qua một mạng lưới các cơ sở chăm sóc sức khỏe với một lực lượng 
chăm sóc dự bị. 
Tài chính 
Để có được giá trị và chất lượng tốt nhất cho các cộng đồng của 
chúng ta và các cá nhân trong cộng đồng, người ta cần phải đầu tư 
tài chính vào vấn đề sức khỏe một cách tương xứng. Tổ chức sức 
khỏe thế giới đã tuyên bố rằng mọi người đều có thể tiếp cận với các 
dịch vụ về chăm sóc sức khỏe chứ không phải là nạn nhân của sự 
khó khăn về mặt tài chính khi tìm đến các dịch vụ chăm sóc (WHO 
2010), (8) tuy biết được điều này nhưng chúngta hiện nay vần còn 
một chặng đường dài để đạt lý tưởng trên. 
41 
Cần phải tập trung vào các hệ thống hỗ trợ tài chính trong nước 
nhằm cải thiện mức độ bao phủ các dịch vụ toàn cầu (9), cần tăng 
các quỹ hỗ trợ để tiếp cận được với các cá nhân nằm ngoài phạm vi 
của các dịch vụ. Việc trị liệu trầm cảm, đặc biệt là ở các cơ sở chăm 
sóc sức khỏe, cần trở nên một phần trong các dịch vụ chăm sóc sức 
khỏe. Điều này sẽ giúp đảm bảo rằng các rào cản về mặt tài chính 
không ngăn người ta tiếp cận tới phạm vi của các can thiệp như việc 
thúc đẩy về mặt sức khỏe, tư vấn giải quyết nợ nần và trị liệu trầm 
cảm. Cuộc khủng hoảng kinh tế đã cho chúng ta thêm động lực để 
nhìn lại vần đề đầu tư tài chính cho các dịch vụ phòng ngừa và trị 
liệu trầm cảm, để từ đó chúng ta có thể xây dựng được sức đề kháng 
đối với các áp lực mà ta sẽ gặp phải ở cấp độ các cá nhân và các 
cộng đồng (Jenkins và cộng sự, 2011) (10), (11), (12), (13) 
Kết luận 
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện tại đã gia tăng gánh nặng 
cho xã hội mà chúng ta phải đối mặt trên toàn cầu và đã làm tăng số 
nguồi trầm cảm. Dù là trầm cảm nhẹ, trung bình hoặc nghiêm trọng 
thì cũng đều đóng góp đáng kể vào gánh nặng bệnh tật và ảnh hưởng 
đến đời sống của con người. Chúng ta cần củng cố chất lượng các 
dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhằm tăng số người tiếp cận được với 
dịch vụ này. Các tổ chức tài trợ và chính quyền các quốc gia cần làm 
việc với nhau một cách hợp tác hơn nữa để các nguồn lực mà chúng 
ta đang có được quản lý tốt hơn nhằm hướng đền sự mở rộng phạm 
vi chăm sóc toàn cầu. Chủ đề của Ngày sức khỏe tâm thần thế giới 
2012 năm nay, Trầm cảm: Một cuộc khủng hoảng toàn cầu, cho 
chúng ta một dịp để tập trung vào việc làm thế nào để có thể cùng 
hợp tác một cách tốt nhất trong việc sử dụng các nguồn lực mà 
chúng ta có để tạo nên sức đề kháng cho các cá nhân và xã hội nhằm 
giảm gánh nặng bệnh tật và sự đau đớn của cá nhân gây ra bởi trầm 
cảm. 
Ngày sức khỏe tâm thần thế giới 2012 là một dịp để tất cả các đại 
học và học viện đào tạo các chuyên viên chăm sóc sức khỏe xem lại 
ý tưởng về việc hợp tác cùng nhau như họ đã làm vào năm 1992 
trong Chiến dịch Đẩy lùi Trầm cảm (De eat Depression Campaign), 
42 
chiến dịch này đã tạo nên một ảnh hưởng quan trọng trong vấn đề 
tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc bằng cách tăng nhận thức cho 
cộng đồng và các nhà chuyên môn về rối loạn phổ biến này cùng với 
việc giảm các biểu hiện bệnh có liên quan với nó. (14) (15). 
Việc đẩy lùi cuộc khủng hoảng toàn cầu này sẽ cần đến sự hợp tác 
liên tục giữa các chính phủ, các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính 
phủ, các công ty dược phẩm và các tổ chức xã hội nhằm tập hợp các 
nguồn lực và củng cố sức đề kháng cho cá nhân và các hệ thống 
chăm sóc sức khỏe nhằm hỗ trợ họ. 
Lời á ơn 
Tôi muốn gửi lời cám ơn đến giáo sư Chris Do rick, tiến sĩ att 
Franciosi, giáo sư Michael idd, tiến sĩ Lucja olkie icz, giáo sư 
Rachel Jenkins and tiến sĩ Filippo Zizzo về các nhiên cứu của họ. 
Tôi cũng muốn gửi lời cám ơn đến các thành viên của Tổ chức 
London Health Programmes và Waltham Forest Clinical 
Commissioning Consortium vì sự ủng hộ của họ. 
 ảo 
Miech RA, Caspi A, Moffitt TE, Wright BE, Silva PA (1998). Low Socioeconomic Status and Mental 
Disorders: A Longitu-dinal Study of Selection and Causation during Young Adult-hood. Working 
Paper No. 98-05, Center for Demography and Ecology, Madison, WI 
Declaration of Alma-Ata: international conference on primary health care, Alma-Ata, USSR, Sept 6-12, 
1978.  (accessed 18.03.2012) 
Ivbijaro G, Kolkiewicz L, Lionis C, Svab I, Cohen A, Sarto-rius N (2008) Primary care mental health 
and Alma-Ata: from evidence to action. Mental Health in Family Medicine. 5: 67-9 
Spitzer RL, Kroenke K, Linzer KM, Hahn SR, Williams JBW, deGruy FV, Brody D, Davies M (1995) 
Health-related quality of life in primary care patients with mental disorders. Results from the PRIME-
MD 1000 Study. Journal of the American Medical Academy. 274 (19): 1511-1517 
World Health Organization (2008). Global Burden of Disease: 2004 update 46, 51. 
WHO/Wonca (2008). Integrating mental health into primary care: A global perspective. Geneva: WHO 
Ivbijaro GO (ed) (2012). Companion to Primary Care Mental Health. Radcliffe/Wonca 
World Health Organization (2010). The World Health Report. Health Systems Financing. The Path to 
Universal Coverage. Geneva: WHO 
43 
Evans DB, Etienne C (2010). Health systems financing and the path to universal coverage. Bulletin 
World Health Organization 88: 402 
Jenkins R, Baingana F, Ahmad R, McDaid D, Atun R. (2011) Mental health and the global agenda: 
core conceptual issues. Mental Health in Family Medicine 8:69-8 
Jenkins R, Baingana F, Ahmad R, McDaid D, Atun R. (2011) Social, economic, human rights and 
political challenges to global mental health. Mental Health in Family Medicine 8:87-96 
Jenkins R, Baingana F, Ahmad R, McDaid D, Atun R. (2011) International and national policy 
challenges in mental health. Mental Health in Family Medicine 8:101-114 
Jenkins R, Baingana F, Ahmad R, McDaid D, Atun R. (2011) Health system challenges and solutions 
to improving mental health outcomes. Mental Health in Family Medicine 8:119-127 
Paykel ES, Tylee A, Wright A, Priest RG, Rix S, Hart D (1997) The Defeat Depression Campaign: 
psychiatry in the public arena. American Journal of Psychiatry 154 (festschrift supple-ment): 59-65 
Rix S, Paykel ES, Lelliot P, Tylee A, Freeling P, Gask L, Hart D (1999) Impact of a national campaign 
on GP education: an evaluation of the Defeat Depression Campaign British Journal of General Practice 
49: 99-10 
Sobocki P, LekanderI, BorgströM, Ström O, Bo R (2007) The economic burden of depression in 
Sweden from 1997 to 2005. European Psychiatry 22(3): 146-152 
Sainsbury Centre for Mental Health (2007) Policy Paper 8. Mental Health at Work: Developing the 
Business Case. Sainsbury Centre for Mental Health London UK (Accessed 15.07.2012 
Conradi HJ, Ormel J, de Jonge P (2011) Presence of individual (residual) symptoms during depressive 
episodes and periods of remission: a 3 year prospective study. Psychological Medicine 44: 1165-1174 
European Pact for Mental Health and Well-Being EU High Level Conference Brussels, Belgium 12-
13th June 2008. (Ac-cessed 15.07.2012 
44 
 á n iệp 
 á ơ sở ă só 
sứ ỏe thực hành 
dựa trên nền tảng 
khoa học sử dụng 
một mô hình chăm 
sóc có thứ bậc nhằm 
rút ngắn “khoảng 
cách giữa khoa học 
Thúc đẩy các yếu tố quyết định có phạm vi rộng hơn về 
mặt sức khỏe sự cổ võ tinh thần: các lưu ý về mặt đạo 
Cải thiện cơ hội tiếp cận của người bệnh thông qua các 
chính sách sức khỏe cộng đồng sự lượng giá việc thiết kế 
Cho ra các kết quả 
có nền tảng khoa 
học và rút ngắn 
“khoảng cách giữa 
khoa học và dịch 
vụ” bằng cách sử 
dụng một phương 
pháp tổng hợp 
 ă só ộ á ổng ể về sứ ỏe â ần 
 ỘNG ĐỒNG 
Sự biểu iện 
 ộng đồng Sức đề 
kháng của & việc 
tự chăm sóc bản 
thân của cá nhân 
V i rò á 
n à là luậ và 
 ín quyền 
Vai rò á 
nguồn lự rộng 
 ắp r ng ộng 
đồng bao gồm các 
mạng lưới hỗ trợ 
gia đình và cộng 
đồng 
Sự ă só 
 ông ín ứ 
(secondary care): 
thực hành và cho 
ra các kết quả dựa 
trên nền tảng khoa 
học 
Sự biểu iện và 
đán giá á ơ 
sở ă só sứ 
 ỏe 
Quyế đ n á ơ 
sở ă só sứ ỏe 
45 
 Á ĐỘNG KINH TẾ 
của bệnh tr m c m 
R. en ins, rung t ợ tác với W , ọc viện bệnh học, 
Kings College London. 
[email protected]; D. McDaid, London 
School of Economics and Political Science. 
[email protected] 
Trầm cảm là một vấn đề phổ biến. Định nghĩa rộng về nó bao gồm 
cả trầm cảm đơn thuần và trầm cảm đi kèm lo âu, nó ảnh hưởng 
khoảng 5-10% số thanh thiếu niên và 10-15% số người lớn. Trầm 
cảm có thể được gây nên bởi nhiều yếu tố cá nhân, xã hội và kinh tế, 
bao gồm cả những cú sốc lớn của nền kinh tế (1). Trên khắp thế giới, 
trầm cảm gây ra một gánh nặng kinh tế đáng kể, không chỉ trên các 
cá nhân mắc phải rối loạn này nhưng còn tác động trên gia đình, 
cộng đồng, các nhà tuyển dụng, các hệ thống chăm sóc sức khỏe và 
ngân sách của các quốc gia. Vào thời điểm khủng hoảng kinh tế lan 
tràn trên khắp thế giới, trầm cảm là một hiểm họa mà xã hội làm 
ngơ: sự thiếu quan tâm đến việc phòng tránh và trị liệu trầm cảm 
trong dân số, và các tổn thất trong lực lượng lao động, có thể gây 
khó khăn cho các quốc gia trong việc thoát khỏi tình trạng thắt lưng 
buộc bụng trong ngân sách 
Có một nghiên cứu đầy đủ về vấn đề gánh nặng kinh tế quy về lý do 
là từ các rối loạn tâm thần ở các nước có thu nhập cao (2-4) và càng 
ngày càng có nhiều dữ kiện về hậu quả kinh tế ở các nước có thu 
nhập thấp và trung bình (5, ). Các ước tính về tổn thất này có vẻ 
thận trọng: một số ít liên quan đến cách mà các gia đình có thể huy 
động hoặc tái điều phối các nguồn lực theo những cách quen thuộc 
đối với các gia đình, và sự rủi ro ngày càng trầm trọng thêm và vẫn 
tồn tại sự bất bình đẳng trong nền kinh tế xã hội. Khi xem xét các 
nền kinh tế, các phí tổn ở mức độ gia đình này có một tác động quan 
trọng lên kích cỡ và năng xuất của lực lượng lao động và lên thu 
nhập của toàn quốc gia nói chung. Các ước tính về chi phí cũng 
46 
thường không xem xét đến những rủi ro ngày càng tăng cao đến sức 
khỏe thể chất của người bệnh khi mắc chứng trầm cảm. 
Trầm cảm cũng duy trì vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói bằng cách 
ngăn cản khả năng hoạt động trong nghề nghiệp hoặc các hoạt động 
khác mà các gia đình tham gia vào, dẫn tới sự suy giảm về mặt xã 
hội cũng như năng suất lao động. Như vậy, những người mắc phải 
trầm cảm mãn tính thì thường sống trong cảnh nghèo đói bởi vì cả họ 
lẫn những người chăm sóc cho họ đều không thể làm việc. Tại các 
quốc gia mà người dân không tiếp cận được với dịch vụ chăm sóc 
sức khỏe toàn cầu, các cá nhân có thể phải chi nhiều tiền từ các 
khoản dành dụm của họ hoặc phải vay mượn tiền để mua các dược 
phẩm thông thường và/ hoặc các dược phẩm truyền thống. Việc phá 
vỡ xiềng xích của nghèo đói và nợ nần cho những người mắc phải 
trầm cảm là một việc làm quan trọng nhằm hướng tới mục tiêu của 
thiên niên kỷ về việc xóa bỏ tận gốc đói nghèo (MDG1). Tuy nhiên 
đây không chỉ là vấn đề ở các nước có thu nhập thấp, các mức độ 
cao hơn của sự nợ nần và nghèo nàn có thể thấy được ở các quốc gia 
Châu Âu và ở những quốc gia khác đã từng trải qua các tác động tồi 
tệ của sự suy thoái kinh tế. 
Một lý do thuyết phục cho việc nhận diện trầm cảm là việc xuất hiện 
các triệu chứng đa dạng từ các nghiên cứu trong thời gian dài ở 
nhiều nước có thu nhập cao về vấn đề trầm cảm không được chữa trị 
ở trẻ em và độ tuổi thanh niên có thể trở thành nền tảng tiềm tàng 
cho các hệ quả lâu dài về mặt xã hội và mặt kinh tế ở tuổi trưởng 
thành. Những điều này bao gồm các cấp độ nghèo nàn hơn về mặt 
tiếp thu giáo dục, dính dáng đến hệ thống tư pháp hình sự, khó tìm 
được việc làm và thường chỉ nhận được lương thấp khi được tuyển 
dụng, và các khó khăn trong mối quan hệ cá nhân (7-10). Ngoài ra, 
trầm cảm ở cha mẹ cũng có các tác động bất lợi lên sức khỏe, sự 
phát triển và giáo dục của con cái họ (11). Ở một số quốc gia, trẻ em 
có thể phải bỏ học trong suốt những cơn khủng hoảng về sức khỏe 
để được chăm sóc sức khỏe, hoặc có thể là vì cha mẹ đơn giản quá 
ốm yếu và bệnh tật nên không đảm bảo rằng con cái họ được tới 
trường. Một lần nữa, tại thời điểm khủng hoảng kinh tế, cần phải đầu 
47 
tư vào vấn để chăm sóc sức khỏe và phúc lợi của trẻ em vì trẻ em đại 
diện cho tương lai thịnh vương của bất cứ quốc gia nào 
Tổn thất do trầm cảm gây ra rất đáng kể nhưng chúng ta đã biết được 
gì về việc đầu tư vào vấn đề ngăn ngừa và trị liệu trầm cảm Trong 
khi người ta phải đưa ra các quyết định thận trong về việc phải đầu 
tư như thế nào vào tất cả các mặt của lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, thì 
thậm chí cả các chương trình hành động hiệu quả – ít tốn kém tại các 
vùng miền nghèo đói nhất trên thế giới để ngăn ngừa trầm cảm cũng 
có thể thực hiện được (12). Đã có các cứ liệu cụ thể (dù là đến từ bối 
cảnh các nước có thu nhập cao) chỉ ra rằng có một số phương pháp 
hiệu quả – chi phí thấp để ngăn ngừa trầm cảm trong suốt vòng đời 
của một người (13). 
Tóm lại, mặc dù ảnh hưởng của sức khỏe yếu kém lên vấn đề nghèo 
đói thì không mang tính đặc thù như trầm cảm, nhưng việc mắc phải 
những căn bệnh gây trầm uất trong thời gian dài cũng tạo nên các tác 
động tiêu cực hơn hầu hết các bệnh nặng về thể lý. Các tác động đa 
dạng này làm tăng rủi ro về việc các gia đình sẽ rơi vào tình trạng 
khó khăn về mặt kinh tế, và ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc gia. Các 
rủi ro như vậy dễ dàng tăng lên trong những thời điểm khủng hoảng 
kinh tế, khiến cho người ta không thể không lưu tâm đến vấn đề sức 
khỏe tâm thần. 
 ả 
1. Anderson P, McDaid D, Basu S, Stuckler D. Impact of economic crises on mental health. . 
Copenhagen: World Health Organization Regional Office for Europe; 2011. 
2. Foresight Mental Capital and Wellbeing Project. Final Project Report. London: The Government 
Office for Science; 2008.  
3. McCrone P, Dhanasiri S, Patel A, Knapp M, Lawton-Smith S. Paying the price: the cost of mental 
health care in England to 202 . London: ing’s Fund 2008. 
4. Gustavsson A, Svensson M, Jacobi F, Allgulander C, Alonso J, Beghi E, et al. Cost of disorders of 
the brain in Europe 2010. European neuropsychopharmacology : the journal of the Euro-pean College 
of Neuropsychopharmacology. 2011;21(10):718-79. Epub 2011/09/20. 
5. Shah A, Jenkins R. Mental health economic studies from developing countries reviewed in the 
context of those from developed countries. Acta Psychiatr Scand. 2000;101:87-103. 
48 
6. McDaid D, Knapp M, Raja S. Barriers in the mind: promot-ing an economic case for mental health 
in low and middle income countries. World Psychiatry. 2008;7(2):79-86. 
7. Scott S, Knapp M, Henderson J, Maughan B. Financial cost of social exclusion: follow up study of 
antisocial children into adulthood. British Medical Journal. 2001;323(7306):191. 
8. Fergusson DM, John Horwood L, Ridder EM. Show me the child at seven II: childhood intelligence 
and later outcomes in adolescence and young adulthood. Journal of Child Psychol-ogy and Psychiatry. 
2005;46(8):850-8. 
9. McCrone P, Knapp M, Fombonne E. The Maudsley long-term follow-up of child and adolescent 
depression: predicting costs in adulthood. European Child and Adolescent Psychiatry. 2005;14:407-13. 
10. Chen H, Cohen P, Kasen S, Johnson JG, Berenson K, Gordon K. Impact of Adolescent Mental 
Disorders and Physi-cal Illnesses on Quality of Life 17 Years Later. Arch Pediatr Adolesc Med. 
2006;160(1):93-9. 
11. Rutter M, Quinton D. Parental psychiatric disorder: efffects on children. Psychological Medicine. 
1984;14:853-80. 
12. Chisholm D, Sanderson K, Ayuso-Mateos JL, Saxena S. Reducing the global burden of depression: 
population-level analysis of intervention cost-effectiveness in 14 world regions. The British journal of 
psychiatry : the journal of mental sci-ence. 2004;184:393-403. Epub 2004/05/05. 
13. McDaid D, Park AL. Investing in mental health and well-being: findings from the DataPrev project. 
Health promotion international. 2011;26 Suppl 1:i108-39. Epub 2011/12/0 
49 
Tr m c m và 
MỐI NGUY CHO CỘNG ĐỒNG\ 
Jeffrey Geller, MD, MPH, Professor of Psychiatry, University of 
Massachusetts Medical School. 
[email protected] 
Ngày nay, quan niệm rằng những người mắc bệnh tâm thần rất nguy 
hiểm là một trong những quan niệm sai lầm rất phổ biến trong quần 
chúng. Trong khi quan niệm đó góp phần làm tăng sự kỳ thị và xa lánh 
đối với một số loại bệnh tâm thần, trường hợp này không đúng với bệnh 
trầm cảm.Trong trường hợp của bệnh trầm cảm, nguyên nhân tạo ra sự 
kỳ thị và xa lánh là do một số yếu tố khác chưa được xác định rõ ràng. 
Trầm cảm nói chung không phải là mối nguy hiểm cho người khác. 
Trầm cảm được xác nhận là gây nguy hiểm cho bản thân, ví dụ như tự 
tử. Trầm cảm là một yếu tố rủi ro dẫn đến suy nghĩ tự tử (số lượng các 
nỗ lực tự tử thì nhiều hơn số lượng tự tử thành công). Việc chăm sóc tốt 
về mặt sức khỏe tinh thần có thể làm giảm rủi ro này và các chương 
trình ngăn ngừa tự tử và các đường dây nóng có thể cung cấp sự hỗ trợ. 
Tuy nhiên việc quan tâm đến vấn đề tự tử và các biện pháp phòng ngừa 
tự tử lại kéo mối quan tâm khỏi thực tế rằng trong "những trường hợp 
xấu nhất" thì trầm cảm và hệ quả của nó là suy nghĩ tự tử/ các nỗ lực tự 
tử/ và việc tự tử có thể gây nguy hiểm cho người khác 
Các ví dụ rõ ràng nhất của vấn đề này (cá nhân người trầm cảm là một 
mối nguy hiểm với người khác) là việc các cá nhân trầm cảm sẽ giết hại 
ai đó, đôi khi sau đó là họ sẽ tự sát. 
 Việc giết hại trẻ con và trầm cảm hậu sản: việc một bà mẹ giết hại 
một đứa trẻ dưới 1 tuổi. 15% các vụ giết hại trẻ sơ sinh diễn ra trong 
vòng 4 tháng đầu đời của trẻ với một hình thức tiêu biểu là giết vì 
"vị tha" hoặc giết hại nhân danh tình thương, v.v..., các cha mẹ 
trước khi tự tử không muốn để cho đứa trẻ ở lại “một mình" và hành 
động theo cách mà bà mẹ nghĩ là sẽ mang lại lợi ích tốt nhất cho 
đứa trẻ. 
50 
 Giết hại con cái: việc người cha hoặc người mẹ giết hại con của 
mình, chiếm tỉ lệ 60% các vụ giết hại trẻ em, các phụ nữ trầm cảm 
giết hại con của mình đã có những cảnh báo suy nghĩ của họ về 
chính cái chết của họ và cái chết của con cái họ nhiều ngày hoặc 
nhiều tuần trước khi sự việc xảy ra. 
 Trẻ vị thành niên giết hại người thân: chẳng hạn như một đứa con 
trai cảm thấy xấu hổ hoặc bị xúc phạm (thì thường) giết cha hoặc 
mẹ dựa trên niềm tin rằng việc này sẽ đưa đến "sự giải thoát khỏi 
cảm giác ức chế" 
 Giết người và giết người tự tử thực hiện bởi một cặp vợ chồng cao 
tuổi (trên 65 tuổi) mắc bệnh trầm cảm như một trong những chứng 
rối loạn tâm thần thường xuyên, một kết luận toàn cầu. 
 Việc giết người hàng loạt và tự tử sau đó là một ví dụ vô cùng phổ 
biến của việc giết người ở ngoài gia đình và sau đó là tự tử. Đa số 
thủ phạm trong các trường hợp này được chẩn đoán là mắc phải 
chứng trầm cảm. 
Có những cách thế khác mà việc tự tử của cha mẹ có thể gây nguy hiểm 
hoặc tổn hại cho con cái. Những suy nghĩ về việc làm tổn hại đến con 
sơ sinh diễn ra trong 41% số các bà mẹ trầm cảm (gấp 6 lần tỉ lệ các bà 
mẹ không trầm cảm) và các suy nghĩ này khiến cho các bà mẹ thoái lui 
khỏi những đứa con sơ sinh của họ. Con cái của các phụ nữ trầm cảm 
sau sinh nở trải qua những hệ quả tồi tệ về mặt phát triển thể chất. 
Con cái mồ côi do cha mẹ tự tử có nhiều biểu hiện trầm cảm hơn, và có 
tỉ lệ tự tử cao hơn cũng như tỉ lệ nằm viện cao hơn do các nỗ lực tự tử 
bất thành có các triệu chứng giống TSD (Rối loạn hậu sang chấn tâm 
lý) với cảm giác tội lỗi và tự trách bản thân, tỉ lệ cao hơn về các rối loạn 
nhân cách, tỉ lệ cao về việc gây tội ác bạo lực, và rủi ro đáng kể về tự 
tử. 
Trầm cảm có thể là một yếu tố đóng góp vào các tình huống tự tử gây 
hại tới người khác. Những cơn “đại dịch tự tử” đã xảy ra tràn lan từ lâu 
trước khi ngành tâm bệnh học bắt đầu giải nghĩa các sắc thái của chúng. 
Những cơn đại dịch như vậy xảy ra một cách rời rạc, nhưng lặp đi lặp 
lại, ở các cộng đồng dân cư nhất định như người da đỏ Châu Mỹ và ở 
những nơi nhất định như các đơn vị điều trị tâm thần nội trú. 
51 
Tai nạn giao thông là một cách hữu hiệu để che giấu một vụ tự tử: việc 
tự tử bằng cách lái xe được nghiên cứu mang tên WHO/Euro 
Multicentre Study on arasuicide năm 2000 xếp hạng thứ 25 trong danh 
sách các phương pháp tự tử phổ biến nhất, tuy nhiên có một sự đa dạng 
trong các báo cáo ở nhiều quốc gia về vấn đề tự tử bằng cách lái xe. 
Việc tự tử bằng các phương tiện có động cơ gây nguy hiểm cho người 
khác bởi vì tài xế không thể kiểm soát được hậu quả sẽ gây ra. 
Một số người dự định tự sát sắp đặt hiện trường để một người khác trở 
thành thủ phạm, và đối tượng thủ phạm đó thường là nhân viên cảnh 
sát, đây gọi là “tự tử nhờ cảnh sát”. Trong những trường hợp này, có thể 
sẽ có nổ súng giữa các bên. 
Trầm cảm có thể là một yếu tố góp phần vào việc phóng hỏa do bệnh lý, 
và bất cứ vụ phóng hỏa nào cũng gây nguy hiểm cho cộng đồng dân cư. 
Cách phóng hỏa thường được dùng để giết hại con cái ( ilicide). Cha mẹ 
mắc chứng cuồng phóng hỏa (pyromania) là người mắc phải nhiều giai 
đoạn trầm uất trong quá khứ so với các bệnh nhân mắc phải các rối loạn 
cưỡng chế khác (impulsive control disorders.). 
Chết bởi tự thiêu thường là việc tự tử của một người mắc phải trầm 
cảm, và là một điều không phổ biến ở phương Tây và các nước phát 
triển. Ở phương Đông và các nước đang phát triển, việc tự thiêu thường 
do nhiều lý do, nhưng biểu hiện tự tử truyền thống này thường che đậy 
cho gốc rễ trầm cảm bên trong. hi tự thiêu, người tự thiêu là một mục 
tiêu đơn độc, nhưng khi đã châm lửa thì cá nhân châm lửa không thể 
kiểm soát được diễn biến của vụ cháy cũng như tầm sức hủy hoại của 
ngọn lửa. 
Việc tự tử, theo sau trầm cảm, có thể gây ra nguy hiểm cho người khác. 
Những người tự tử phần lớn là mắc phải các rối loạn khí sắc, và rối loạn 
khí sắc phổ biến nhất chính là trầm cảm. 
52 
TRANG THÔNG TIN 
 i đ n ng ngư i bện m m m bạn biế 
 ạn bè và gia đình có thể là một đường dây nóng quan trọng đối với 
người mắc phải trầm cảm. ạn có thể là yếu tố quan trọng trong quá 
trình phục hồi của họ. Thông tin trong bản tóm lược này sẽ cho bạn 
những hướng dẫn để có thể cung cấp một sự chăm sóc tốt nhất có thể 
cho những người thân quen, trong khi vẫn có thể chăm sóc tốt cho 
chính bạn. 
Điều bạn ó ể là 
Có nhiều thứ bạn có thể giúp đỡ tùy vào mức độ trầm cảm của họ. 
Một trong những điều quan trọng nhất là trò chuyện cùng những 
người thân yêu của bạn và lắng nghe họ. Hãy hỏi thăm về cảm xúc 
nhưng đừng ép họ phải nói ra nếu họ không muốn. Việc cho phép 
cuộc hội thoại diễn ra một cách dễ dàng và cởi mở có thể cho họ 
thấy được sự hiện diện của bạn ở đó để giúp họ. Việc hỏi họ về điều 
hữu ích nhất mà bạn có thể làm cho họ khi họ cảm thấy trầm uất 
cũng mang lại hiệu quả. Hãy lắng nghe những gì họ nói. Hãy nói với 
họ rằng bạn hiện diện ở đó để lắng nghe khi mà họ muốn nói. 
 ấu iểu về rầ ả 
 ạn cần phải hiểu về trầm cảm, các triệu chứng của nó, các chương 
trình hỗ trợ và các liệu pháp khả dĩ. Điều này sẽ giúp bạn hiểu được 
về người bạn yêu thương và hiểu được về cảm xúc của người ấy. 
Điều này cũng giúp bạn biết được khi nào người thân của bạn cảm 
thấy đỡ hơn. Thông tin trong tài liệu này có thể giúp bạn hiểu hơn về 
sự phức tạp của rối loạn này. Cũng có nhiều nguồn lực trực tuyến và 
trên khắp thế giới với các thông tin chi tiết hơn. 
Hỗ rợ việ r liệu 
Một mảng hỗ trợ thiết yếu cho người mắc phải trầm cảm là làm việc 
cùng họ để giúp họ theo đuổi kế hoạch trị liệu, bao gồm việc giúp họ 
uống thuốc theo chỉ định, gặp gỡ các chuyên gia chăm sóc sức khỏe 
53 
của họ, và tìm kiếm những hỗ trợ bên ngoài nếu cần thiết. ạn có thể 
phải trở thành người nhắc nhở họ uống thuốc hằng ngày. ạn cũng 
có thể giúp đỡ bằng sắp đặt các buổi hẹn trị liệu và đưa họ tới đó. 
Nếu họ vẫn không cảm thấy khá hơn, bạn có thể cần phải khuyến 
khích họ tìm kiếm thêm những sự hỗ trợ hoặc những hỗ trợ thay thế. 
N ận r á ấu iệu ản bá về ự 
 ạn cần phải biết rằng người mắc trầm cảm rất dễ cố tự tử. Hãy nhìn 
nhận một cách nghiêm túc bất cứ thông điệp của họ về việc tự tử 
hoặc muốn chết. Đối tượng trầm cảm chắc chắn đang rơi vào tình 
cảnh rất đau đớn, thậm chí dù bạn có không tin vào việc họ thật sự 
muốn làm tổn thương bản thân. 
Gi p đ người ắ rầ ả v i sin ạ uộ sống ằng ngày 
Thường thì người mắc trầm cảm gặp khó khăn với một số vấn đề cơ 
bản trong cuộc sống hằng ngày. Nếu mức độ đủ nghiêm trọng thì 
trầm cảm c