MỐI LIÊN HỆ DỊCH TỄ GIỮA RỐI LOẠN CƯƠNG VỚI 
BỆNH TIM MẠCH DO XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH VÀ ĐÁI THÁO 
ĐƯỜNG
Rối loạn cương -RLC (erectile dysfunction)là dạng được nhắc đến và 
nghiên cứu nhiều nhất trong số các rối loạn tình dục ở nam giới. Theo kết 
quả điều tra NHANES (National Health and Nutrition Examination Survey)
thực hiện ở Hoa Kỳ trên 2126 người đàn ông ³ 20 tuổi, tần suất lưu hành 
RLC là 18,4% 1. Từ tần suất lưu hành này có thể suy ra là có hơn 18 triệu 
người bị RLC ở Hoa Kỳ 1. Theo ước tính của một số nhà nghiên cứu, trên 
toàn thế giới hiện có 100-140 triệu người RLC và đến năm 2025 sẽ có 
khoảng 300 triệu người RLC 2,3.
Các nghiên cứu dịch tễ cho thấy tần suất RLC tăng theo tuổi (52% ở 
lứa tuổi 40-70 và 70% ở lứa tuổi trên 70), ngoài ra tần suất RLC cũng tăng ở 
những người có yếu tố nguy cơ tim mạch (tăng huyết áp, hút thuốc, tăng 
cholesterol, ít vận động thể lực), tiền sử bệnh tim mạch và đái tháo đường 
(Trong điều tra NHANES tần suất RLC ở người đái tháo đường là 51,3%) 
1,4.
              
                                            
                                
            
 
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Vai trò của thầy thuốc tim mạch trong chăm sóc bệnh nhận rối loạn cương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vai trò của t hầy thuốc tim mạch 
trong chăm sóc bệnh nhận rối loạn cương 
MỐI LIÊN HỆ DỊCH TỄ GIỮA RỐI LOẠN CƯƠNG VỚI 
BỆNH TIM MẠCH DO XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH VÀ ĐÁI THÁO 
ĐƯỜNG 
Rối loạn cương - RLC (erectile dysfunction) là dạng được nhắc đến và 
nghiên cứu nhiều nhất trong số các rối loạn tình dục ở nam giới. Theo kết 
quả điều tra NHANES (National Health and Nutrition Examination Survey) 
thực hiện ở Hoa Kỳ trên 2126 người đàn ông ³ 20 tuổi, tần suất lưu hành 
RLC là 18,4% 1. Từ tần suất lưu hành này có thể suy ra là có hơn 18 triệu 
người bị RLC ở Hoa Kỳ 1. Theo ước tính của một số nhà nghiên cứu, trên 
toàn thế giới hiện có 100-140 triệu người RLC và đến năm 2025 sẽ có 
khoảng 300 triệu người RLC 2,3. 
Các nghiên cứu dịch tễ cho thấy tần suất RLC tăng theo tuổi (52% ở 
lứa tuổi 40-70 và 70% ở lứa tuổi trên 70), ngoài ra tần suất RLC cũng tăng ở 
những người có yếu tố nguy cơ tim mạch (tăng huyết áp, hút thuốc, tăng 
cholesterol, ít vận động thể lực), tiền sử bệnh tim mạch và đái tháo đường 
(Trong điều tra NHANES tần suất RLC ở người đái tháo đường là 51,3%) 
1,4. 
Ngày càng có nhiều chứng cứ về mối liên hệ chặt chẽ giữa RLC với 
nguy cơ bị các biến cố tim mạch nặng, cả trong dân số chung lẫn ở những 
người bệnh đái tháo đường. Một trong những chứng cứ quan trọng nhất 
được rút ra từ nghiên cứu Prostate Cancer Prevention Trial, la một thử 
nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên trên 18.882 người đàn ông ³ 55 
tuổi, trong đó một nửa được phân cho dùng finasteride 5 mg/ngày và một 
nửa được phân cho dùng placebo. Nhánh placebo của nghiên cứu gồm 9.457 
người được theo dõi trung bình 5 năm (tối đa 7 năm) 5. Trong số 9.457 
người này có 8.063 người (85%) không có bệnh tim mạch lúc mới vào 
nghiên cứu và trong số này 3.816 người (47%) đã có RLC lúc mới vào 
nghiên cứu. Trong số 4.247 người không có RLC lúc mới vào nghiên cứu, 
2.420 người (57%) báo cáo bị RLC mới xuất hiện sau 5 năm. Các tác giả tìm 
hiểu giá trị dự báo các biến cố tim mạch nặng (nhồi máu cơ tim, tái tưới máu 
mạch vành, đau thắt ngực, đột quị, cơn thiếu máu não thoáng qua, suy tim, 
ngưng tim) của RLC mới xuất hiện và RLC mới xuất hiện hoặc đã có từ lúc 
mới vào nghiên cứu bằng phân tích đa biến với mô hình hồi qui Cox. Kết 
quả phân tích cho thấy tỉ số nguy cơ bị biến cố tim mạch nặng liên quan với 
RLC mới xuất hiện là 1,25 (KTC 95%: 1,02-1,53; p = 0,04) và liên quan với 
RLC mới xuất hiện hoặc đã có từ lúc mới vào nghiên cứu là 1,45 (KTC 
95%: 1,25-1,69; p < 0,001). Trên hình 1 là tần suất dồn các biến cố tim mạch 
nặng kể từ khi bị RLC mới xuất hiện ở những người không có tiền sử bệnh 
tim mạch. Nghiên cứu này đã chứng minh một cách thuyết phục ý nghĩa dự 
báo các biến cố tim mạch nặng của RLC trong dân số những người đàn ông ³ 
55 tuổi không có tiền sử bệnh tim mạch. 
Hình 1 : Tần suất dồn các biến cố tim mạch nặng kể từ khi bị rối loạn 
cương mới xuất hiện ở những người không có tiền sử bệnh tim mạch 
(Prostate Cancer Prevention Trial) 5. 
Riêng ở những người bệnh đái tháo đường cũng đã có nhiều nghiên 
cứu chứng minh mối liên hệ chặt chẽ giữa RLC với nguy cơ tim mạch. Một 
nhóm tác giả người Ý, đứng đầu là Gazzaruso, đã công bố 2 nghiên cứu 
(một nghiên cứu bệnh-chứng và một nghiên cứu đoàn hệ) cho thấy ở bệnh 
nhân đái tháo đường týp 2 không triệu chứng RLC có liên quan chặt chẽ với 
sự hiện diện bệnh mạch vành yên lặng (bệnh mạch vành yên lặng là bệnh 
mạch vành được xác định bằng chụp mạch vành cản quang nhưng bệnh nhân 
không có đau thắt ngực) và ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có bệnh mạch 
vành yên lặng RLC dự báo các biến cố tim mạch nặng (chết do bệnh mạch 
vành, đột tử, nhồi máu cơ tim không chết, chết do suy tim, đau thắt ngực 
không ổn định, tái tưới máu mạch vành, đột quị hoặc cơn thiếu máu não 
thoáng qua, bệnh động mạch ngoại vi có triệu chứng) 6,7. Mới đây một 
nhóm tác giả Hong Kong đã công bố một nghiên cứu đoàn hệ trên 2.306 
người đàn ông bệnh đái tháo đường týp 2 và không có bệnh tim mạch do xơ 
vữa động mạch 8. Trong số này 616 người (26,7%) có RLC lúc mới vào 
nghiên cứu. Sau thời gian theo dõi trung vị là 4 năm có 123 bệnh nhân bị các 
biến cố mạch vành nặng (nhồi máu cơ tim cấp hoặc chết do nguyên nhân 
mạch vành). Phân tích đa biến bằng mô hình hồi qui Cox cho thấy RLC là 
một yếu tố dự báo độc lập các biến cố mạch vành nặng (tỉ số nguy cơ = 1,58; 
KTC 95%: 1,08-2,30; p = 0,018). Trên hình 2 là tần suất dồn các biến cố 
mạch vành nặng ở 2 nhóm có và không có RLC lúc mới vào nghiên cứu. 
Hình 2 : Tần suất dồn các biến cố mạch vành nặng ở những bệnh 
nhân đái tháo đường týp 2 có và không có rối loạn cương 8. 
CƠ CHẾ HIỆN TƯỢNG CƯƠNG VÀ RỐI LOẠN CƯƠNG 
Các thể hang của dương vật được cấu tạo bởi một mạng các tế bào cơ 
trơn và các xoang hang được bao phủ bên trong bởi tế bào nội mô. Bên 
ngoài các thể hang là một bao mô liên kết (tunica albuginea). Bình thường 
các tế bào cơ trơn ở trạng thái co, do đó các xoang hang có thể tích nhỏ 
(hình 3A). Dưới tác động của kích thích tình dục, các cơ trơn dãn ra, máu 
dồn vào các xoang hang làm các xoang này tăng thể tích và ép vào các tĩnh 
mạch nằm dưới bao mô liên kết. Khi các tĩnh mạch bị ép, máu không thể dẫn 
lưu ra khỏi các xoang hang và ứ lại trong thể hang gây ra hiện tượng cương 
(hình 3B) 9. 
Để sự dãn cơ trơn xảy ra, cần có sự hiện diện của nitric oxide (NO) 
được tổng hợp trong các tế bào nội mô. Sau khi được tổng hợp ở nội mô, 
NO khuếch tán vào tế bào cơ trơn và hoạt hóa guanylyl cyclase, qua đó 
chuyển GTP thành GMP vòng. Kết quả là protein kinase C được hoạt hóa, 
lượng calcium nội bào giảm dẫn đến dãn tế bào cơ trơn. 
Từ các cơ chế nêu trên có thể thấy tất cả các bệnh lý có rối loạn chức 
năng nội mô (và giảm tổng hợp NO) đều có thể gây RLC. Không phải ngẫu 
nhiên khi trong tiếng Anh cả RLC (erectile dysfunction) lẫn rối loạn chức 
năng nội mô (endothelial dysfunction) đều viết tắt là ED. Rối loạn chức năng 
nội mô luôn hiện diện trong xơ vữa động mạch và cũng là bước khởi đầu của 
quá trình sinh xơ vữa 10. Rối loạn chức năng nội mô cũng là một đặc trưng 
của bệnh đái tháo đường 6,7. Điều này giải thích mối liên hệ chặt chẽ giữa 
RLC với bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch và đái tháo đường được ghi 
nhận trong các nghiên cứu dịch tễ đã nêu ở phần trước. 
Hình 3 : Cấu trúc dương vật (mặt cắt ngang) ở trạng thái bình thường 
(A) và trạng thái cương (B) (theo McVary 9). 
ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở NGƯỜI CÓ RỐI LOẠN 
CƯƠNG 
Đánh giá nguy cơ tim mạch ở người có RLC rất cần thiết vì 2 lý do. 
Lý do thứ nhất là, như đã trình bày trong phần đầu, trong dân số những 
người đàn ông ³ 55 tuổi không có bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch cũng 
như trong dân số những người bệnh đái tháo đường, những người có RLC có 
nguy cơ bị các biến cố tim mạch nặng cao hơn đáng kể so với những người 
không có RLC. Đánh giá nguy cơ tim mạch ở những người có RLC giúp lọc 
ra những người có nguy cơ tim mạch đặc biệt cao, những người này là đối 
tượng của việc can thiệp tích cực nhằm phòng ngừa các biến cố tim mạch 
nặng. 
Lý do thứ hai là hiện nay có nhiều biện pháp điều trị RLC hữu hiệu 
giúp cho nhiều người trước đây không thể hoạt động tình dục có thể hoạt 
động tình dục trở lại. Ở một số người có bệnh tim mạch không ổn định hoặc 
mất bù, hoạt động tình dục có thể không an toàn. Việc phân tầng nguy cơ ở 
những người có nhiều yếu tố nguy cơ hoặc có bệnh tim mạch rất hữu ích, 
giúp thầy thuốc quyết định là nên điều trị RLC ngay (tức là phục hồi hoạt 
động tình dục sớm cho bệnh nhân) hay nên hoãn việc điều trị RLC cho đến 
khi tình trạng tim mạch của bệnh nhân ổn định hơn. 
Nghiên cứu của Muller trên 1774 bệnh nhân mới nhập viện vì nhồi 
máu cơ tim cho thấy nguy cơ nhồi máu cơ tim tăng gấp 2,5 lần trong vòng 2 
giờ sau khi hoạt động tình dục 11. Tuy nhiên nếu xét con số tuyệt đối thì 
nguy cơ này thấp. Theo tính toán của Muller, một người đàn ông Mỹ 50 tuổi 
không có bệnh tim có xác suất nhồi máu cơ tim nền là 1% mỗi năm. Nếu 
người này hoạt động tình dục mỗi tuần một lần, xác suất nhồi máu cơ tim chỉ 
tăng lên thành 1,01% mỗi năm 11. 
Điều đáng ngại hơn (vì nhiều khả năng xảy ra hơn) là cơn đau thắt 
ngực xuất hiện ở người bệnh mạch vành sau hoạt động tình dục. Trong hoạt 
động tình dục có 2 thành phần cùng có ảnh hưởng trên hệ tim mạch là vận 
động thể lực (sexual exertion) và sự kích thích tình dục (sexual arousal). 
Vận động thể lực trong quá trình hoạt động tình dục có mức tiêu thụ năng 
lượng là 2-3 MET trong giai đoạn trước cực khoái (pre-orgasm) và 3-4 MET 
trong giai đoạn cực khoái (orgasm) (MET là viết tắt của metabolic 
equivalent, 1 MET tương đương mức tiêu thụ oxy 3,5 ml/kg/phút) 12. Mức 
vận động thể lực này rõ ràng là không cao vì cần biết là đi bộ chậm (vận tốc 
khoảng 5 km/giờ) đã có mức tiêu thụ năng lượng là 3 MET 12. Tuy nhiên 
khi hoạt động tình dục tần số tim và huyết áp thường tăng nhiều hơn so với 
khi thực hiện những hoạt động thể lực khác có cùng mức tiêu thụ năng 
lượng. Lý do là vì ngoài vận động thể lực còn có kích thích tình dục tác 
động lên hệ tim mạch (Kích thích tình dục kéo theo một sự tăng hoạt tính 
giao cảm mạnh, làm tần số tim và huyết áp tăng nhiều hơn) 13. Đáp ứng của 
hệ tim mạch với hoạt động tình dục tương đương với đáp ứng tim mạch khi 
đi bộ lên 2 tầng lầu, vì vậy nhiều thầy thuốc thực hành cho rằng nếu bệnh 
nhân không có triệu chứng khi đi bộ lên 2 tầng lầu thì bệnh nhân có thể hoạt 
động tình dục an toàn được 12,14. Nghiệm pháp gắng sức trên thảm lăn cho 
phép lượng giá chính xác hơn. Một số nghiên cứu cho thấy nếu bệnh nhân 
không có triệu chứng, không có thiếu máu cục bộ tim khi gắng sức ở mức 6 
MET thì khả năng bệnh nhân bị biến cố tim mạch khi hoạt động tình dục rất 
thấp 12. 
Tháng 6/1999 một nhóm chuyên gia quốc tế đã họp tại Đại học 
Princeton (Hoa Kỳ) và đưa ra một văn kiện đồng thuận có nội dung chính là 
những khuyến cáo về điều trị rối loạn tình dục ở người bệnh tim mạch 13. 
Năm 2006 nhóm chuyên gia này lại đưa ra một bảng hướng dẫn mới cập 
nhật về rối loạn tình dục và nguy cơ tim mạch, được gọi tắt là hướng dẫn 
Princeton lần 2 (Princeton II Guidelines) 15. Theo hướng dẫn Princeton lần 
2, tất cả những người đàn ông không có triệu chứng của bệnh tim nhưng bị 
RLC mà không có một nguyên nhân rõ rệt (ví dụ chấn thương) cần được 
khám để tầm soát bệnh tim mạch và kiểm tra huyết áp, đường huyết, lipid 
huyết 15. Trước khi quyết định điều trị RLC cho người có yếu tố nguy cơ 
tim mạch hoặc bệnh tim mạch, người thầy thuốc cần tiến hành việc phân 
tầng nguy cơ. Hướng dẫn Princeton lần 2 phân thành 3 mức nguy cơ là thấp, 
trung gian và cao (xem bảng 1) 15. Những người có nguy cơ thấp có thể 
được điều trị RLC ngay, còn đối với những người có nguy cơ cao việc điều 
trị RLC cần được hoãn lại cho đến khi tình trạng tim mạch của bệnh nhân ổn 
định hơn. Riêng đối với những người thuộc nhóm nguy cơ trung gian, thầy 
thuốc cần khảo sát thêm để sau đó xếp loại lại vào nhóm nguy cơ thấp hoặc 
nguy cơ cao (Điện tim gắng sức trên thảm lăn rất hữu ích trong những 
trường hợp này). Hướng dẫn này tương đối đơn giản, dễ áp dụng và có thể 
dùng để tham khảo trong thực hành. 
Bảng 1 : Xếp loại mức nguy cơ theo Hướng dẫn Princeton lần 2 15. 
NGUY CƠ THẤP (cho phép hoạt động tình dục hoặc điều trị RLC) 
- Người không triệu chứng và có < 3 yếu tố nguy cơ (Yếu tố nguy cơ : 
tuổi cao, tăng huyết áp, đái tháo đường, hút thuốc, rối loạn lipid máu, ít vận 
động thể lực, tiền sử gia đình mắc bệnh tim sớm) 
- Tăng huyết áp được kiểm soát tốt 
- Đau thắt ngực ổn định nhẹ 
- Đã được tái tưới máu mạch vành và không có thiếu máu cục bộ tồn 
lưu đáng kể 
- Sau nhồi máu cơ tim (> 6-8 tuần), không triệu chứng và không có 
thiếu máu cục bộ khi làm nghiệm pháp gắng sức 
- Bệnh van tim nhẹ 
- Rối loạn chức năng thất trái (NYHA I) 
NGUY CƠ CAO (hoãn hoạt động tình dục/điều trị RLC đến khi tình 
trạng tim mạch ổn định hơn) 
- Đau thắt ngực không ổn định hoặc kháng trị 
- Tăng huyết áp không được kiểm soát 
- Suy tim (NYHA III, IV) 
- Nhồi máu cơ tim mới (< 2 tuần) 
- Rối loạn nhịp nguy hiểm 
- Bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn 
- Bệnh van tim vừa đến nặng 
NGUY CƠ TRUNG GIAN (khảo sát thêm để xếp loại lại vào nhóm 
nguy cơ thấp hoặc nguy cơ cao) 
- Không triệu chứng và ≥ 3 yếu tố nguy cơ 
- Đau thắt ngực ổn định vừa 
- Nhồi máu cơ tim > 2 tuần và < 6 tuần 
- Rối loạn chức năng thất trái/suy tim (NYHA II) 
- Tổn thương xơ vữa động mạch ngoài tim (bệnh động mạch ngoại vi, 
tiền sử đột quị hoặc cơn thiếu máu não thoáng qua) 
THUỐC ỨC CHẾ PDE5 : ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI HỆ TIM 
MẠCH VÀ TƯƠNG TÁC VỚI CÁC THUỐC TIM MẠCH 
Các thuốc ức chế PDE5 được dùng để điều trị RLC. Hiện trên thị 
trường có 3 thuốc đang lưu hành là sildenafil, vardenafil và tadalafil. Các 
thuốc này ức chế enzym PDE5 (phosphodiesterase 5) là enzym gây thoái 
gián GMP vòng nên có tác dụng tăng lượng GMP vòng và tạo thuận lợi cho 
hiện tượng cương xảy ra. 
Thuốc ức chế PDE5 được nghiên cứu nhiều nhất là sildenafil. 
Sildenafil có hiệu quả cao trong điều trị RLC với tỉ lệ điều trị thành công lên 
đến hơn 80% ở những người có bệnh tim mạch 15. Tadalafil có thời gian 
bán hủy dài nhất trong số 3 thuốc, có hiệu quả tương tự sildenafil. 
Vardenafil có cấu trúc hóa học rất giống sildenafil và hiệu quả cũng tương 
đương sildenafil trong điều trị RLC ở bệnh nhân đái tháo đường 15. 
Cả 3 thuốc đều có tác dụng hạ huyết áp vừa phải (mức hạ tối đa là 7-
10 mm Hg đối với huyết áp tâm thu và 4-8 mm Hg đối với huyết áp tâm 
trương) và thoáng qua (tác dụng hạ huyết áp mạnh nhất khoảng 1 giờ sau 
uống sildenafil và vardenafil và khoảng 2 giờ sau uống tadalafil) 15-17. Tác 
dụng của các thuốc này trên tần số tim không đáng kể. 
Cho đến nay tất cả các thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên 
đều cho thấy sildenafil không tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quị hoặc tử 
vong 15,18. Tổng kết các số liệu lâm sàng với tadalafil cũng cho thấy điều 
tương tự 19. Vardenafil ít được nghiên cứu hơn so với 2 thuốc còn lại ở 
người bệnh tim mạch, tuy nhiên một nghiên cứu công bố từ năm 2002 cho 
thấy vardenafil không làm giảm khả năng gắng sức của những người bệnh 
đau thắt ngực ổn định 20. 
Về tương tác thuốc, cần lưu ý đến sự tương tác giữa các thuốc ức chế 
PDE5 với các thuốc nhóm nitrate và các thuốc nhóm chẹn thụ thể alpha. Các 
thuốc ức chế PDE5 ức chế sự thoái gián GMP vòng, trong khi các thuốc 
nhóm nitrate có tác dụng tăng tổng hợp GMP vòng. Khi dùng 2 nhóm thuốc 
này chung với nhau, lượng GMP vòng sẽ tăng rất cao và có thể gây tụt huyết 
áp nguy hiểm (do dãn mạch mạnh). Một câu hỏi đặt ra là : Nếu một người 
uống thuốc ức chế PDE5, sau đó bị đau thắt ngực thì nên xử trí như thế nào 
và bao lâu sau mới cho uống thuốc nhóm nitrate được ? Theo hướng dẫn của 
Trường Môn Tim mạch/Hiệp hội Tim Hoa Kỳ, tất cả các thuốc chống đau 
thắt ngực khác ngoài nitrate (chẹn bêta, chẹn canxi, morphin) cũng như các 
biện pháp thở oxy, aspirin và statin đều có thể dùng cho người đã uống 
thuốc ức chế PDE5 16. Nếu bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp sau khi đã 
uống thuốc ức chế PDE5, chỉ định tái thông động mạch vành bằng thuốc tiêu 
huyết khối hoặc can thiệp mạch vành qua da cũng không có gì thay đổi 16. 
Sau khi uống một liều sildenafil hoặc vardenafil, 24 giờ sau bệnh nhân có 
thể uống nitrate lại. Sau khi uống một liều tadalafil, 48 giờ sau bệnh nhân có 
thể uống nitrate lại 17. Một câu hỏi nữa đặt ra là : Phải xử trí như thế nào 
nếu bệnh nhân bị tụt huyết áp do lỡ dùng thuốc nhóm nitrate sau khi đã uống 
thuốc ức chế PDE5 ? Theo Kloner, nên đặt bệnh nhân ở tư thế đầu thấp, 
truyền dịch, dùng thuốc chủ vận alpha (gây co mạch) và đặt bóng bơm đối 
xung trong động mạch chủ nếu cần 17. 
Phối hợp thuốc ức chế PDE5 với hầu hết các thuốc điều trị tăng huyết 
áp là an toàn. Một ngoại lệ là các thuốc chẹn thụ thể alpha thường được 
dùng để điều trị tăng huyết áp và phì đại tiền liệt tuyến lành tính (như 
doxazosin, terazosin, tamsulosin). Phối hợp thuốc ức chế PDE5 với thuốc 
chẹn thụ thể alpha có thể gây tụt huyết áp nặng. Vardenafil và tadalafil 
chống chỉ định dùng chung với thuốc chẹn alpha, riêng sildenafil thì có thể 
dùng chung nhưng với liều thấp (25 mg) 15,17. 
THUỐC ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP VÀ RỐI LOẠN CƯƠNG 
RLC thường gặp ở người bệnh tăng huyết áp. Trong nghiên cứu 
MMAS (Massachusetts Male Aging Study) tỉ lệ RLC là 9,6% trong dân số 
chung và 15% ở những người bệnh tăng huyết áp được điều trị 21. Theo kết 
quả của một điều tra do Giuliano và cộng sự thực hiện trên 3906 người bệnh 
tăng huyết áp, tỉ lệ RLC lên đến 67% 22. Tần suất lưu hành RLC cao ở 
người bệnh tăng huyết áp có thể được giải thích bởi tình trạng rối loạn chức 
năng nội mô rất thường gặp ở những người bệnh tăng huyết áp mạn 10,23. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy một số thuốc điều trị tăng huyết áp có thể 
gây ra các rối loạn tình dục cho người bệnh nam giới (bảng 2). Các thuốc 
thường được báo cáo là có thể gây RLC hoặc làm tăng nặng RLC gồm lợi 
tiểu (nhất là khi dùng với liều cao), chẹn bêta (đặc biệt là chẹn bêta không 
chọn lọc) và methyldopa 23-25. Trong y văn không có báo cáo về tác dụng 
phụ trên hoạt động tình dục của các thuốc chẹn canxi, ức chế men chuyển và 
chẹn thụ thể angiotensin (trừ một nghiên cứu cho thấy verapamil có thể gây 
RLC 26). 
Bảng 2 : Ảnh hưởng của thuốc điều trị tăng huyết áp trên hoạt động 
tình dục 23. 
Thuốc Giảm 
libido 
Rối loạn 
cương 
Rối loạn 
xuất tinh 
Lợi tiểu thiazide (+) (+) (+) 
Spironolactone (-) (+) (-) 
Chẹn bêta (+) (+) (-) 
Chẹn alpha (-) (+) (+) 
Methyldopa (+) (+) (+) 
Chẹn canxi (-) (-) 
(verapamil?) 
(-) 
Ức chế men (-) (-) (-) 
chuyển 
Chẹn thụ thể 
angiotensin 
(-) (-) (-) 
Ghi chú : (+) có thể gây hoặc tăng nặng ; (-) không gây, không tăng 
nặng. 
Một nghiên cứu được công bố mới đây mang tên DO-IT 
(DOcumentation of hypertention and metabolic syndrome in patients with 
Irbesartan Treatment) đã cung cấp thông tin rất đáng quan tâm về tác dụng 
của thuốc chẹn thụ thể angiotensin irbesartan trên chức năng tình dục 27. 
DO-IT được tiến hành ở Đức từ tháng 9/2004 đến tháng 1/2006. Tham 
gia DO-IT có 1069 người bệnh tăng huyết áp nam giới, tuổi trung bình 59,3 
(19-84 tuổi), có hội chứng chuyển hóa. Hội chứng chuyển hóa được định 
nghĩa là tăng huyết áp kèm ít nhất 2 trong số các yếu tố : vòng eo > 102 cm, 
TG > 150 mg/dl, HDL 110 mg/dl. Sau 
khi được tuyển vào nghiên cứu, bệnh nhân được cho dùng irbesartan (150-
300 mg/ngày) hoặc irbesartan phối hợp hydrochlorothiazide (150-300 mg + 
12,5 mg/ngày) tùy theo quyết định của bác sĩ điều trị trong 6 tháng. Có 
11,1% bệnh nhân đã dùng irbesartan hoặc phối hợp irbesartan-
hydrochlorothiazide từ trước, 38,5% bệnh nhân được đổi từ những thuốc hạ 
huyết áp khác sang và 50,4% mới được dùng thuốc hạ huyết áp lần đầu. 
Chức năng cương, chức năng cực khoái (orgasmic function), sự ham muốn 
tình dục (sexual desire) và sự hài lòng về hoạt động tình dục (intercourse 
satisfaction) được đánh giá bằng thang diểm IIEF (International index of 
erectile function) (điểm IIEF càng cao, chức năng càng tốt). 
Sau 6 tháng điều trị, huyết áp của bệnh nhân giảm rõ rệt (huyết áp tâm 
thu giảm 24 ± 15 mm Hg, p < 0,0001 và huyết áp tâm trương giảm 14 ± 9 
mm Hg, p < 0,0001). Bệnh nhân dùng phối hợp irbesartan-
hydrochlorothiazide có huyết áp tâm thu giảm nhiều hơn có ý nghĩa so với 
bệnh nhân dùng irbesartan đơn trị (25 ± 14 mm Hg so với 22 ± 15 mm Hg, p 
< 0,0001). 
Tần suất RLC nói chung (nhẹ, nhẹ-vừa, vừa và nặng) giảm từ 78,5% 
ban đầu xuống còn 63,7% sau 6 tháng (p < 0,0001). Mức độ nặng của RLC 
cũng giảm có ý nghĩa sau 6 tháng (hình 4). Tần suất RLC giảm như nhau ở 
những người dùng irbesartan đơn trị (từ 74,5% xuống còn 58,3%) và những 
người dùng phối hợp irbesartan-hydrochlorothiazide (từ 80,9% xuống còn 
66,6%). Điểm IIEF tăng 3,9 ± 7,4 ở nhóm irbesartan 150 mg, 3,5 ± 5,7 ở 
nhóm irbesartan 300 mg, 4,4 ± 7,0 ở nhóm irbesartan 150 mg + 
hydrochlorothiazide và 4,3 ± 7,2 ở nhóm irbesartan 300 mg + 
hydrochlorothiazide (khác biệt không có ý nghĩa giữa 4 nhóm). 
Lúc mới vào nghiên cứu 80,6% bệnh nhân có ham muốn hoạt động 
tình dục đều đặn. Sau 6 tháng điều trị tỉ lệ này tăng lên thành 87,8% (p < 
0,0001). Điểm IIEF đánh giá chức năng cực khoái và sự hài lòng về hoạt 
động tình dục cũng tăng lên rõ rệt sau 6 tháng dùng irbesartan hoặc 
irbesartan phối hợp hydrochlorothiazide. Câu hỏi được đặt ra từ kết quả 
nghiên cứu này là : Do đâu điều trị bằng irbesartan có hiệu quả cải thiện 
chức năng cương ở bệnh nhân tăng huyết áp kèm hội chứng chuyển hóa? 
Từ lâu y giới đã biết angiotensin II kích thích sự sản sinh các gốc oxy 
tự do bên trong lớp nội mô mạch máu, các gốc oxy tự do này phá hủy NO và 
gây rối loạn chức năng nội mô 10. Ngoài ra, angiotensin II được tổng hợp tại 
chỗ trong các thể hang cũng có tác dụng trực tiếp trên hiện tượng cương, 
bằng chứng là tiêm angiotensin II vào trong thể hang gây chấm dứt sự cương 
tự phát 28. Từ cơ chế này có thể hiểu được vì sao dùng một thuốc ức chế hệ 
renin-angiotensin để điều trị tăng huyết áp lại có tác dụng thuận lợi trên chức 
năng cương. Riêng với irbesartan, đã có nhiều báo cáo cho thấy thuốc chẹn 
thụ thể angiotensin này có tác dụng giảm sự đề kháng insulin, giảm các chỉ 
điểm của phản ứng viêm trong huyết thanh, qua đó cải thiện chức năng nội 
mô của người bệnh tăng huyết áp có hội chứng chuyển hóa 29,30. 
Hình 4 : Ảnh hưởng của điều trị bằng irbesartan hoặc irbesartan phối 
hợp hydrochlorothiazide trên tần suất và mức độ rối loạn cương (nghiên cứu 
DO-IT). 
KẾT LUẬN 
Trước đây việc chăm sóc bệnh nhân RLC được xem là một lĩnh vực 
dành riêng cho các bác sĩ nam khoa. Các chứng cứ hiện có cho phép khẳng 
định RLC có thể là một biểu hiện sớm của bệnh tim mạch do xơ vữa động 
mạch. Vì lý do đó, trong việc chăm sóc bệnh nhân RLC rất cần thiết có sự 
tham gia của thầy thuốc tim mạch. Có thể tóm tắt nhiệm vụ của thầy thuốc 
tim mạch như sau : (1) Tầm soát bệnh tim mạch và các yếu tố nguy cơ tim 
mạch; (2) Điều trị bệnh tim mạch (nếu có) và kiểm soát các yếu tố nguy cơ ; 
(3) Tham vấn cho người bệnh cũng như cho đồng nghiệp nam khoa về mức 
độ an toàn của hoạt động tình dục và việc điều trị RLC tùy theo bệnh trạng. 
Khi điều trị cho bệnh nhân nam giới, người thầy thuốc cần lưu ý đến 
sự tương tác giữa thuốc tim mạch với thuốc mà bệnh nhân có thể dùng để 
điều trị RLC. Người thầy thuốc cũng cần lưu ý đến tác dụng phụ có thể gặp 
đối với chức năng tình dục khi dùng các thuốc tim mạch, nhất là thuốc điều 
trị tăng huyết áp. Vì đây là một vấn đề "khó nói", việc chủ động hỏi bệnh 
nhân rất cần thiết, đặc biệt trong những trường hợp bệnh nhân không tuân trị 
mà không xác định được lý do. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3_4818.pdf 3_4818.pdf