Trong bộ phận mới có tên “bộ phận khách hàng”, các 
vị trí giám đốc quản lý chuyên trách phân khúc thị 
trường và chăm sóc khách hàng sẽ có trách nhiệm 
xác định nhu cầu sản phẩm của khách hàng. Sau đó, 
giám đốc thương hiệu, dưới sự chỉ đạo của giám đốc 
chăm sóc khách hàng, sẽ cung cấp sản phẩm đáp ứng 
những nhu cầu ấy.
              
                                            
                                
            
 
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Tư duy lại về Marketing –Phần 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư duy lại về Marketing – Phần 2 
Trong bộ phận mới có tên “bộ phận khách hàng”, các 
vị trí giám đốc quản lý chuyên trách phân khúc thị 
trường và chăm sóc khách hàng sẽ có trách nhiệm 
xác định nhu cầu sản phẩm của khách hàng. Sau đó, 
giám đốc thương hiệu, dưới sự chỉ đạo của giám đốc 
chăm sóc khách hàng, sẽ cung cấp sản phẩm đáp ứng 
những nhu cầu ấy. 
Những giám đốc chăm sóc khách hàng 
Điều này đòi hỏi phải luân chuyển nguồn lực, cơ bản 
nhất là con người và ngân sách, và thẩm quyền từ 
những giám đốc sản phẩm sang giám đốc khách 
hàng. Cấu trúc này rất phổ biến trong thế giới B2B. 
Xem xét trường hợp của Procter & Gamble, tập đoàn 
này có vị trí giám đốc quản lý khách hàng chủ chốt 
chuyên trách những công ty bán lẻ “cỡ bự” như Wal-
Mart. 
So với bán hàng, họ dành cho sứ mệnh tối đa hóa giá 
trị của quan hệ khách hàng trong dài hạn nhiều quan 
tâm hơn. Một số công ty B2C cũng sử dụng cấu trúc 
này, nhất là các định chế tài chính bán lẻ, theo đó, họ 
có quản lý chuyên trách từng phân khúc, thay vì sản 
phẩm, riêng biệt như nhóm khách hàng giàu có, 
nhóm có con cái đang học đại học, nhóm sắp về 
hưu… 
Trong một công ty định hướng chăm sóc khách hàng, 
người quản lý phụ trách phân khúc hàng tiêu dùng có 
thể giới thiệu khách hàng nhiều lợi ích của việc từ bỏ 
sản phẩm A lợi ích thấp sang sản phẩm B lợi ích cao 
hơn. Điều này sẽ không thể xảy ra trong hệ thống 
quản lý trước đây khi giám đốc nhãn hàng A sẽ 
không thuyết phục khách hàng từ bỏ sản phẩm mình 
dù rõ ràng điều này có lợi cho khách hàng bởi vì mọi 
khoản lương thưởng của vị giám đốc này đều được 
đo lường bằng hiệu quả hoạt động quảng bá thương 
hiệu chứ không phải bằng việc nâng cao CLV hay 
một tiêu chuẩn khách hàng dài hạn nào khác. 
Đây là một bước chuyển lớn: nó đồng nghĩa với việc 
các giám đốc sản phẩm sẽ phải không còn chỉ chăm 
chăm tối đa hóa lợi nhuận của một sản phẩm hay 
thương hiệu mà bắt đầu có trách nhiệm giúp đỡ các 
giám đốc phân khúc thị trường và khách hàng tối đa 
hóa lợi nhuận của họ. 
Những chức năng thường xuyên tiếp xúc khách 
hàng 
Trong vai trò sợi dây liên kết với các hoạt động tiếp 
xúc khách hàng, bộ phận chăm sóc khách hàng phải 
đảm trách một số chức năng lấy khách hàng làm 
trọng tâm mà từng hay chưa từng là một bộ phận của 
phòng marketing. 
CRM 
Theo một khảo sát do Harte-Hanks thực hiện trên 300 
công ty ở khu vực Bắc Mỹ, chức năng quản lý quan 
hệ khách hàng thường thuộc trách nhiệm của bộ phận 
IT bởi những hệ thống CRM thường đòi hỏi nhiều 
năng lực kỹ thuật, cụ thể theo khảo sát: 42% số công 
ty giao CRM cho phòng IT, 31% cho phòng kinh 
doanh và chỉ 9% cho bộ phận marketing. 
Tuy nhiên, suy cho cùng, CRM là công cụ đo lường 
nhu cầu và hành vi khách hàng – vai trò trung tâm 
của bộ phận chăm sóc khách hàng mới. Vì thế, nếu 
dữ liệu nhằm phục vụ chiến lược chăm sóc khách 
hàng lại được thu thập và phân tích bởi một bộ phận 
không chuyên chăm sóc khách hàng thì nghe có vẻ 
không hợp lý. Dĩ nhiên, nếu giao phó chức năng 
CRM cho bộ phận chăm sóc khách hàng thì họ cũng 
cần được trang bị những kỹ năng phân tích và IT. 
Nghiên cứu thị trường 
Tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu thị trường 
trong một công ty định hướng chăm sóc khách hàng 
nay đã khác trước. Đầu tiên, đối tượng sử dụng 
nghiên cứu thị trường trong nội bộ công ty không chỉ 
là bộ phận kinh doanh mà là tất cả phòng ban nào của 
tổ chức mà có tiếp xúc với khách hàng, kể cả bộ phận 
tài chính (nơi xây dựng các phương án thanh toán cho 
khách hàng) và phân phối sản phẩm (nơi quyết định 
thời gian giao hàng và chất lượng dịch vụ). 
Thứ hai, quy mô của phân tích chuyển từ quan điểm 
tổng hợp sang quan điểm của từng cá nhân về hoạt 
động và giá trị của khách hàng. 
Thứ ba, nghiên cứu thị trường đã chuyển trọng tâm 
của nó vào nguồn thông tin đầu vào từ khách hàng 
mà có khả năng cải thiện những tiêu chuẩn hướng về 
khách hàng như CLV và tài sản khách hàng. 
Nghiên cứu và phát triển 
Khi một sản phẩm bất kỳ được sản xuất như thể nó là 
thí nghiệm cho các tiến bộ về mặt kỹ thuật thay vì 
xuất phát từ nhu cầu của khách hàng, doanh số bán 
sản phẩm ấy chắc chắn sẽ tụt giảm. Ví dụ điển hình 
nhất là các kỹ sư thường thích tích hợp đủ loại tính 
năng vào sản phẩm trong khi điều này lại khiến nhiều 
khách hàng cảm thấy phiền toái và ảnh hưởng xấu 
đến doanh số trong tương lai. 
Nhằm đảm bảo các quyết định sản xuất phải phản 
ánh được nhu cầu từ thế giới thực, yếu tố khách hàng 
phải được đưa vào quá trình thiết kế. Tích hợp hai 
khâu R&D và marketing là một giải pháp hay. Hiếm 
có công ty nào thực hiện điều này tốt hơn Nokia ở 
châu Á, nơi mà thị phần của tập đoàn này chiếm đến 
hơn 60%. Trong một ngành mà các nhà sản xuất phải 
công bố điểm số đánh giá của những sản phẩm mới 
xuất hiện mỗi năm, khả năng của tập đoàn này trong 
việc đưa định hướng khách hàng vào từng đặc tính và 
giá trị của các sản phẩm “đình đám” có thể xem là 
thần kỳ. 
Một trong những công cụ phục vụ quá trình sáng tạo 
hướng đến khách hàng là Nokia Beta Labs, cộng 
đồng ảo dành cho nhóm phát triển sản phẩm, nó gắn 
kết họ với người dùng, cho phép họ cùng nhau tạo 
bản mẫu ảo của những đặc tính và sản phẩm mới, 
chào đón những ý tưởng “dù là quái gở nhất” và có 
thể chưa từng xuất hiện trên thị trường. (Nokia thực 
hiện một chiến lược hoàn toàn khác ở Mỹ, sử dụng ít 
yếu tố khách hàng ở đầu vào và chứng kiến thị phần 
của mình tụt giảm). 
Câu chuyện theo mô-tip: công ty tạo được giá trị mới 
nhờ gắn kết người dùng và nhà sản xuất, xuất hiện rất 
nhiều trong thời gian qua, điển hình là: trình quyệt 
Firefox của Mozilla, nhãn hàng Swiffer của P&G 
trong danh mục sản phẩm làm sạch nhà cửa, và liên 
doanh giữa International Flavors and Fragrances với 
các khách hàng B2B như Estée Lauder trong thị 
trường nước hoa. Trong một thế giới mà các mô hình 
R&D cổ điển sử dụng để phát triển sản phẩm mới 
phải nhường chỗ cho sự kết hợp sáng tạo như trong 
các ví dụ kể trên thì phòng R&D nhất thiết phải báo 
cáo cho CCO. 
Dịch vụ khách hàng 
Chức năng này nên được thực hiện trong nội bộ và 
thuộc bộ phận chăm sóc khách hàng, nhằm không chỉ 
đảm bảo chất lượng dịch vụ cao mà còn giúp xây 
dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Như hãng 
hàng không Delta Airlines chẳng hạn, mới đây, hãng 
phải đóng cửa những tổng đài điện thoại ở nước 
ngoài do khả năng tương tác với khách hàng Bắc Mỹ 
của hãng bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi những khác 
biệt về văn hóa. Delta kết luận rằng khoản tiết kiệm 
nhờ cắt giảm chi phí không thể nào bù đắp được tác 
động tiêu cực đến mối quan hệ với khách hàng. 
Giờ đây, khi một trung tâm dịch vụ khách hàng nhận 
được cuộc gọi, người tiếp nhận sẽ nhanh chóng xác 
định phân khúc mà người gọi đến thuộc về và ngay 
lập tức chuyển cuộc gọi đến một chuyên viên dịch vụ 
khách hàng, người được huấn luyện chuyên sâu về 
phân khúc đó. Quá trình tương tác sẽ được lưu lại 
trong hệ thống thông tin khách hàng và sau đó được 
phòng chăm sóc khách hàng sử dụng để xác định nhu 
cầu mới của khách hàng và xây dựng giải pháp. 
Nếu buộc phải thuê ngoài dịch vụ khách hàng, bộ 
phận này phải báo cáo trực tiếp với một giám đốc 
khách hàng cấp cao thuộc công ty, và cơ sở hạ tầng 
IT cũng như dữ liệu về khách hàng của đơn vị thuê 
ngoài phải tích hợp được với cơ sở dữ liệu của công 
ty. 
Trọng tâm mới cho các tiêu chuẩn về khách hàng 
Khi các công ty bắt đầu chuyển trọng tâm từ 
marketing sản phẩm sang chăm sóc khách hàng, họ 
cần hệ thống tiêu chuẩn mới để đánh giá hiệu quả 
chiến lược. Đầu tiên, các công ty cần quan tâm nhiều 
hơn đến khả năng sinh lợi cho khách hàng thay vì lợi 
nhuận của sản phẩm. Các công ty bán lẻ cũng có lúc 
sử dụng khái niệm này, điển hình là với những sản 
phẩm “bán chạy nhưng lỗ”, các loại hàng hóa có thể 
không sinh lợi nhưng lại giúp thắt chặt quan hệ giữa 
công ty và khách hàng. 
Thứ hai, các công ty cần chú trọng hơn đến CLV thay 
vì chỉ quan tâm đến doanh số bán hàng. Một công ty 
trên đà suy thoái vẫn có doanh thu tốt, chỉ có điều 
triển vọng phát triển lại rất mờ mịt. Tiêu chuẩn CLV 
sẽ giúp đánh giá các khoản lợi nhuận tương lai được 
tạo ra từ một khách hàng và nó hoàn toàn phù hợp 
với phương pháp chiết khấu phản ánh thời giá của 
đồng tiền. Tiêu chuẩn này nhấn mạnh sức khỏe trong 
dài hạn của công ty, điều mà hầu hết cổ đông và các 
nhà đầu tư đều coi trọng. 
Hiện nay, rất nhiều công ty chỉ hướng đến thành công 
ngắn hạn mà mạo hiểm với hiệu quả hoạt động trong 
tương lai, tuy nhiên, xu hướng này sẽ thay đổi một 
khi các tiêu chuẩn hướng về khách hàng trong dài 
hạn trở thành phần không thể thiếu trong báo cáo tài 
chính. Và một điều này thành hiện thực, vai trò của 
các tiêu chuẩn hướng về khách hàng bắt đầu được 
phản ánh bằng giá cổ phiếu. Ngay lúc này đây, một 
số chuyên gia phân tích cấp tiến đã nhận thức được ý 
nghĩa của tỷ lệ giữ chân khách hàng, giá trị của khách 
hàng và tài sản thương hiệu. 
Thứ ba, các công ty cần chuyển trọng tâm từ tài sản 
thương hiệu (giá trị thương hiệu) sang tài sản khách 
hàng (tổng giá trị vòng đời khách hàng), giúp hoạt 
động marketing gần gũi với giá trị của cổ đông hơn. 
Thứ tư, các công ty dần bớt quan tâm đến thị phần để 
tập trung cho thị phần tài sản khách hàng (được tính 
bằng giá trị của cơ sở khách hàng của công ty chia 
cho tổng giá trị của khách hàng trong thị trường). Thị 
phần sẽ giới thiệu được cái nhìn tổng quan về khả 
năng cạnh tranh thể hiện qua doanh số bán hàng của 
công ty, còn thị phần tài sản khách hàng là một thước 
đo khả năng cạnh tranh và lợi nhuận của công ty 
trong dài hạn. 
Trước thực tế thông tin về khách hàng ngày càng 
quan trọng tùy theo cấp bậc, các công ty phải làm chủ 
được nhiều cấp độ thông tin khác nhau như cá nhân, 
phân khúc và tổng hợp. Các quyết định chiến lược 
khác nhau đòi hỏi nhiều mức độ thông tin khác nhau, 
vì thế, các công ty rất cần những nguồn thông tin đa 
dạng. 
Ở cấp độ cá nhân, tiêu chuẩn quan trọng nhất chính là 
CLV; những hoạt động marketing được theo dõi sát 
sao nhất chính là marketing trực tiếp; và các nguồn 
thông tin quan trọng chính là cơ sở khách hàng mà 
công ty tích lũy được. 
Ở cấp độ phân khúc, thước đo quan trọng nhất là giá 
trị vòng đời của phân khúc (giá trị vòng đời trung 
bình của khách hàng nhân với số khách hàng có trong 
phân khúc); những hoạt động marketing được theo 
dõi sát sao nhất là các nỗ lực hướng đến mỗi phân 
khúc khách hàng riêng biệt, thường là các phương 
tiện truyền thông “ngách”; và nguồn thông tin chính 
xuất phát từ kênh khách hàng và dữ liệu khảo sát. 
Ở cấp độ thị trường tổng hợp, tiêu chuẩn quan trọng 
chính là tài sản khách hàng; những hoạt động 
marketing được theo dõi kỹ nhất là các nỗ lực 
maketing đại chúng, thường thông qua các phương 
tiện truyền thông đại chúng; và những nguồn thông 
tin quan trọng chính là dữ liệu kinh doanh và khảo sát 
tổng hợp. 
Chúng ta sẽ thấy các công ty trong tương lai sở hữu 
cả một danh mục đầu tư cho hệ thống thông tin. 
Rõ ràng các công ty cần hệ thống các tiêu chuẩn đánh 
giá tiến độ thu thập và sử dụng thông tin khách hàng. 
Tần suất các nhà quản lý đóng góp và truy cập kho 
thông tin khách hàng cũng là một tiêu chuẩn tổng 
quát cần thiết dù nó không thể hiện được chất lượng 
của thông tin. Để khắc phục điều này, một số công ty 
xây dựng cơ chế cho phép nhân viên đánh giá giá trị 
của những thông tin đóng góp về khách hàng. 
Cũng giống như bất kỳ biến chuyển nào khác trong tổ 
chức, thay đổi một công ty mang định hướng sản 
phẩm thành hoàn toàn định hướng khách hàng là một 
việc làm hết sức khó khăn: bộ phận IT sẽ vẫn muốn 
cáng đáng chức năng CRM; bộ phận R&D sẽ đấu 
tranh để bảo vệ quyền của mình; và quan trọng nhất, 
những giám đốc marketing truyền thống sẽ ra sức bảo 
vệ “nồi cơm” của mình. 
Bởi lẽ để thay đổi cần phải vượt qua những lợi ích 
cực đoan chứ không diễn ra một cách êm đềm nên 
quá trình này phải được thực hiện ngay từ cấp lãnh 
đạo cao nhất. Dù khó khăn nhưng quá trình này 
không tránh khỏi và đó là cách thức cạnh tranh duy 
nhất có lợi có khách hàng. 
(Bài viết của các tác giả Roland T. Rust, Christine 
Moorman và Gaurav Bhalla trên Harvard Business 
Review – Hoàng Đăng – Tuần Việt Nam dịch) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 30_837.pdf 30_837.pdf