Viêm nang lông nhiễm trùng là viêm ở phần nông của nang lông. Có thể chỉ có 
một vài nang lông bị viêm nhưng cũng có khi nhiều nang lông cùng bị viêm. Viêm 
nang lông có thể xảy ra ở mọi vùng da có lông trên cơ thể.
Biểu hiện là các sẩn, mụn mủ, các vết chợt và vẩy tiết ở cổ nang lông. Nhiễm 
trùng có thể lan sâu hơn toàn bộ nang lông, đó là viêm chân tóc (sycosis). Khi 
nang lông bị áp xe thì đã là biến chứng thành nhọt, nặng hơn là nhọt cụm, hoặc 
viêm mô dưới da. 
Có một số yếu tố thuận lợi như khí hậu nóng, độ ẩm cao, môi trường bị ô nhiễm, 
bụi bẩn. Cạo râu, nhổ lông hoặc tẩy lông, sử dụng các quần áo bằng sợi tổng hợp 
hoặc băng bịt kín da là những yếu tố thuận lợi thường gây viêm nang lông. Các 
vùng da ẩm ướt như nách, bẹn, sinh dục-hậu môn,mông rất hay bị viêm. Sử dụng 
kem bôi có corticoid, sử dụng kháng sinh lâu dài tạo điều kiện cho các vi khuẩn kỵ 
khí phát triển. Người bị tiểu đường, suy giảm miễn dịch hay bị viêm nang lông 
hơn người bình thường. 
Các tác nhân gây viêm nang lông có nhiềuloại. Đa số trường hợp viêm nang lông 
là do tụ cầu trùng. Ngoài ra có thể do vi khuẩn Gram âm, Pseudomonas, Proteus., 
nấm men, nấm sợi, nhiễm vi rút herpes, u mềm lây và ký sinh vật demodex.
Biểu hiện bệnh là các sẩn đỏ hoặc mụn mủ ở cổ nang lông, xung quanh có quầng 
đỏ. Khi mụn vỡ để lại vết chợt nhỏ và đóng vầy tiết. Có thể chỉ có vài mụn nhỏ rải 
rác nhưng cũng có khi tụ thành đám mụn viêm vùng râu mép, râu cằm.
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 1 
              
            Nội dung tài liệu Viêm nang lông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Viêm nang lông 
Viêm nang lông nhiễm trùng là viêm ở phần nông của nang lông. Có thể chỉ có 
một vài nang lông bị viêm nhưng cũng có khi nhiều nang lông cùng bị viêm. Viêm 
nang lông có thể xảy ra ở mọi vùng da có lông trên cơ thể. 
Biểu hiện là các sẩn, mụn mủ, các vết chợt và vẩy tiết ở cổ nang lông. Nhiễm 
trùng có thể lan sâu hơn toàn bộ nang lông, đó là viêm chân tóc (sycosis). Khi 
nang lông bị áp xe thì đã là biến chứng thành nhọt, nặng hơn là nhọt cụm, hoặc 
viêm mô dưới da. 
Có một số yếu tố thuận lợi như khí hậu nóng, độ ẩm cao, môi trường bị ô nhiễm, 
bụi bẩn. Cạo râu, nhổ lông hoặc tẩy lông, sử dụng các quần áo bằng sợi tổng hợp 
hoặc băng bịt kín da là những yếu tố thuận lợi thường gây viêm nang lông. Các 
vùng da ẩm ướt như nách, bẹn, sinh dục-hậu môn, mông rất hay bị viêm. Sử dụng 
kem bôi có corticoid, sử dụng kháng sinh lâu dài tạo điều kiện cho các vi khuẩn kỵ 
khí phát triển. Người bị tiểu đường, suy giảm miễn dịch hay bị viêm nang lông 
hơn người bình thường. 
Các tác nhân gây viêm nang lông có nhiều loại. Đa số trường hợp viêm nang lông 
là do tụ cầu trùng. Ngoài ra có thể do vi khuẩn Gram âm, Pseudomonas, Proteus..., 
nấm men, nấm sợi, nhiễm vi rút herpes, u mềm lây và ký sinh vật demodex. 
Biểu hiện bệnh là các sẩn đỏ hoặc mụn mủ ở cổ nang lông, xung quanh có quầng 
đỏ. Khi mụn vỡ để lại vết chợt nhỏ và đóng vầy tiết. Có thể chỉ có vài mụn nhỏ rải 
rác nhưng cũng có khi tụ thành đám mụn viêm vùng râu mép, râu cằm... 
Biểu hiện lâm sàng theo vùng da bị viêm: 
- Vùng mặt: viêm nang lông do tụ cầu trùng, trứng cá bội nhiễm vi trùng Gram âm 
hoặc viêm nang lông do vi trùng Gram âm đơn thuần, u mềm lây và nhiễm 
Demodex folliculorum ở nang lông. 
- Vùng râu: viêm nang lông sâu do tụ cầu trùng vàng (Staphylococcus aureus) gây 
viêm chân tóc, lông (sycosis), đôi khi còn nhiễm đồng thời các vi trùng Gram âm. 
Bệnh thường dai dẳng, khó chữa và tái đi tái lại nhiều. Các chân tóc bị viêm có 
mụn đỏ, khi mụn vỡ có thể thấy vết chợt và đóng vẩy tiết. Các mụn này có thể 
nằm rải rác hoặc thành từng đám. Sycosis sau khi khỏi không để lại sẹo nhưng có 
thể để lại vết thâm tồn tại trong một thời gian. Sycosis có thể nặng hơn khi nhiễm 
trùng lan sâu vào bọng lông gây áp xe hoặc nặng hơn nữa là nhọt. Trường hợp áp 
xe, tổn thương nang lông tuyến bã có thể gây sẹo sau khi khỏi. Một số vùng hay bị 
sycosis như vùng râu, nách, chân tóc vùng gáy, tóc mai, lông mu. Vùng râu cũng 
có thể bị nhiễm nấm sợi, nhiễm vi rút herpes, u mềm lây và nhiễm Demodex gây 
thương tổn giống trứng cá đỏ. 
- Vùng da đầu: viêm nang lông do tụ cầu và nấm sợi. 
- Vùng gáy: cũng do tụ cầu và nấm sợi. 
- Chân: thường hay gặp ở phụ nữ cạo lông hoặc tẩy lông chân. Thường viêm do 
nhiễm trùng. 
- Thân mình: tụ cầu là tác nhân hay gặp gây viêm nang lông ở các nếp gấp như 
nách. Ngoài ra có thể gặp các tác nhân khác như Pseudomonas aeruginosa, nấm 
men Malassezia, Candida. 
- Vùng mông: chủ yếu do tụ cầu. Nấm sợi cũng hay gặp ở những vùng nóng ẩm. 
Các tác nhân gây bệnh có biểu hiện lâm sàng đặc trưng: 
- Viêm nang lông do tụ cầu: tụ cầu trùng vàng có thể gây viêm nang lông nông hay 
còn gọi là chốc nang lông của Bockhart và cũng có thể gây viêm sâu lan xuống 
toàn bộ nang lông (sycosis). Sycosis hay gặp ở vùng râu và gây ngứa. Khi viêm 
lan cả đơn vị nang lông-tuyến bã thì có thể để lại sẹo sau khi khỏi. Bệnh hay tái 
phát khi không loại được các yếu tố thuận lợi như môi trường ô nhiễm, nóng ẩm. 
Một số vùng hay bị như vùng râu, nách, chân tóc vùng gáy, tóc mai, lông mu. 
- Viêm nang lông do vi khuẩn Gram âm: thường xảy ra ở những người bị trứng cá 
sử dụng kháng sinh uống dài ngày. Các mụn trứng cá trở nên nặng hơn, viêm nang 
lông thành sẩn hoặc áp xe nang lông thành bọc vùng má, cằm. 
- Viêm nang lông do nấm sợi: khởi đầu thường là nhiễm nấm ở lớp sừng quanh 
miệng nang lông sau đó mới lan vào sâu trong nang lông và vào lông. Nấm da và 
nang lông có thể thấy ở đầu với các biểu hiện khác nhau do các chủng nấm khác 
nhau gây nên. + Nấm da gây đứt sợi tóc và bong vảy da, loại nấm này gây thương 
tổn là một đám da tròn, bong vảy da trắng và gây rụng tóc, tác nhân gây bệnh là 
nấm microsporum do súc vật truyền sang mà thường là chó mèo (Microsporum 
canis); + Nấm da gây đứt sợi tóc sát da đầu và thấy vết đen ở chân tóc, thường do 
nấm Trichophyton tonsurans và T. violaceum; + Nấm Favus gây áp xe nang lông 
và rụng tóc, nếu không điều trị sớm sẽ gây rụng tóc và sẹo da đầu, do 
Trichophyton schoenleinii gây nên. +Kerion thường biểu hiện đám viêm thành cục 
hoặc đám lớn, đau, nhiều mủ vàng như mật ong, tóc không bị đứt gãy mà bị rụng 
và có thể nhổ cả bọng tóc mà không đau. Nang lông bị viêm và có nhiều mủ, tạo 
các lỗ thông nhau giữa các nang. Có thể chỉ có một đám thương tổn nhưng cũng 
có khi nhiều đám trên da đầu. Thường có hạch vùng lân cận. Bệnh có thể tự khỏi 
nhưng gây rụng tóc và để lại sẹo. Tác nhân gây bệnh do các loại nấm ở động vật 
hoặc ở đất truyền sang người: T. verrucosum, T. mentagrophytes. 
- Viêm nang lông do nấm Malassezia: thường hay gặp ở vùng khí hậu nóng và ẩm. 
Biểu hiện là các sẩn ngứa và mụn mủ ở nang lông vùng lưng, cánh tay, đôi khi có 
ở gáy, mặt. Các thương tổn này giống như trứng cá nhưng không có nhân mụn 
(comedon), phân biệt với trứng cá có comedon. 
- Nấm men Candida albicans thường xảy ra ở vùng bị băng bịt hoặc bị nóng ẩm 
lâu ngày, ví dụ như bệnh nhân bị sốt nằm lâu, hoặc các vùng da băng bịt bằng 
plastic, bôi kem corticoid. Nhiễm nấm candida nang lông gây các mụn mủ thành 
đám. 
- Viêm nang lông do nhiễm vi rút herpes: thường xảy ra ở vùng râu cằm, ria mép 
do cạo râu. Các mụn nước nang lông ở vùng râu, thành đám như chùm nho, sau 
vài ngày đóng vẩy tiết. Bệnh tự khỏi không để lại sẹo nhưng thường hay tái phát. 
- Sycosis do nhiễm vi rút u mềm lây: do vi rút Molluscum contagiosum đó là các 
sẩn màu da lõm ở giữa ở nang lông hoặc quanh nang lông vùng râu cằm, ria mép. 
Bệnh do lây nhiễm và thường tự khỏi sau một thời gian vài tháng, đôi khi lâu hơn. 
- Viêm nang lông giang mai: các sẩn màu đỏ đồng, có thể xếp thành hình ovan, 
gây rụng tóc nhưng khỏi không để lại sẹo. Ngoài ra còn có các thương tổn khác 
của bệnh giangmai như đào ban, mảng niêm mạc vùng sinh dục-hậu môn... và xét 
nghiệm huyết thanh giang mai dương tính. 
- Viêm nang lông do Demodex (Demodicidosis): do nhiễm Demodex 
folliculorum, gây bong vẩy da xung quanh nang lông, có biểu hiện giống như vẩy 
phấn nang lông hoặc viêm da tiết bã nhờn (Seborrheic dermatitis) hoặc sẩn-mụn 
mủ đỏ nang lông giống như trứng cá đỏ (Acne rosacea) trên nền đỏ da ở mặt. 
Chẩn đoán phân biệt: 
- Trứng cá thông thường, trứng cá đỏ, viêm quanh miệng, viêm nang lông bạch 
cầu ái toan ở bệnh nhân nhiễm HIV, trứng cá do thuốc nhóm halogen, do 
corticoid, lithium... 
- Dày sừng nang lông 
- Viêm da tiết bã nhờn... 
Xét nghiệm: 
- Nhuộm Gram tìm cầu trùng Gram dương 
- Soi tìm nấm: tìm các nấm sợi, nấm M. furfur và nấm candida. 
- Nuôi cấy tìm các vi khuẩn tại thương tổn và trong trường hợp tái phát nhiều lần 
cần nuôi cấy tìm vi khuẩn ở hậu môn, lỗ mũi ; đó có thể là nơi chứa vi khuẩn và là 
nguồn lây ra ngoài da. 
- Nuôi cấy phân lập nấm. 
- Soi đèn Wood để phát hiện nhiễm nấm. 
Tiến triển và biến chứng: 
Diễn biến viêm nang lông dai dẳng, hay tái phát do những yếu tố thuận lợi như 
môi trường ô nhiễm, nóng và ẩm. Cải thiện môi trường sẽ giúp cho điều trị hiệu 
quả hơn và tránh tái phát bệnh. Rất nhiều bệnh nhân bị tái phát sau điều trị hoặc 
bệnh trở nên dai dẳng khó điều trị. Biến chứng có thể xảy ra nặng hơn là gây nhọt, 
nhọt cụm và viêm mô dưới da. 
Có thể sử dụng các loại xà phòng diệt khuẩn hoặc benzoyl peroxide để phòng 
ngừa tái phát. 
Chẩn đoán: các biểu hiện bệnh giúp cho chẩn đoán bệnh. Có thể lấy bệnh phẩm ở 
thương tổn và nhuộm Gram để phát hiện cầu khuẩn Gram dương. Nuôi cấy giúp 
cho định danh vi khuẩn và làm kháng sinh đồ để chọn kháng sinh có hiệu quả 
trong trường hợp điều trị bệnh dai dẳng lâu khỏi. 
Điều trị: 
- Điều trị tại chỗ: Có thể dùng các thuốc bôi chông nhiễm trùng như betadin, cồn 
iode, các loại kem hoặc mỡ kháng sinh như bactroban, fucidin... 
- Điều trị toàn thân: trường hợp viêm nặng và tái phát có thể dùng thuốc đường 
toàn thân. 
- Kháng sinh: trong trường hợp viêm nang lông do tụ cầu có thể sử dụng kháng 
sinh đường toàn thân khi cần thiết. Các kháng sinh thuộc nhóm β-lactamin, 
amoxillin, nhóm cephalosporin, cyclin, co-trimoxazol, ciprofloxacin và 
metronidazol. Liều lượng và cách sử dụng theo tình trạng bệnh và hướng dẫn của 
nhà sản xuất. 
- Viêm nang lông do vi khuẩn Gram âm: cần phải ngừng kháng sinh đang sử dụng, 
rửa benzoyl peroxide và cho ampixillin hoặc co-trimoxazol. Trong một số trường 
hợp phải cho Isotretinoin. 
- Viêm nang lông do nấm: sử dụng các thuốc chống nấm bôi và phối hợp với 
thuốc uống. Thuốc bôi như Nizoral, Canesten, Mycoster.... Có nhiều loại thuốc 
chống nấm đường uống như itraconazole 100mg uống 2viên/ngày trong 14 ngày 
hoặc terbinafine uống 250mg/ngày trong 14 ngày. Đối với nấm men candida dùng 
itraconazole 100mg uống 2viên/ngày trong 14 ngày, hoặc fluconazol 150mg uống 
2viên/ngày trong 14 ngày. 
- Viêm nang lông do vi rút herpes, có thể bôi kem acyclovir 6lần/ngày và uống 
acyclovir 400mg 3lần/ngày hoặc 200mg 5lần/ngày, hoặc valacyclovir 500mg uống 
2 lần/ngày. 
- Viêm nang lông do demodex: có thể dùng kem permethrin bôi hoặc kem 
metronidazol phối hợp với uống metronidazol 1g/ngày trong 1 tuần. 
Chú ý: đối với viêm nang lông hay tái phát cần tìm nguyên nhân, phát hiện các ổ 
vi trùng ở các hốc mũi, hậu môn... và tránh làm xây xước da do cạo râu bằng cách 
cắt râu bằng kéo. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 21_8984.pdf 21_8984.pdf