Sau đây là trích đoạn của bài viết về ung thư tiền liệt tuyến (prostate cancer) của 
bác sĩ Tôn Thất Hứa thuộc Đại Học Y Khoa Wuerzburg tại Đức. 
Xin lưu ý: Những tin tức về ung thư tiền liệt tuyến này được dùng với mục đích 
thông tin mà thôi và không thể thay thế ý kiến chuyên môn của bác sĩ điều trị. 
Hiệu quả của việc điều trị tùy thuộc vào mỗi trường hợp, tình trạng tâm lý, sức 
khoẻ của bệnh nhân và kinh nghiệm của bác sĩ. 
.Người đàn ông trên 50 tuổi thường bị bệnh bướu tiền liệt tuyến. Bướu, nói chung 
có 2 loại: 
1. Bướu hiền, do sự phì của tuyến - Prostata Adenom & benigne 
Prostatahyperplasie (BPH).
2. Bướu dữ, gây nên bởi sự phát triển tế bào ung thư - Prostata Krebs -Prostatacarcinom
[Nếu] phát hiện ung thư tiền liệt tuyến kịp thời, bệnh chưa di căn, và nhờ phương 
pháp giải phẫu cắt bỏ toàn bộ tiền liệt tuyến, túi hứng tinh và ống phóng tinh thì 
[cơ hội chữa lành] hẳn 100%. Đây là một trong những phẫu thuật lớn -đại phẫu -của ngành giải phẫu niếu đạo. [Nếu] phát hiện trễ hay khi bướu đã di căn đến 
xương, đến phổi thì [cơ hội chữa lành thấp hơn].
[Các] triệu chứng của bệnh ung thư tiền liệt tuyến như: són tiểu, đái rắt, đái đêm, 
đau buốt khi đi tiểu. là nguyên nhân để các ông phải đến bác sĩ chuyên khoa [để] 
khám về niếu đạo. Tuy nhiên điểm may mắn là người ta thường gặp bướu hiền 
của tiền liệt tuyền thường hơn là bướu dữ, căn bệnh ung thư.
Tuyến tiền liệt nằm sau bọc đái (bàng quang), lớn bằng trái cau, nặng 30 grams, 
bao quanh ống dẫn tiểu, tiết một chất dịch có vị ngọt, mầu trắng đục như sữa kích 
thích sự sống động của tinh trùng: tinh dịch. Nhiều thế hệ đã đi qua, đã bao nhiêu 
thời giờ đã hao tốn trong bấy nhiêu lần bàn cãi về mầm sinh ra bệnh của tiền liệt 
tuyến: bướu hiền hay bướu dữ để tìm hiểu có phải là hậu quả của tánh mạnh hoặc 
là yếu kém trong sự phát triển tình dục. Trình độ y học hiện tại chưa tìm được câu 
trả lời chính xác.
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Ung thư tiền liệt tuyến –prostate cancer, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ung Thư Tiền Liệt Tuyến – Prostate Cancer 
 Sau đây là trích đoạn của bài viết về ung thư tiền liệt tuyến (prostate cancer) của 
bác sĩ Tôn Thất Hứa thuộc Đại Học Y Khoa Wuerzburg tại Đức. 
Xin lưu ý: Những tin tức về ung thư tiền liệt tuyến này được dùng với mục đích 
thông tin mà thôi và không thể thay thế ý kiến chuyên môn của bác sĩ điều trị. 
Hiệu quả của việc điều trị tùy thuộc vào mỗi trường hợp, tình trạng tâm lý, sức 
khoẻ của bệnh nhân và kinh nghiệm của bác sĩ. 
...Người đàn ông trên 50 tuổi thường bị bệnh bướu tiền liệt tuyến. Bướu, nói chung 
có 2 loại: 
1. Bướu hiền, do sự phì của tuyến - Prostata Adenom & benigne 
Prostatahyperplasie (BPH). 
2. Bướu dữ, gây nên bởi sự phát triển tế bào ung thư - Prostata Krebs - 
Prostatacarcinom 
[Nếu] phát hiện ung thư tiền liệt tuyến kịp thời, bệnh chưa di căn, và nhờ phương 
pháp giải phẫu cắt bỏ toàn bộ tiền liệt tuyến, túi hứng tinh và ống phóng tinh thì 
[cơ hội chữa lành] hẳn 100%. Đây là một trong những phẫu thuật lớn - đại phẫu - 
của ngành giải phẫu niếu đạo. [Nếu] phát hiện trễ hay khi bướu đã di căn đến 
xương, đến phổi thì [cơ hội chữa lành thấp hơn]. 
[Các] triệu chứng của bệnh ung thư tiền liệt tuyến như: són tiểu, đái rắt, đái đêm, 
đau buốt khi đi tiểu... là nguyên nhân để các ông phải đến bác sĩ chuyên khoa [để] 
khám về niếu đạo. Tuy nhiên điểm may mắn là người ta thường gặp bướu hiền 
của tiền liệt tuyền thường hơn là bướu dữ, căn bệnh ung thư. 
Tuyến tiền liệt nằm sau bọc đái (bàng quang), lớn bằng trái cau, nặng 30 grams, 
bao quanh ống dẫn tiểu, tiết một chất dịch có vị ngọt, mầu trắng đục như sữa kích 
thích sự sống động của tinh trùng: tinh dịch. Nhiều thế hệ đã đi qua, đã bao nhiêu 
thời giờ đã hao tốn trong bấy nhiêu lần bàn cãi về mầm sinh ra bệnh của tiền liệt 
tuyến: bướu hiền hay bướu dữ để tìm hiểu có phải là hậu quả của tánh mạnh hoặc 
là yếu kém trong sự phát triển tình dục. Trình độ y học hiện tại chưa tìm được câu 
trả lời chính xác. 
Theo con số thống kê hàng năm về số người đàn ông chết vì bệnh ung thư trên thế 
giới, thì số tử vong do ung thư tiền liệt tuyến gây ra tại Hoa Kỳ và Âu Châu và các 
nước kỹ nghệ được xếp vào hàng đầu. Mỗi năm trong nước Đức có thêm 168,000 
người đàn ông mắc bệnh ung thư, trong đó có 31,600 [trường hợp] mắc bệnh ung 
thư tiền liệt tuyến, chiếm vị trí số một (18.8%); kế đến là 27,900 trường hợp ung 
thư phổi (16.6%); tiếp theo là 24,600 trường hợp ung thư ruột già (14.6%). Và 
mặc dù không phải trả tiền thù lao và tổn phí khám nghiệm, chỉ có 11% người đàn 
ông trên 45 tuổi tại nước Đức tự nguyện đi đến phòng mạch để truy tầm ung thư 
tiền liệt tuyến theo thống kê của tất cả các hãng bảo hiểm sức khoẻ. Tại Hoa Kỳ 
thì theo con số thống kê vào năm 1999 có thêm 179,300 trường hợp ung thư tiền 
liệt tuyến và số tử vong do bệnh này gây ra là 37,000 người. 
NHỮNG CÁCH TRUY TẦM BỆNH: 
Sau phần khám nghiệm tổng quát cơ thể bệnh nhân, bác sĩ chuyên khoa tiết niệu sẽ 
tiếp tục theo các phương thức sau đây để truy tầm bệnh: 
 Digital Rectum Examination (DRE): khám hậu môn. Bác sĩ dùng ngón tay trỏ 
có thể sờ thấy bề mặt sau chiếm đến 75% diện tích chung của tuyến, nằm phần 
cuối của ruột già: phần sinh bệnh thì cứng hơn và rất dễ phát hiện. Khi tìm thấy 
một dấu hiệu không bình thường, bệnh nhân được gởi đến những bác sĩ chuyên 
khoa. Cách thức khám giản tiện và rẻ tiền, nhưng một khi mà ngón tay đã phát 
hiện được cục u của tuyến thì thường thường là bệnh được khám phá hơi chậm. 
 Transrectal Ultrasound: siêu âm qua ngã hậu môn để tìm chính xác độ lớn, vị trí 
của bướu giúp cho bác sĩ sinh thiết (biopsy) và lấy tế bào tuyến để khám nghiệm 
cơ thể bệnh lý học. Đây là một phương pháp chính xác để định bệnh. 
 Đo lường chất PSA (Prostate Specific Antigen): Chất PSA là một 
Glycoprotein, là một chất xúc tác (enzyme) do các tế bào tiền liệt tuyến ở trạng 
thái bình thường, của tế bào bướu hiền và cả tế bào bướu dữ tiết ra, được hoà lẫn 
vào tinh dịch. Do đó chúng ta thừa hiểu nồng độ của PSA tăng lên trong máu trong 
nhiều trường hợp: bướu hiền, bướu dữ, viêm tiền liệt tuyến và ngay khi có đặt ống 
xông tiểu. Vì sự đa dạng của sự gia tăng nồng độ enzyme, đôi khi chỉ số PSA 
không chính xác để định bệnh tiền liệt tuyến. 
Hội Ung Thư Hoa Kỳ American Cancer Society khuyến cáo nên khám hậu môn 
(DRE), đo lượng PSA hàng năm cho các ông 50 tuổi trở lên và cho những đàn ông 
45-50 có khả năng gặp bệnh cao hơn và sớm hơn, thí dụ như yếu tố di truyền trong 
gia đình - : ông, cha, hay anh em ruột thịt đã có mang bệnh ung thư tiền liệt tuyến. 
UNG THƯ TIỀN LIỆT TUYẾN CÓ KHẢ NĂNG CHỮA LÀNH RẤT CAO 
NẾU BỆNH ĐƯỢC PHÁT HIỆN SỚM, thường thường là chưa có triệu chứng về 
đường tiểu tiện. Nếu có các triệu chứng của bệnh rồi mới đi truy tầm bệnh thì có 
thể bướu đã lớn và lan đi chỗ khác, và việc chữa trị bằng thuốc men hay giải phẫu 
sẽ không dứt hẳn bệnh. Do đó tất cả cố gắng của y học làm thế nào định bệnh càng 
sớm thì khả năng trị dứt hẳn bệnh càng cao. Trước thời đại của PSA thì có đến 
33% trường hợp tìm ra bệnh thì đã quá muộn. Những năm gần đây, nhờ định 
lượng được PSA định ra bệnh được sớm hơn, chỉ còn có 7% trường hợp phát hiện 
trễ (thống kê đại học München / Đức). 
Ngoài các cách truy tầm bệnh vừa nêu trên, bác sĩ chuyên khoa có thể làm sinh 
thiết (biopsy), kết quả thường được biết ngay trong ngày (Same day diagnosis). 
Nếu kết quả sinh thiết là: 
*dương tính : có tế bào ung thư, sự chữa trị được bắt đầu ngay. 
*âm tính : nếu lượng PSA cho những lần đo kế tiếp không giảm xuống thì bắt 
buộc làm lại sinh thiết tuyến tiền liệt. 
Sự định ra bệnh ung thư tiền liệt tuyến sẽ đưa đến cho người bệnh một sốc (shock) 
nặng: 
 Sợ cái chết sẽ đến do căn bệnh nan y đưa đến, hết thuốc chữa 
 Biến chứng không tránh khỏi sau cuộc giải phẫu: đái mế hay đái dầm, không 
kiềm chế được đường tiểu; hoặc liệt dương sau khi mổ. 
Người mắc phải bướu ung thư chỉ trong thời gian ngắn rất dễ rơi vào cảnh trầm 
cảm, mất hẳn thăng bằng cuộc sống, không muốn phơi bày ra sự thật ngay cả với 
vợ hay người bà con thân thuộc. Nhiều trường hợp phải nhờ các nhà tâm lý học 
giúp đỡ cho bệnh nhânthoát ra khỏi cái khủng hoảng tinh thần trước khi bắt đầu 
chữa bệnh... 
CÁC CÁCH CHỮA TRỊ: 
Nếu bướu chưa di căn: bướu đang còn hạn chế, đang còn trong giai đoạn sớm, nhờ 
giải phẫu lấy toàn bộ mầm sinh bệnh ở giai đoạn này thì khả năng dứt hẳn bệnh rất 
cao. 
Nếu bệnh đã kéo dài trên hai năm: một khi mà bệnh đã phát triển thì sự chữa trị 
chỉ còn là tạm thời và chờ đợi qua ngày. "watchful waiting" - chú ý trong chờ đợi - 
nghĩa là đã định ra được bệnh nhưng không chữa trị, chờ cho đến khi bệnh có triệu 
chứng tại chỗ hay đã di căn thì cuộc sống còn lại của người bệnh không quá 10 
năm. 
 Phương pháp giải phẫu: Cắt bỏ tiền liệt tuyến theo đường mổ bụng là phương 
pháp giải phẫu đã thực hiện 100 năm rồi. Kể từ năm 1980, cách mổ xẻ được hoàn 
thiện hơn theo sự phát triển của máy móc y tế và trang bị dụng cụ hiện đại, được 
xếp vào hạng đại phẫu cũng ngành tiết niệu. Ngay cả cho những người trẻ với 
những loại ung thư "trầm trọng" có thể sống thêm ít nhất là 10 năm. Sau cuộc giải 
phẫu cho dù có bác sĩ khéo tay đến đâu đi nữa, bệnh nhân có thể sẽ bị rối loạn 
đường tiểu hoặc/và liệt dương. Những năm gần đây còn có phương pháp mổ nội 
soi, không có sẹo mổ lớn. Ưu điểm là thời gian nằm bệnh viện ngắn hơn nhưng 
thời gian mổ kéo dài 4 lần nhiều hơn phương pháp mổ bụng. Nhưng hậu quả như 
rối loạn đường tiểu, chứng liệt dương cũng không thể tránh khỏi. Phương pháp 
còn mới, kết quả cũng còn phải chờ thời gian lâu nữa mới định giá được vị trí 
trung thực của nó. Sự kết hợp mổ nội soi với người máy như trong địa hạt mổ tim 
hở đang còn trong thời kỳ triển khai. 
 Xạ trị (Radiation therapy) và Hoá trị (Chemotherapy) : khi bệnh đã lan ra. 
* Kích thích tố tuyến dịch (Hormontherapy) + cắt bỏ dịch hoàn: Khoảng 40 năm, 
theo nghiên cứu khoa học y học đã biết rõ dịch hoàn tạo kích thích tố (homone) 
sinh dục, và chính testosterone là nguồn gốc của ung thư tiền liệt tuyến. 
Chúng ta có thể kết luận : 
* nếu không có kích thích tố testosterone thì sẽ không có ung thư tiền liệt tuyến. 
* Nguyên nhân đưa đến chứng ung thư nói chung, chưa có trả lời rõ rệt. Trên 50 
tuổi là thời điểm thường phát sinh bệnh. Ttuổi trung bình mắc bệnh là 72.3 tuổi. 
Tuổi sống của người đàn ông gia tăng rõ rệt thì số bệnh nhân bị ung thư tiền liệt 
tuyến cũng theo đà tăng lên theo. 
Y học cũng biết rõ là sự bài tiết testosterone do tuyến não thùy điều khiển. Hãng 
thuốc Nhật Takeda đã tìm được một loại thuốc ức chế họat động của não thùy để 
chận đứng sự tiết ra kích thích tố testosterone tức là làm ngưng sự phát triển của 
bướu làm giảm thiểu rối loạn đường tiểu. Người ta cũng còn ghi nhận, khi dùng 
thuốc phần nhiều là cục bướu sẽ nhỏ lại giúp ích rất nhiều cho bác sĩ giải phẫu. 
Lúc ban đầu vì hạn chế thời gian có hiệu quả của thuốc, thuốc phải chích hàng 
ngày; dần dần hãng thuốc bào chế đã kéo dài được hoạt động dài hơn (depot) của 
thuốc, cho nên chỉ cần chích 1 tháng một lần. Hiện đang nghiên cứu để chỉ cần 
chích 3 tháng 1 lần. 
Sự cắt bỏ hai dịch hoàn đã thực hiện trên 40 năm, chận đứng 100% sự bài tiết 
testosterone, có kết quả nhanh hơn là phải dùng thuốc như đã nêu trên. Số tiền 
mua thuốc kích thích tố khá tốn kém, nên các hãng bảo hiểm sức khoẻ đang bàn 
cãi là có nên tiếp tục trả tiền thuốc hay là... cắt bỏ dịch hoàn. Trên thế giới có cả 
triệu người đang dùng thuốc này, một món lợi kếch xù của hãng thuốc Takeda. 
Vấn đề tâm linh của người bệnh là khi nhuốm bệnh thì thường kéo thêm vào 
chứng trầm cảm, không giao tiếp với người thân, bạn bè. Sự bất hoạt động và cô 
đơn gây nên sự xáo trộn trong cuộc sống. 
Không ai hiểu rõ bệnh bằng người bác sĩ chuyên khoa, nhưng không ai biết nỗi 
khổ tâm hay đau đớn bằng chính bệnh nhân. Làm thế nào để tránh không gặp phải 
bệnh, thì y học không thể trả lời được. Một điều nhận xét chung: 
- Cơ thể nặng nề, sức vóc phì nộm, trọng lượng quá cao, thức ăn nhiều thịt, nhiều 
mỡ và nhất là lượng rượu, thuốc lá là những môi trường xấu, nói chung dễ sinh 
bệnh tật mà chính con người tự tìm đến. 
- Trong cuộc sống với thức ăn thanh đạm nhiều vitamine : rau, quả, giá, đậu nành 
... thì mầm sinh bệnh ít hơn, có khả năng làm con người lánh xa được bệnh. 
- Môt điểm cần phải nêu lên lần nữa là yếu tố di truyền : con cái hay là anh em, 
ruột thịt của người mắc bệnh thì khả năng nhuốm bệnh những 2 - 3 lần nhiều hơn 
và thời điểm mắc phải bệnh những 10 năm sớm hơn. 
Nguồn gốc và dịch tể học: 
- Kể từ năm 1995, số người mắc phải ung thư tiền liệt tuyến gia tăng đáng sợ. 
Năm 1979 tại Hoa Kỳ, chỉ phát hiện được có 64.000 trường hợp, đến năm 1999 thì 
tăng vọt lên đến 244.000, tính ra có đến 4 lần nhiều hơn. 
- Điểm ghi nhận là nhóm người Mỹ da đen chiếm đến 21% trường hợp ung thư 
tiền liệt tuyến trong tổng số người đàn ông mắc các bệnh ung thư. 
- Người Á Châu chiếm tỷ số mắc bệnh thấp nhất : 1-7 / 100,000. 
 Hong Kong 2.6 
 Nhật Bản 3.8 
 Singapore 4.2 
 Thụy Điển 20.4 
 Thụy Sĩ 22.5 
 Việt Nam : trong thời gian 10 năm cộng tác tại Bệnh Viện Trung Ương Huế 
và miền Trung Việt-Nam qua chương trình huấn luyện quốc gia : Deutscher 
Akademischer Austausch Dienst (DAAD) - German Academic Exchange Servive 
- Office Allemand d‘ Exchanges Universitaires, đã tìm thấy những mẫu nghiệm 
dương tính của ung thư tiền liệt tuyến; một thống kê chính xác chưa thực hiện 
được. 
Chương trình hợp tác củ Đức và Đại Học Y Khoa Huế cho năm 2004-2005 sẽ thực 
hiện là đo lường được nồng độ PSA (Prostate Specific Antigen), trang bị máy 
móc hiện đại để việc chẩn đoán bệnh được sớm, đào tạo chuyên viên tại chỗ và 
đón nhận bác sĩ chuyên ngành giải phẫu niếu đạo tu nghiệp tại Đức. 
Tính ra người Mỹ da đen có khả năng nhuốm bệnh 30 lần nhiều hơn người Nhật 
Bản và con cháu của Nhật Hoàng vướng bệnh 10 lần ít hơn người dân Đức. Một 
điểm đáng chú ý là con của Thiên Hoàng di dân đến Hoa Kỳ thì chỉ số mắc bệnh 
ung thư tiền liệt tuyến cao hơn đồng hương của họ sống tại đảo Phù Tang. Điểm 
này đưa đến kết luận là môi trường và cách ăn uống ảnh hưởng rất lớn đến sức 
khoẻ của con người. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 23_742.pdf 23_742.pdf