Xây dựng một xã hội công bằng văn minh tiến bộ cùng với cuộc sống ấm no 
hạnh phúc là một mong muốn lớn lao của con người từ khi chúng ta bắt đầu 
có được nhận thức và sống trong một cộng đồng xã hội. Quá trình hình thành 
tư tưởng nhà nước pháp quyền dần dân được hình thành và phát triễn ngày 
càng rõ ràng và trở thành một hiện thực sống động ở các nước phát triễn tiên 
tiến của thế giới nhằm đưa con người đạt được những khát vọng hoài bão về 
xã hội như thế.
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Tư tưởng Nhà nước pháp quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền 
Xây dựng một xã hội công bằng văn minh tiến bộ cùng với cuộc sống ấm no 
hạnh phúc là một mong muốn lớn lao của con người từ khi chúng ta bắt đầu 
có được nhận thức và sống trong một cộng đồng xã hội. Quá trình hình thành 
tư tưởng nhà nước pháp quyền dần dân được hình thành và phát triễn ngày 
càng rõ ràng và trở thành một hiện thực sống động ở các nước phát triễn tiên 
tiến của thế giới nhằm đưa con người đạt được những khát vọng hoài bão về 
xã hội như thế. 
Ở Việt Nam ta, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đã được chủ tịch Hồ Chí 
Minh đặt ra ngay từ khi trong quá trình đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. 
Từ 1919, trong bản yêu sách tám điểm gửi Hội nghị Versailles đòi các quyền tự 
do, dân chủ cho nhân dân VN, Nguyễn Ái Quốc nêu những điều liên quan đến 
pháp quyền, đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi 
bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. 
“Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” 
Từ đó đến nay chủ trương của Đảng và Nhà nước ta xây dựng một nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân được quán triệt và liên tục. Do đó 
việc nghiên cứu tư tưởng hình thành và các vấn đề của nhà nước pháp quyền để 
hiểu rõ hơn tại sao cần phải xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, hiện 
trạng của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, các tiền đề để 
xây dựng được nhà nước pháp quyền Việt Nam và các giải pháp đường hướng 
theo đuổi để giải quyết những khó khăn trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền 
Việt Nam 
1. Đầu tiên cần phải tìm hiểu trong lịch sử các học thuyết tư tưởng chính trị pháp 
luật thì nhà nước pháp quyền hình thành tử khi nào, tư tưởng nhà nước pháp quyền 
từ đó đến nay phát triễn ra sao? 
Các nhà tư tưởng thời kỳ này là Solon (640-558 TCN), ông là người đầu tiên sáng 
lập dân chủ Hy Lạp cổ đại, chủ trương cải cách nhà nước bằng việc đề cao vai trò 
của pháp luật, kết hợp sức mạnh (quyền lực nhà nước) với pháp luật để giải phóng 
con người. 
Cụ thể ông ban hành các sắc lệnh xóa bỏ mọi nợ nần trong xã hội, thừa nhận 
quyền tư hữu tài sản, hạn chế quyền lợi của giai cấp quí tộc chủ nô như biến nông 
dân phá sản thành nô lệ, qui định hạn mức chiếm hữu tối đa... 
Heraclitus (520-460 TCN) - nhà triết học biện chứng Hy Lạp cho rằng pháp luật là 
phương tiện chống lại cực quyền, cho nên nhân dân phải đấu tranh bảo vệ pháp 
luật giống như bảo vệ nhà của mình. 
Socrate (469-399TCN) : Quan niệm về công lý trong sự tuân thủ pháp luật như sau 
Xã hội không thể vững mạnh nếu các pháp luật hiện hành không được tuân thủ,và 
ngược lại giá trị của công lý (pháp luật) chỉ có được trong sự tôn trọng pháp luật. 
Platon (427-374 TCN): Học trò của Socrate, một trong nhà tư tưởng vĩ đại thời sơ 
cổ, cũng như toàn bộ lịch sử triết học, với các ý tưởng tiến bộ về tinh thần thượng 
tôn pháp luật phải xuất phát từ phía nhà nước, một nhà nước sẽ diệt vong nếu pháp 
luật không được tôn trọng. 
Aristotle 384-322 TCN, học trò của Platon, người đã trực tiếp phát triễn và làm 
sâu sắc hơn các quan điểm chính trị pháp luật của thầy mình. Ông quan niệm phải 
có sự phù hợp giữa chính trị và pháp luật, đề cao pháp luật phải gắn với cơ chế, hệ 
thống các cơ quan quyền lực nhà nước 
Xixeron (106-43 TCN) nhà luật học nhà hùng biện tài năng, đưa ra quan niệm 
công chức nhà nước phải có trình độ nhất định khả năng nhất định như phải có tài 
hùng biện, sáng suốt và công bằng, hiểu biết về pháp luật, và luật phải phải công 
bằng và phù hợp với quyền tự nhiên, đặc biệt ông nêu lên nguyên tắc có tính bắt 
buộc về tính tối cao của pháp luật, không ai được đứng trên luật. 
Những ý tưởng, quan niệm của các nhà tư tưởng thời kỳ cổ đại tuy đã nêu ra 
những góc độ khác nhau về vai trò của pháp luật nhưng tựu trung có tập trung 2 
nội dung cốt lõi sau 
1. Cổ vũ cho sự đề cao pháp luật 
2. Xây dựng nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật công bằng. 
Những nội dung này là tiền đề cho sự phát triễn của tư tưởng nhà nước pháp 
quyền thế kỷ 17, góp phần định hình và sâu sắc hơn học thuyết về tính tối cao của 
pháp luật, cơ chế phân chia quyền lực nhà nước, và nhà nước pháp quyền nói 
chung. 
Tuy nhiên, tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ này còn nhiều hạn chế, chưa 
toàn diện và chưa đủ cơ sở lí luận khoa học để chứng minh & thuyết phục. 
Tuy nhiên cho đến tận thế kỷ 17-19, trước sự suy tàn của chế độ phong kiến quân 
chủ chuyên chế tàn bạo, độc tài, châu âu ra khỏi đêm trường trung cổ, bắt đầu vào 
thời kỳ phục hưng, các tư tưởng và quan điểm của nhân loại tiến bộ về nhà nước 
pháp quyền được tiếp tục phát triễn và dần dần hình thành một cách rõ ràng và dứt 
khoát trong các học thuyết chính trị pháp luật 
Sau đây ta xem xét những học giả tiêu biểu trong gia đoạn này về tư tưởng nhà 
nước pháp quyền. 
John Locke (1632 – 1704) 
Ông quan niệm rằng các quyền của con người gồm (quyền tự do, bình đằng và 
quyền tư hữu) là các quyền tự nhiên và không thể bị tước đoạt. Nhà nước ra đời là 
để bảo vệ các quyền con người, bảo vệ pháp luật và không được xâm phạm đến 
chúng. Từ đó, luận chứng cho thấy sự cần thiết của pháp luật, và pháp chế, ông 
cho rằng ở đâu không có pháp luật thì ở đó không có tự do vì pháp luật là công cụ 
cơ bản bảo vệ và mở rộng quyền tự nhiên của con người. 
Đồng thời ông khẳng định chủ quyền thuộc về nhân dân, việc điều hành nhà nước 
phải dựa trên các đạo luật do nhân dân tuyên bố và hiểu rõ về chúng. Ông cũng 
cho rằng mối nguy hiểm chính của việc tùy tiện và xâm hại đến các quyền của con 
người & pháp luật xuất phát từ những đặc quyền của những người cầm quyền lực 
nhà nước. Do đó, trong nhà nước, không một người nào được nắm toàn bộ quyền 
lực nhà nước và tránh sự phục tùng pháp luật. 
Các quan điểm tiến bộ và nhân đạo của ông là đóng góp to lớn cho nhân loại, nó 
không những tiếp tục phát triễn mà còn thể hiện trong Tuyên ngôn nhân quyền của 
Liên Hiệp Quốc ngày 10/12/1948 và các văn bản pháp luật quốc tế khác về quyền 
con người. Nó cũng là hiện thực khách quan sinh động nhất trong các nhà nước 
pháp quyền phát triễn trên thế giới, về chủ quyền của nhân dân, sự phân công 
quyền lực, bảo vệ các quyền và tự do của công dân 
Montesquieu (1698 -1755) 
một nhà luật học lỗi lạc, một trong những đại diên xuất sắc của trào lưu khai sáng 
thế kỷ 18 của Pháp, tác giả của "Tinh thần pháp luật - 1748). 
Ông đã khẳng định rằng không bao giờ có pháp luật trong chế độ chuyên chế, nếu 
có đi nữa thì không có ý nghĩa gì thực thế cả, vì cũng không có các chế định nào 
để bảo vệ pháp luật. 
Qua đó cho thấy sự cần thiết của pháp chế và tinh thần thượng tôn pháp luật, tuân 
thủ nghiêm chỉnh pháp luật, sự kìm hãm và đối trọng của ba nhánh quyền lực nhà 
nước vì lợi ích chung của toàn xã hội và nhân dân. 
Tầm quan trọng của việc đảm bảo tự do chính trị và quyền công dân khỏi tình 
trạng lạm dụng quyền lực, tình trạng vô pháp luật, tùy tiện từ các quan chức nhà 
nước như sau: Nếu quyền tư pháp nhập với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc 
đoán,… quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền 
hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người, một tổ 
chức hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên 
thì tất cả sẽ mất hết. 
Thuyết tam quyền phân lập, hay phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và 
tư pháp làm cho chúng có tính độc lập và kiềm chế lẫn nhau. Nhằm mục đích lớn 
nhất đảm bảo không ai có quyền đứng trên pháp luật, đảm bảo tính thượng tôn 
pháp luật, cũng như đảm bảo chủ quyền thuộc về nhân dân một cách toàn vẹn 
nhất. 
I. Kant (1724-1804) 
Nhà triết hoc nổi tiếng người Đức với luận chứng về những cơ sở triết học cho học 
thuyết về NNPQ. Ông cho rằng lý trí thực tế, hoặc ý chí tự do của mỗi cá nhân 
chính là nguồn gốc của các đạo luật có tính pháp quyền và đạo đức, pháp luật để 
bảo đảm các quan hệ văn minh giữa mọi người. 
Nhà nước là sự hợp nhất của nhiều người biết phục tùng các đạo luật có tính pháp 
quyền nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và được xây dựng trên các nguyên tắc chủ 
quyền, bản thân nhà nước trong toàn bộ hoạt động của mình phải dựa trên pháp 
luật, nếu không nó sẽ bị mất sự tín nhiệm của các công dân - những người đã hợp 
thành nó. 
Kant căn cứ vào sự tồn tại hay không chế định phân công quyền lực : lập pháp, 
hành pháp và tư pháp để phân biệt hai hình thức cầm quyền : nhà nước pháp quyền 
và nhà nước độc tài. Ông cho rằng sự phối hợp và điều hòa của ba nhánh quyền 
lực này có khả năng ngăn ngừa được chế độ chuyên chế và bảo đảm sự phồn thịnh 
của nhà nước. Chủ quyền của nhân dân chỉ có thể được thể hiện trên thực tế thông 
qua sự phân công quyền lực là nguyên tắc nước quan trọng nhất. 
Friedrich Hegel (1770 - 1831) 
Hegel nhà triết học tư tưởng thiên tài người Đực với tác phẩm nổi tiếng "triết học 
pháp quyền". Trong đó bằng các quan điểm tiến bộ, ông đã luận chứng cho rằng 
bằng cấu trúc của nhà nước pháp quyền kết hợp với xã hội công dân, trật tự pháp 
luật & và các đạo luật có tính pháp quyền sẽ chống lại nhà nước cực quyền, xã hội 
khép kín, bộ máy quyền lực chính trị quan liêu & hệ thống pháp luật có tính tùy 
tiện, mệnh lệnh. 
Thomas Jefferson (1743–1826) 
Tổng thống thứ 3 của Hợp chúng quốc Hoa Kì, người sáng lập ra Đảng Dân chủ–
Cộng hòa Hoa Kỳ (Democratic-Republican Party: Republican) , và là một trong 
những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành lớn nhất thời cận đại. Tác giả của 
Tuyên ngôn Độc lập, Đạo luật Tự do Tín ngưỡng của Virginia và người sáng lập 
nên Trường Đại học Tổng hợp Virginia. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước 
ta ngày 2 tháng Chín năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn những lời nói 
thật bất hủ của bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ do Thomas Jefferson viết "Tất cả 
mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền 
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, 
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". 
Thành công của Hiến pháp Mỹ đó là bản Hiến pháp này đã tạo ra đồng thời hai cơ 
chế giám sát hữu hiệu, đó là sự giám sát bên trong, tức là cơ chế kiểm soát và cân 
bằng quyền lực (check and balance) giữa các cơ quan Nhà nước, và sự giám sát 
bên ngoài chính là xã hội dân sự (civil society) với đầy đủ những quyền năng được 
Hiến pháp bảo vệ. Thiết chế này có khả năng phản biện các chính sách, buộc Nhà 
nước phải tuân thủ Hiến pháp, cùng thúc đẩy xã hội phát triển. 
Bản Hiến pháp thành văn đầu tiên trong lịch sử nhân loại và cũng là bản Hiến 
pháp tồn tại lâu nhất cho đến nay trên thế giới. Đồng thời bản hiến pháp này cũng 
ghi nhận các tư tưởng quan điểm tiến bộ về nhà nước pháp quyền lần đầu tiên trở 
thành một hiện thực khách quan sống động nhất, tạo tiền đề cho tư tưởng và quan 
điểm về nhà nước pháp quyền ngày càng được củng cố, tiến bộ và phát triễn. 
Kết luận cho lịch sử học thuyết nhà nước pháp quyền 
Các lý tưởng, quan điểm đầu tiên của nhân loại tiến bộ về NNPQ đã xuất hiện 
trước tiên chỉ xuất hiện với tính chất là khát vọng ước mơ và lý tưởng về các giá 
trị xã hội cao quý (công bằng và bác ái, nhân đạo và tình thương, dân chủ và tự do, 
pháp luật và pháp chế) thực tế có cội nguồn hình thành và phát triễn từ hàng nghìn 
năm qua trên những chặng đường tìm kiếm những phương tiện và phương pháp để 
nhằm đạt tới những giá trị xã hội cao quý ấy. 
Dần dần theo chiều dài lịch sử và thời gian, cho đến hôm nay, với bản chất tiến bộ, 
nhân đạo và dân chủ thì nhà nước pháp quyền không những chỉ là học thuyết trong 
khoa học pháp lý tiên tiến của nhân loại mà còn là hiện thực sống động ở các nước 
văn minh, tiến bộ và phát triễn trên thế giới 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 140_6806.pdf 140_6806.pdf