Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 8
UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG DI CĂN GAN 
Nguyễn Cao Cương*, Võ Ngọc Bích* 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chẩn đoán hình ảnh học 
 UTĐTT di căn gan có bệnh cảnh lâm sàng 
thay đổi có thể không có triệu chứng và phát 
hiện đồng thời trong lúc chẩn đoán UTĐTT hay 
trong thời gian tái khám định kỳ sau mổ bằng 
hình ảnh học và CEA. Hoặc BN có triệu chứng 
đau ¼ bụng trên (P) hay bệnh cảnh suy gan, 
vàng da, hay nổi u trên gan. 
Xét nghiệm sinh hóa cho thấy có thay đổi 
công thức máu, chức năng gan, chất chỉ điểm 
ung thư CEA tăng. 
Các phương tiện hình ảnh học thông dụng 
để chẩn đoán di căn gan là siêu âm, CT scan, 
MRI và PET với độ nhạy tương ứng là 55%, 72%, 
76%, và 90% theo phân tích của Kinkel K(11). 
Hình 1. Siêu âm di căn gan Hình 2. CT scan di căn gan rải rác 
Xếp loại giai đoạn: (SCTB: sống còn toàn 
bộ) 
Giai đoạn Diễn giải Dukes - MAC SCTB 5 năm 
0 TisN0M0 
I T1N0M0 – T2N0M0 Dukes A 
MAC : A–B1 
80-95% 
IIA T3N0M0 Dukes B 
MAC B2–B3 
50-90% 
IIB T4N0M0 
IIIA T1-2N1M0 Dukes C 
MAC C1–C3 
55 – 60% 
IIIB T3-4N1M0 33 – 42% 
IIIC Bất kỳ T, N2, M0 25 – 27% 
IV Bất kỳ T, bất kỳ N, 
M1 
Dukes D <5% 
ĐIỀU TRỊ UTĐTT DI CĂN GAN 
Điều trị phẫu thuật 
 Phẫu thuật có vai trò rất quan trọng và chỉ 
định phẫu thuật cắt bỏ di căn gan đang được mở 
rộng, dẫn đến tỉ lệ sống toàn bộ 5 năm từ 24-
58%, trung bình là 40% (1). 
Lựa chọn bệnh nhân cắt gan 
Tiêu chuẩn không mổ được chấp nhận 
chung cho tới nay bao gồm: 
Có các di căn ngoài gan không chữa được. 
Thể trạng bệnh nhân không chịu được phẫu 
thuật. 
Di căn trên 70% thể tích gan hay 6 hạ phân 
thùy. 
Các yếu tố cân nhắc phẫu thuật bao gồm: 
kích thước bướu, tính đa ổ, vị trí bướu, phần gan 
còn lại sau cắt không đủ duy trì chức năng. 
Kích thước khối u 
Minagawa với 235 BN cắt bỏ di căn gan từ 
UTĐTT, đường kính khối u tối đa không ảnh 
hưởng đến thời gian sống còn. Hamady(8) cắt bỏ 
di căn gan với đường kính từ 8 cm trở lên thì tỉ lệ 
sống còn có thể so sánh như bệnh nhân có di căn 
nhỏ hơn. Như vậy, đường kính khối u lớn hơn 
* Khoa Tổng quát 2 – chuyên khoa Gan mật - Bệnh Viện Bình Dân 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Cao Cương ĐT: 0909275886 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Tổng Quan 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 9
5cm không phải là một chống chỉ định cắt gan. 
Số lượng u di căn 
 Trong một nghiên cứu trên 159 bệnh nhân 
được hóa trị trước khi cắt bỏ từ 4 u trở lên, thì tỉ 
lệ sống còn 5 năm là 51%(13). Theo Kokudo thời 
gian sống còn của BN có hơn 4 u di căn cũng 
tương tự như có ít di căn hơn. Như vậy, di căn 
đa ổ không phải là chống chỉ định cắt gan. 
Giới hạn bờ mặt cắt 
Tiêu chuẩn diện cắt an toàn trước đây phải 
cách bờ khối u tối thiểu 10mm. Hiện nay không 
có sự khác biệt về tỉ lệ sống còn 5 năm hay tái 
phát tại chỗ đối với diện cắt âm tính khảo sát ở 
khoảng cách 1, 4, 5, 9, 10mm. 
Di căn gan kèm di căn phổi 
BN được xem xét để cắt bỏ phổi đi kèm. Di 
căn gan thường được cắt bỏ đầu tiên để đảm bảo 
không có di căn nào khác trong ổ bụng. Tỉ lệ 
sống còn 3 năm có thể 30% (7). 
Di căn ngoài gan 
Chống chỉ định kinh điển là có di căn ngoài 
gan như buồng trứng, di căn hạch, di căn phúc 
mạc, những báo cáo mới cho thấy những di căn 
ngoài gan có thể được cắt bỏ kết hợp và sống còn 
kéo dài thêm. Theo Jaeck 2002 mặc dù có rất ít 
người sống sót đến 5 năm, 19% bệnh nhân sống 
sót sau 3 năm, bất chấp sự hiện diện của di căn 
hạch trong ổ bụng. Tuy nhiên với các hạch di căn 
dọc động mạch thân tạng và hạch xa thì sống 5 
năm gần như là 0%. Do đó, khi có nhiều di căn 
ngoài gan cũng cần cân nhắc lựa chọn phẫu 
thuật để đạt được sự tồn tại kéo dài. 
Thể tích gan còn lại và chiến lược để tăng khả 
năng cắt gan 
Thể tích gan còn lại(6) 
Yếu tố quyết định là thể tích gan còn lại để 
tránh suy gan sau mổ. 
Thể tích gan toàn bộ của một người trưởng 
thành (TELV): 
TELV = - 794,41 + 1267,28 x diện tích da 
(với diện tích da trung bình khoảng 1.5 m2) 
Thể tích gan còn lại (FLR) được đo trên CT. 
Tỷ số giữa FLR và TELV được gọi là sFLR. 
Gan bình thường : sFLR ≥ 20% 
Gan xơ, viêm gan : sFLR 40 - 60% 
Hóa trị trước cắt gan : sFLR ≥ 30% 
Chiến lược để tăng khả năng cắt gan 
Khi sFLR thấp là một trở ngại duy nhất 
không thể cắt bỏ di căn gan, để tăng khả năng 
cắt gan bằng thuyên tắc tĩnh mạch cửa (PVE) 
làm tăng thể tích bên gan còn lại. 
Qua siêu âm, chọc vào tĩnh mạch cửa, làm 
tắc tĩnh mạch cửa bằng vi hạt và vi coil. 
Phẫu thuật trong thời điều trị đa mô thức 
Các trường hợp UTĐTT di căn gan đánh giá 
không mổ cắt u di căn gan được có thể chuyển 
thành mổ được nhờ vào phương pháp hóa trị 
dẫn đầu, PVE hoặc RFA. 
Hóa trị tân hỗ trợ cho những trường hợp 
ban đầu không thể cắt bỏ di căn gan 
Điều trị hóa trị tân hỗ trợ với oxaliplatin hoặc 
irinotecan giúp cắt bỏ di căn gan trong 13-37% 
TH(2). Theo Adam(2) 12,5% BN ban đầu không cắt 
bỏ được đã có một đáp ứng tốt với hóa trị tân hỗ 
trợ và đã trải qua phẫu thuật cắt gan, bao gồm 
hơn 3 nốt di căn trong 59% bệnh nhân, di căn 
ngoài gan trong 38%, đã đạt sống còn 5 năm là 
33% so với 48% ban đầu cắt bỏ đồng thời. 
Hóa trị liệu không chỉ thu hẹp, giảm giai 
đoạn, mà còn là điều trị di căn gan sớm dưới 
dạng vi thể. Nhóm Adam chứng minh rằng sự 
sống còn 5 năm sau phẫu thuật trên những u 
không đáp ứng với hóa trị chỉ có 8% so với 37% 
ở những u có đáp ứng với hóa trị. 
Hóa trị toàn thân cho các bệnh ban đầu có thể 
cắt bỏ 
 Năm 2007, theo kết quả của Tổ chức Châu 
Âu về nghiên cứu và điều trị ung thư, đã nghiên 
cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối 
chứng ở pha III trên 40.983 trường hợp, nhóm 
BN được cắt bỏ di căn gan mà không dùng hóa 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 10
trị so sánh với nhóm có hóa trị chu phẫu với 
FOLFOX4 qua 6 chu kỳ, kết quả như sau: 
 Trong 182 BN tham gia hóa trị: 43,9% đáp 
ứng một phần hoặc rất tốt với FOLFOX4, 35,2% 
bệnh ổn định không thay đổi, và 6,8% không 
đáp ứng với hóa trị bệnh tiến triển không thể cắt 
bỏ di căn gan. Trong 171 BN đủ điều kiện hóa trị 
có 83% đã trải qua cắt bỏ di căn gan. Sau một 
thời gian theo dõi 3,9 năm, BN được hóa trị liệu 
đã có một chu phẫu tốt hơn đáng kể, tỉ lệ sống 3 
năm là 36% so với 28% BN trải qua phẫu thuật 
không có hóa trị chu phẫu. Sự khác biệt rõ rệt 
hơn ở những BN có trải qua phẫu thuật cắt 
gan với kết quả 3 năm không có u tái phát: 
42% có hóa trị hỗ trợ so với 33% chỉ phẫu 
thuật đơn thuần. 
Ảnh hưởng của hóa trị liệu với cắt gan 
Hóa trị liệu chu phẫu góp phần đáng kể cải 
thiện thời gian sống còn và tăng khả năng cắt bỏ 
được di căn gan. Tuy nhiên, hóa trị liệu gây ra 
nhiễm độc gan từ đó liên quan đến thời gian 
điều trị và tăng những biến chứng sau mổ. 
 Vauthey chỉ ra rằng Oxaliplatin có liên quan 
tới giãn xoang gan với tỉ lệ 18,9% so với 1,9% 
bệnh nhân không hóa trị. Irinotecan thì liên quan 
đến viêm gan nhiễm mỡ: 20,2% so với 4,4% 
không hóa trị. Viêm gan nhiễm mỡ là một tổn 
thương gan đáng kể, có liên quan đến tỉ lệ mắc 
bệnh và tử vong chu phẫu vì khả năng tái tạo 
gan thứ cấp không đủ là do các thành phần viêm 
của bệnh. 
Cắt gan 2 thì 
Nếu không thể cắt bỏ đồng thời di căn gan 
và u đại trực tràng nguyên phát thì có hai giai 
đoạn cắt gan. Trung tâm Nghiên cứu Ung thư 
tại Mỹ đã đề xuất phương pháp điều trị tuần 
tự tích cực: 
Đầu tiên hóa trị tân hỗ trợ, nếu đáp ứng hoặc 
duy trì ổn định trên hóa trị, tức là làm giảm giai 
đoạn, thì tiếp theo là phẫu thuật cắt di căn gan 
được thực hiện tiếp theo sau đó. 
Hoặc làm tăng thể tích gan bên còn lại với 
PVE, sau đó cắt gan. 
Hoặc với RFA để tăng khả năng cắt gan, sau 
đó cắt gan. 
Hình 3: Đáp ứng với hóa trị trước phẫu thuật (5FU + Bevacizumab) A Nốt u di căn 3.4cm ở phân thùy III. B: 
Phản ứng một phần với hóa trị, kích thước u còn 1.5cm. C: Giải phẫu bệnh sau mổ: cho thấy chỉ có 1% tế bào ung 
thư tồn tại trong một nền xơ hóa mở rộng, hoại tử, và các tế bào viêm.Nguồn (6) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Tổng Quan 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 11
Hình 4 : Hóa trị chu phẫu và cắt gan 2 thì. Nguồn(6) 
Trên phim CT có hơn 2 u di căn gan. 
Đáp ứng với hóa trị 6 chu kỳ (5-FU, 
leucovorin, và oxaliplatin). Sau đó cắt bỏ di căn 
gan phân thùy II-III (mũi tên màu trắng). 
CT đo thể tích của FLR: (vùng màu trắng 
trong hình chữ nhật) sFLR trước và sau PVE là 
15% và 24%. 
Hóa trị hỗ trợ sau mổ, 6 tháng sau trên CT 
không có u tái phát. 
Phương pháp tiếp cận điều trị đa mô thức 
từng bước như vậy cho kết quả với tỉ lệ sống 
toàn bộ 3 năm và tỉ lệ sống không u tái phát lần 
lượt là 86% và 51%(4,9). 
Tóm lại hiện nay điều trị UTĐTT di căn gan 
đòi hỏi cách tiếp cận đa mô thức trong một nỗ 
lực nhằm tăng thời gian sống còn của bệnh nhân. 
Những thay đổi quan niệm về chỉ định phẫu 
thuật hiện nay(10): 
Những chỉ định kinh điển Quan điểm điều trị hiện tại 
< 4 di căn, đơn thùy. Không giới hạn. Di căn hai hay hơn nhiều thùy, sử dụng hóa trị chu phẫu, có thể 
điều trị xâm lấn tại chỗ truớc, cắt di căn gan sau.. 
Kích thước u ≤ 5 cm. Không giới hạn. 
Không có bệnh ngoài gan. Có kèm di căn phổi nếu có thể cắt được. 
Bờ phẫu thuật > 1cm. Không bắt buộc, diện cắt âm tính là được. 
Nhu mô gan còn lại phải đủ. PVE trước để tăng thể tích gan còn lại. 
Cắt tất cả các khối u đại thể nhìn thấy được. Không có bằng chứng của bệnh, có thể cắt được bằng việc cắt gan sau kết hợp 
với hủy u tại chỗ với RFA. 
Không phải là di căn gan thứ phát sau cắt 
UTĐTT. 
Di căn xuất hiện cùng lúc hoặc thứ phát đều được chấp nhận. 
Không xâm lấn tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch 
gan. 
Không giới hạn, có thể cắt bỏ và tái tạo tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch gan. 
Không có sự di căn hạch ở cuống gan. Khi không có sự di căn ở hạch thân tạng, nạo hạch cuống gan để làm tăng khả 
năng sống trong 3 năm. 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 12
Các phương pháp hủy u 
Chỉ có khoảng 10-25% bệnh nhân UTĐTT di 
căn gan đủ điều kiện để cắt gan. Di căn gan 
không điều trị thời gian sống trung bình từ 5-9 
tháng. Vì thế với mục đích duy nhất là giải quyết 
được di căn gan, nhiều phương pháp can thiệp 
xâm lấn tại chổ để phá hủy u bằng sóng cao tần 
(RFA), bằng tiêm cồn qua da (PEI), xạ trị khối u 
di căn gan. 
Hủy u bằng sóng cao tần (RFA) 
Nguyên lý (5) 
Sử dụng nhiệt sinh ra bởi tần số cao của 
dòng điện xoay chiều để tiêu diệt tế bào. Dưới 
hướng dẫn của siêu âm, hoặc CT hay MRI, một 
đầu điện cực mỏng cách điện được đưa xuyên 
gan qua da vào khối u, hoặc đưa trực tiếp đến 
nhu mô gan dưới hướng dẫn của siêu âm trong 
lúc mổ. 
Hình 5: Hai loại điện cực dùng trong RFA(7) 
Khối u bị tiêu hủy bởi nhiệt kèm theo một 
vùng rộng 1cm mô gan bình thường quanh u. 
Tuy nhiên, nhiệt độ giảm tương ứng với bình 
phương khoảng cách từ điện cực, cho nên cần rất 
nhiều kim đối với những u có kích thước lớn, 
vùng bị tiêu diệt phải đan xen để đảm bảo phá 
hủy hoàn toàn khối u. 
Hình 6: Sự phức tạp để hủy hoàn toàn khối u, các 
vùng bị đốt phải đan xen chồng chéo. Nguồn:(5) 
Chỉ định RFA 
Tổng trạng bệnh nhân không chịu nổi cuộc 
phẫu thuật. 
Giải phẫu học không thể cắt gan như u nằm 
giữa tĩnh mạch chủ dưới và lối vào của các tĩnh 
mạch lớn trong gan. 
Di căn tái phát sau cắt gan trước đó, việc cắt 
bỏ lần hai này được coi là không khả thi và 
không an toàn. 
Đôi khi vài trường hợp ngoại lệ, bệnh nhân 
có di căn ngoài gan như di căn phổi, di căn 
xương thì RFA được coi như dùng để giảm thiểu 
triệu chứng. 
Chống chỉ định 
 Trong một tuyên bố đồng thuận gồm Hiệp 
hội Gan-Mật-Tụy, Hội phẫu thuật đường tiêu 
hóa và Hiệp hội phẫu thuật Ung thư đã kết luận 
rằng “ những khối u có kích thước lớn hơn 3 cm 
có tỉ lệ tái phát tại chỗ rất cao và RFA không phải 
là chọn lựa tối ưu nhất”(10). 
Khối u ở gần rốn gan: vì có thể làm tổn 
thương đường mật lớn gây ra các biến chứng 
nghiêm trọng như huyết khối tĩnh mạch cửa, dò 
mật hay tụ dịch mật. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Tổng Quan 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 13
Biến chứng 
 RFA rất ít có biến chứng, biến chứng sớm 
thường gặp nhất là tràn dịch màng phổi có triệu 
chứng, áp xe gan, cổ trướng và xuất huyết nội, 
huyết khối tĩnh mạch cửa. Biến chứng muộn là 
dò mật và tụ dịch mật. Theo Curley nghiên cứu 
trên 608 bệnh nhân có khối u gan ác tính được 
điều trị bằng RFA thì tỉ lệ biến chứng dưới 7% và 
tỉ lệ tử vong là 0,5% . 
Kết quả và hạn chế 
RFA là phương pháp điều trị thay thế tạm bợ 
với tỉ lệ tái phát tại chỗ rất cao, nhất là các u có 
kích thước lớn. 
Tái phát tại chỗ 
Theo Solbiati(14): tái phát tại chỗ là 39% trong 
8 tháng, và 55% bệnh nhân cuối cùng đã có ít 
nhất một u tại chỗ tái phát. 
Livraghi: chọn bệnh nhân có 1-3 u, kích 
thước mỗi u dưới 4 cm. Hoại tử hoàn toàn được 
đánh giá bằng CT là 60%. 
Một số tác giả đã đề xuất RFA như một 
phương pháp thay thế cho phẫu thuật cắt bỏ u di 
căn gan. Một nghiên cứu của Oshowo được coi 
là bằng chứng về sự tương đương giữa RFA và 
cắt bỏ u: 25 bệnh nhân UTĐTT di căn gan đơn 
độc được điều trị bằng RFA, và kết quả của họ 
được so sánh với những người của 20 bệnh nhân 
được điều trị bằng phẫu thuật cắt gan; tỉ lệ sống 
3 năm là 55% cắt gan và 53% RFA, qua đó các tác 
giả kết luận rằng có thể so sánh tương đương 
giữa 2 nhóm. Tuy nhiên, tỉ lệ sống 3 năm chỉ có 
55% cho UTTT di căn gan một nốt đơn độc 
không thể được coi là chấp nhận được, vì đã có 
báo cáo nghiên cứu ở một quần thể rất lớn thì tỉ 
lệ này là 71% và trong thực tế, không có sống sót 
dài hạn nào được báo cáo trong nghiên cứu của 
Oshowo. 
Tóm lại, FRA được chỉ định trong trường hợp 
không thể phẫu thuật cắt di căn gan. RFA chỉ có 
thể cung cấp một sự cải thiện thời gian sống còn 
cao hơn so với việc chỉ dùng hóa trị liệu. 
Hình 7: Hủy u di căn gan tái phát bằng RFA(5) Hình 
bên trái: CT cho thấy u di căn gan tái phát phân 
thùy VIII, sau đó được chỉ định làm RFA. Hình 
bên phải: sau 31 tháng theo dõi không có hình ảnh 
của u tái phát. 
Hủy u bằng cách tiêm cồn qua da vào khối u 
(PEI) 
PEI đầu tiên được dùng để điều trị cho các 
khối ung thư tế bào gan nguyên phát không còn 
khả năng cắt bỏ, trước cả khi có sự xuất hiện của 
RFA, PEI được chỉ định những u có kích thước 
từ 2-3cm. Nhiều nghiên cứu đã báo cáo hoại tử 
khối u hoàn toàn chỉ có 36-80% các trường hợp. 
Hủy u bằng xạ trị 
Gồm có xạ trị ngoài và xạ trị trong(5): 
Xạ trị ngoài (EBRT) 
Dùng kỹ thuật, lập kế hoạch điều trị trúng 
mô đích ba hay bốn chiều (có kiểm soát hô hấp) 
trên những bệnh nhân chọn lọc, do đó liều xạ có 
thể được phân bố tới những khu vực mà kỹ 
thuật RFA không thể với tới như khu vực rốn 
gan, không có nguy cơ gây tổn thương nặng nề 
đường mật. Hạn chế của xạ trị ngoài: 
Viêm gan do xạ trị: là một hội chứng lâm 
sàng viêm gan không vàng da, đau, cổ chướng, 
tăng men gan. 
Liên quan đến trường chiếu xạ trị: phù niêm 
mạc ống tiêu hóa, phổi. 
Xạ trị trong chọn lọc (SIRT) 
Được FDA chấp thuận cho các trường hợp 
UTĐTT di căn gan không còn mổ được nhưng 
chỉ được thực hiện hạn chế tại vài trung tâm lớn 
của Mỹ. SIRT sử dụng hạt nhựa hình cầu được 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2014 14
tâm đồng vị phóng xạ Yttrium-90 (90Y) bơm trực 
tiếp vào tuần hoàn động mạch gan. SIRT kiểm 
soát bướu tại chỗ với độc tính thấp, nhưng vẫn 
còn đang được nghiên cứu. 
Hóa trị liệu trong UTĐTT di căn gan 
Liệu pháp hóa trị trên bệnh nhân UTĐTT 
di căn gan không phẫu thuật được chỉ có tác 
dụng kéo dài cuộc sống, hoàn toàn không 
mang tính điều trị, các phác đồ hóa trị hiện tại 
có thể đạt thời gian sống còn gần 2 năm(14). 
Phác đồ hiện nay dùng cho các trường hợp 
UTĐTT đã tiến xa(12): 
FOLFOX (Leucovorin + 5-FU) chu kỳ 14 
ngày. 
CAPOX (Capecitabine + Oxiplatine) chu kỳ 
21 ngày. 
FOLFOXIRI (Oxaliplatine + Leucovorin + 
Irinotecan + 5-FU) chu kỳ 14 ngày. 
FOLFIRI (Leucovorin + Irinotecan + 5-FU) 
chu kỳ 21 ngày. 
FOLFOX + Bevacizumab : chu kỳ 14 ngày. 
XELOX + BEVACIZUMAB (Capecitabine + 
Oxiloplatine + Bevacizumab) chu kỳ 14 ngày. 
Fluorouracil-Leucovorin-Bevacizumab: chu 
kỳ 56 ngày. 
FOLFIRI + CETUXIMAB (KRAS wild type) 2 
chu kỳ. 
Cetuximab (KRAS wild type) 2 chu kỳ. 
FOLFIRI + CETUXIMAB (KRAS wild type) 2 
chu kỳ. 
KẾT LUẬN 
UTĐTT di căn gan là một diễn tiến UT 
thường gặp sau cắt ĐTT. Cần thiết sự phối hợp 
giữa BS phẫu thuật và BS ung thư học. Sau khi 
được hóa trị tối ưu, điều trị phẫu thuật cắt u là 
lựa chọn. Bên cạnh đó các phương pháp hỗ trợ 
như RFA, PEI, xạ trị Sự kết hợp các mô thức 
điều trị mang lại kết quả tốt là tăng thời gian 
sống còn và chất lượng sống của BN. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abdalla EK, Vauthey JN, Ellis LM, et al. (2004), “Recurrence and 
outcomes following hepatic resection, radiofrequency ablation, 
and combined resection/ablation for colorectal livermetastases”, 
Ann Surg, 239(6), pp.7-818. 
2. Adam R, Pascal G, Castaing D, et al.(2004),“Tumor progression 
while on chemotherapy: A contraindication to liver resection 
formultiple 
3. Bipat S, van Leeuwen MS, Comans EF et al.(2005), “Colorectal 
liver metastases: CT, MR imaging, and PET for diagnosis meta-
analysis”, Radiology, pp.123–13. 
4. Chun YS, Vauthey JN, Ribero D, et al.(2007),“Systemic 
chemotherapy and two-stage hepatectomy for extensive 
bilateral colorectal liver metastases: Perioperative safety and 
survival”, J Gastrointest Surg , 11(11), pp.505-1498. 
5. Dan G. Blazer III, Daniel A. Anaya, and Eddie K. Abdalla,(2009), 
“Destructive therapies for colorectal cancer metastases”, Liver 
metastases, pp.39-49. 
6. Dario Ribero, Yun Shin Chun, and Jean-Nicolas Vauthey, (2009), 
“Surgery for Colorectal Metastases”, Liver metastases, pp.25-38. 
7. De Haas RJ, Wicherts DA, Adam R,(2008),“ Resection of 
colorectal liver metastases with extrahepatic disease”, Dig Surg, 
(25), pp.461–466. 
8. Hamady ZZ, Malik HZ, Finch R, et al.(2006), “Hepatic resection 
for colorectal metastasis: Impact of tumour size”, Ann Surg 
Oncol , 13(11), pp.9-1493. 
9. Jaeck D, Oussoultzoglou E, Rosso E, et al.(2004), “A two-stage 
hepatectomy procedure combined with portal vein embolization 
to achieve curative resection for initially unresectable multiple 
and bilobar colorectal liver metastases”, Ann Surg , 240(6), 
pp.49-1037. 
10. Khatri VP, Petrelli NJ, Belghiti J,(2005), “Extending the frontiers 
of surgical therapy for hepatic colorectal metastases: is there a 
limit”, J Clin Oncol, pp.23-8490. 
11. Kinkel K, Lu Y, Both M et al.(2002), “Detection of hepatic 
metastases from cancers of the gastrointestinal tract by using 
non-invasive imaging methods (US, CT, MR Imaging, PET): a 
meta-analysis”, Radiology , pp. 224-748. 
12. NCCN Guidelines v2.2013 Colon rectal cancer tại 
www.nccn.org 
13. Pawlik TM, Abdalla EK, Ellis LM, et al.(2006), “ Debunking 
dogma: Surgery for four or more colorectal livermetastases is 
justified”, J Gastrointest Surg, 10(2), pp.8-240. 
14. Solbiati L, Livraghi T, Goldberg SN, et al. (2001), "Percutaneous 
radiofrequency ablation of hepatic metastases from colorectal 
cancer: long-term results in 117 patients", Radiology, 221(1), 
pp.66-159. 
Ngày nhận bài báo : 30/11/2013 
Ngày phản biện nhậnxét bài báo : 05/12/2013 
Ngày bài báo được đăng 20/2/2013