Hiện nay y giới đang chứng kiến một sự thay đổi diện mạo của viêm 
nội tâm mạc nhiễm trùng (VNTMNT) tại các quốc giaÂu Mỹ. Cho đến cuối 
thập niên 1970, bệnh van tim hậu thấp và bệnh tim bẩm sinh tím là 2 nhóm 
bệnh tim nền thường gặp nhất ở những bệnh nhân VNTMNT tại các quốc 
gia này. Sau đó các bệnh van tim hậu thấp đã dần dần biến mất. Tuy nhiên 
bù lại có nhiều yếu tốtạo thuận lợi khác xuất hiện và tăng nhanh như việc 
tiêm chích ma túy đường tĩnh mạch, phẫu thuật thay van tim nhân tạo, bệnh 
van tim thoái hóa (ở người lớn tuổi) và các thủ thuật xâm nhập có nguy cơ 
gây du khuẩn huyết. Các thay đổi này đưa đến một số hậuquả như sau : (1) 
Tần suất mắc phải VNTMNT không giảm ; (2) VNTMNT trở nên đa dạng 
hơn về cơ địa nền ; và (3) Diện mạo vi sinh học của VNTMNT có một số 
khác biệt so với trước đây 1.
Trước đây dựa vào cơ địa nền, VNTMNT thường được phân thành 2 
dạng là VNTMNT trên van nguyên gốc (native valve endocarditis) và 
VNTMNT trên van nhân tạo (prosthetic valve endocarditis). Ngày nay cách 
phân loại này không còn phù hợp. Hiện nay đa số tác giả đề nghị chia 
VNTMNT thành 4 dạng là VNTMNT trên van nguyên gốc, VNTMNT trên 
van nhân tạo, VNTMNT ở người tiêm chích tĩnh mạch (endocarditis in 
intravenous drug users) và VNTMNT liên quan với chăm sóc y tế 
(healthcare-related endocarditis) 1,2. Cụm từ "liên quan với chăm sóc y tế" 
có ý nghĩa rộng hơn là "mắc phải trong bệnh viện" (nosocomial). VNTMNT 
liên quan với chăm sóc y tế bao gồm cả những trường hợp VNTMNT xuất 
hiện ở người được chăm sóc y tế ngoại trú, ví dụ : (1) đã từng được truyền 
dịch, chăm sóc vết thương, vết mổ hoặc chăm sóc điều dưỡng đặc biệt tại 
nhà trong vòng 30 ngày trước khi bắt đầu có triệu chứng VNTMNT ; (2) đã 
từng đến một bệnh viện hoặc một đơn vị thận nhân tạo hoặc đã từng được 
hóa trị liệu đường tĩnh mạch trong vòng 30 ngày trước khi bắt đầu có triệu 
chứng VNTMNT ; (3) đã từng nhập viện ít nhất 2 ngày trong vòng 90 ngày 
trước khi bắt đầu có triệu chứng VNTMNT ; hoặc (4) đang sống trong một 
trại điều dưỡng 3. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng do cầu khuẩn Gram dương kháng thuốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng do 
cầu khuẩn Gram dương kháng thuốc 
NHỮNG THAY ĐỔI GẦN ĐÂY VỀ MẶT DỊCH TỄ HỌC CỦA 
VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM TRÙNG 
Hiện nay y giới đang chứng kiến một sự thay đổi diện mạo của viêm 
nội tâm mạc nhiễm trùng (VNTMNT) tại các quốc gia Âu Mỹ. Cho đến cuối 
thập niên 1970, bệnh van tim hậu thấp và bệnh tim bẩm sinh tím là 2 nhóm 
bệnh tim nền thường gặp nhất ở những bệnh nhân VNTMNT tại các quốc 
gia này. Sau đó các bệnh van tim hậu thấp đã dần dần biến mất. Tuy nhiên 
bù lại có nhiều yếu tố tạo thuận lợi khác xuất hiện và tăng nhanh như việc 
tiêm chích ma túy đường tĩnh mạch, phẫu thuật thay van tim nhân tạo, bệnh 
van tim thoái hóa (ở người lớn tuổi) và các thủ thuật xâm nhập có nguy cơ 
gây du khuẩn huyết. Các thay đổi này đưa đến một số hậu quả như sau : (1) 
Tần suất mắc phải VNTMNT không giảm ; (2) VNTMNT trở nên đa dạng 
hơn về cơ địa nền ; và (3) Diện mạo vi sinh học của VNTMNT có một số 
khác biệt so với trước đây 1. 
Trước đây dựa vào cơ địa nền, VNTMNT thường được phân thành 2 
dạng là VNTMNT trên van nguyên gốc (native valve endocarditis) và 
VNTMNT trên van nhân tạo (prosthetic valve endocarditis). Ngày nay cách 
phân loại này không còn phù hợp. Hiện nay đa số tác giả đề nghị chia 
VNTMNT thành 4 dạng là VNTMNT trên van nguyên gốc, VNTMNT trên 
van nhân tạo, VNTMNT ở người tiêm chích tĩnh mạch (endocarditis in 
intravenous drug users) và VNTMNT liên quan với chăm sóc y tế 
(healthcare-related endocarditis) 1,2. Cụm từ "liên quan với chăm sóc y tế" 
có ý nghĩa rộng hơn là "mắc phải trong bệnh viện" (nosocomial). VNTMNT 
liên quan với chăm sóc y tế bao gồm cả những trường hợp VNTMNT xuất 
hiện ở người được chăm sóc y tế ngoại trú, ví dụ : (1) đã từng được truyền 
dịch, chăm sóc vết thương, vết mổ hoặc chăm sóc điều dưỡng đặc biệt tại 
nhà trong vòng 30 ngày trước khi bắt đầu có triệu chứng VNTMNT ; (2) đã 
từng đến một bệnh viện hoặc một đơn vị thận nhân tạo hoặc đã từng được 
hóa trị liệu đường tĩnh mạch trong vòng 30 ngày trước khi bắt đầu có triệu 
chứng VNTMNT ; (3) đã từng nhập viện ít nhất 2 ngày trong vòng 90 ngày 
trước khi bắt đầu có triệu chứng VNTMNT ; hoặc (4) đang sống trong một 
trại điều dưỡng 3. 
Về mặt vi sinh học, các nghiên cứu gần đây cho thấy cầu khuẩn Gram 
dương vẫn là những tác nhân gây bệnh chính (hơn 80% các trường hợp 
VNTMNT) 2. Tuy nhiên đã có một sự thay đổi vị trí giữa tụ cầu khuẩn 
(staphylococcus) và liên cầu khuẩn (streptococcus). Nếu như trước đây liên 
cầu khuẩn luôn đứng hàng đầu trong số các tác nhân gây VNTMNT, hiện 
nay vị trí này đang bị tranh chấp bởi tụ cầu khuẩn. Hai tác giả Moreillon và 
Que tổng kết số liệu của 26 nghiên cứu được công bố từ 1993 đến 2003 mô 
tả 3784 đợt VNTMNT 2. Tổng kết này cho thấy tụ cầu khuẩn, đặc biệt là tụ 
cầu khuẩn vàng, đứng đầu trong số các tác nhân gây VNTMNT, kế đến là 
liên cầu khuẩn và đứng ở vị trí thứ 3 là tràng cầu khuẩn (enterococcus) (hình 
1). Tỉ lệ VNTMNT do tụ cầu khuẩn vàng tương quan thuận chiều với tỉ lệ 
người tiêm chích tĩnh mạch 2. 
Nhiều nhà nghiên cứu ở châu Á cũng ghi nhận có một sự gia tăng tỉ lệ 
tụ cầu khuẩn trong số các tác nhân gây VNTMNT. Một nghiên cứu trên 315 
ca VNTMNT tại Đài Loan cho thấy trong số các tác nhân gây bệnh, tụ cầu 
khuẩn chiếm tỉ lệ 32% và liên cầu khuẩn chiếm tỉ lệ 24% 4. Còn theo báo 
cáo kết quả theo dõi 198 ca VNTMNT của một nhóm tác giả Ấn Độ, tụ cầu 
khuẩn chiếm tỉ lệ 20% và liên cầu khuẩn chiếm tỉ lệ 23% trong số các tác 
nhân gây bệnh 5. 
Sự thay đổi về diện mạo vi sinh học cũng đã được ghi nhận riêng 
trong VNTMNT trên van nhân tạo. Theo các báo cáo trước đây, tụ cầu 
khuẩn coagulase âm đứng hàng đầu trong số các tác nhân gây VNTMNT 
trên van nhân tạo, kế đến mới là tụ cầu khuẩn vàng 6. Kể từ tháng 6/2000 
một nhóm nhà nghiên cứu từ 28 quốc gia (Hoa Kỳ, Nam Mỹ, Bắc Âu, Trung 
Âu và Nam Âu, Trung Đông, Nam Phi, Úc và New Zealand) đã phối hợp 
tiến hành một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu về VNTMNT mang tên ICE-PCS 
(International Collaboration on Endocarditis-Prospective Cohort Study) 7. 
Trong năm 2007 nhóm nghiên cứu này báo cáo kết quả theo dõi 556 ca 
VNTMNT trên van nhân tạo. Theo báo cáo này, tụ cầu khuẩn vàng là tác 
nhân gây bệnh thường gặp nhất (tỉ lệ 23%), kế đến là tụ cầu khuẩn coagulase 
âm (tỉ lệ 16,9%) 3. 
Có một hiện tượng rất đáng ngại đang diễn ra là sự gia tăng tỉ lệ các vi 
khuẩn kháng thuốc trong số các tác nhân gây VNTMNT. VNTMNT do cầu 
khuẩn Gram dương kháng thuốc có khả năng sẽ trở thành một thách thức lớn 
đối với y giới trong thế kỷ 21 8. 
 Hình 1 : Tỉ lệ VNTMNT do các tác nhân gây bệnh khác nhau (số liệu 
từ 3784 đợt VNTMNT) 2. 
CẦU KHUẨN GRAM DƯƠNG GÂY VIÊM NỘI TÂM MẠC 
NHIỄM TRÙNG 
1) Tụ cầu khuẩn : Dựa vào khả năng tiết enzym coagulase (enzym 
làm đông huyết tương), tụ cầu khuẩn được chia thành tụ cầu khuẩn 
coagulase dương (tức là tụ cầu khuẩn vàng - Staphylococcus aureus) và tụ 
cầu khuẩn coagulase âm (gồm nhiều loài, trong đó Staphylococcus 
epidermidis là tác nhân gây bệnh thường gặp nhất) 9. Dựa theo tính nhạy với 
kháng sinh, tụ cầu khuẩn được chia thành tụ cầu khuẩn nhạy meticillin và tụ 
cầu khuẩn kháng meticillin. Kháng sinh nhóm penicillin nói riêng và họ b-
lactam nói chung tác động trên vi khuẩn bằng cách bám vào và ức chế các 
protein gắn penicillin (penicillin-binding protein - PBP) dẫn đến ức chế quá 
trình tổng hợp peptidoglycan của thành vi khuẩn. Các chủng tụ cầu khuẩn 
nhạy meticillin có 4 PBP đều bị ức chế bởi meticillin và các penicillin cùng 
phân nhóm bền vững với b-lactamase (oxacillin, dicloxacillin, nafcillin), các 
cephalosporin và các carbapenem (imipenem, meropenem). Trong khi đó 
chủng tụ cầu khuẩn kháng meticillin có một PBP biến thể được gọi là PBP 2' 
hay PBP 2a. PBP 2' không có ái lực với kháng sinh họ b-lactam, do đó 
chủng tụ cầu khuẩn kháng meticillin cũng đề kháng một cách tự nhiên với 
tất cả kháng sinh họ b-lactam (bao gồm nhóm penicillin, nhóm 
cephalosporin và nhóm carbapenem). Trước đây tụ cầu khuẩn kháng 
meticillin chỉ gặp ở những bệnh nhân VNTMNT trên van nhân tạo mắc phải 
trong bệnh viện. Tuy nhiên hiện nay có một số nghiên cứu ở châu Á cho 
thấy tụ cầu khuẩn kháng meticillin chiếm tỉ lệ 7,5-11% trong số các tác nhân 
gây VNTMNT trên van nguyên gốc mắc phải trong cộng đồng 4,10. 
Tụ cầu khuẩn kháng meticillin thường cũng đề kháng các kháng sinh 
nhóm aminoglycoside và fluoroquinolone. 
Đa số tụ cầu khuẩn (kể cả các chủng kháng meticillin) vẫn còn nhạy 
với kháng sinh nhóm glycopeptide (vancomycin, teicoplanin). Tuy nhiên 
gần đây đã xuất hiện nhiều chủng Staphylococcus aureus có giảm độ nhạy 
với vancomycin (nồng độ ức chế tối thiểu - NĐƯCTT trong khoảng 8-16 
mg/l). Một số nghiên cứu cho thấy nhiễm trùng do các chủng S. aureus "có 
độ nhạy trung gian với vancomycin" này đáp ứng kém với điều trị bằng 
vancomycin 11,12. Trong năm 2002 các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ đã phân 
lập được 2 chủng S. aureus đề kháng hoàn toàn với vancomycin (một chủng 
có NĐƯCTT 32-64 mg/l và một chủng có NĐƯCTT > 1000 mg/l) 13,14. 
May mắn là cho đến nay chưa thấy xuất hiện thêm những chủng tụ cầu 
khuẩn tương tự. 
2) Liên cầu khuẩn : Các chuyên gia vi sinh lâm sàng phân loại liên 
cầu khuẩn dựa vào tính chất gây tán huyết, nhóm Lancefield, tên loài và tên 
thường dùng. Về tính chất gây tán huyết khi được nuôi cấy trên môi trường 
thạch, có một số liên cầu khuẩn tạo ra vùng tán huyết hoàn toàn quanh khúm 
vi khuẩn (gọi là tán huyết b), một số liên cầu khuẩn tạo ra vùng tán huyết 
không hoàn toàn có sắc xanh lá cây quanh khúm vi khuẩn (gọi là tán huyết a, 
hay còn gọi Streptococcus viridans, từ viridans có nghĩa là xanh lá cây) và 
một số khác không gây tán huyết. Các liên cầu khuẩn tán huyết b còn có thể 
phân thành nhiều nhóm khác nhau theo Lancefield (nhóm A, B, C...) dựa 
vào phản ứng của các kháng huyết thanh đặc hiệu với các kháng thể 
carbohydrate trên thành tế bào vi khuẩn. Trên bảng 1 là phân loại liên cầu 
khuẩn và khả năng gây VNTMNT của từng nhóm liên cầu khuẩn 15. 
Đa số liên cầu khuẩn nhạy với penicillin, tuy nhiên có một số chủng 
đã trở nên ngày càng kháng penicillin và các kháng sinh khác họ b-lactam. 
Cơ chế của sự đề kháng penicillin là hiện tượng giảm ái lực của kháng sinh 
với các protein gắn penicillin trên màng tế bào vi khuẩn 2. Liên cầu khuẩn 
được gọi là kháng penicillin ở mức trung gian (hoặc có giảm độ nhạy với 
penicillin) nếu NĐƯCTT trong khoảng 0,1-0,5 mg/l và kháng penicillin ở 
mức cao nếu NĐƯCTT > 0,5 mg/l. Đa số liên cầu khuẩn kháng penicillin ở 
mức cao vẫn còn đáp ứng tốt với vancomycin 2. 
Bảng 1 : Phân loại liên cầu khuẩn 15. 
Nhóm 
Lancefield 
Các loài đại diện Kiểu 
tán huyết 
Khả 
năng gây 
VNTMNT 
A S. pyogenes β Không 
B S. agalactiae β Có 
C, G S. dysgalactiae β Có 
D S. bovis Thường 
không gây tán 
huyết 
Có 
Streptoccus viridans: 
S.sanguis, S. mitis 
α 
Có 
Nhóm intermedius hoặc 
milleri: 
S.intermedius, S. 
anginosus, 
S. constellatus 
Thay 
đổi 
Không 
Không 
xếp nhóm 
được 
Liên cầu khuẩn yếm 
khí: 
Thường 
không gây tán 
Không 
Peptostreptococcus 
magnus 
huyết 
3) Tràng cầu khuẩn : Trước đây tràng cầu khuẩn được xếp loại 
chung với liên cầu khuẩn nhóm D. Nhờ những nghiên cứu ở mức DNA, 
ngày nay người ta tách tràng cầu khuẩn thành một họ vi khuẩn riêng. Tràng 
cầu khuẩn chiếm tỉ lệ 5-18% trong số các tác nhân gây VNTMNT 16. Vi 
khuẩn này thường xâm nhập vào máu qua các thủ thuật đại tràng, niệu đạo 
và bàng quang. Trong số các trường hợp VNTMNT do tràng cầu khuẩn, 
khoảng 80% là do Enterococcus faecalis và 10% là do Enterococcus 
faecium 16. 
Tràng cầu khuẩn có đặc điểm là đề kháng kháng sinh rất mạnh. Vi 
khuẩn này không bị tiêu diệt bởi penicillin G và ampicillin ở liều thông 
thường và đề kháng một cách tự nhiên với tất cả cephalosporin. 
Enterococcus faecium đề kháng nhóm penicillin mạnh hơn Enterococcus 
faecalis (NĐƯCTT của penicillin và ampicillin đối với E. faecium cao hơn 
gấp 8 lần NĐƯCTT của 2 kháng sinh này đối với E. faecalis). Tràng cầu 
khuẩn đề kháng penicillin qua 2 cơ chế tách biệt 15. Cơ chế thứ nhất là sản 
sinh b-lactamase gặp ở một số chủng E. faecalis. Sự đề kháng penicillin qua 
cơ chế này có thể được khắc phục bằng cách phối hợp thêm một chất ức chế 
b-lactamase, ví dụ dùng phối hợp ampicillin/sulbactam hoặc 
amoxicillin/clavulanate. Cơ chế thứ hai là sự đề kháng nội sinh do thay đổi 
protein gắn penicillin của vi khuẩn. Đây là cơ chế đề kháng chủ yếu của E. 
faecium với penicillin. Nhiễm trùng do chủng tràng cầu khuẩn đề kháng vừa 
phải (NĐƯCTT của ampicillin từ 16 đến 64 mg/l) có thể còn đáp ứng với 
penicillin hoặc ampicillin liều cao phối hợp gentamicin 15,17. 
Trong điều kiện in vitro tràng cầu khuẩn luôn luôn đề kháng 
aminoglycoside ở nồng độ thông thường (gọi là đề kháng aminoglycoside ở 
mức thấp - low-level resistance). Một số chủng đề kháng aminoglycoside ở 
mức cao (high-level resistance), biểu hiện là NĐƯCTT của gentamicin > 
500 mg/ml và NĐƯCTT của streptomycin > 2000 mg/ml. 
Từ cuối thập niên 1980 đã xuất hiện nhiều chủng tràng cầu khuẩn đề 
kháng các kháng sinh họ glycopeptide. Đa số các chủng này kháng cả 
vancomycin (NĐƯCTT > 64 mg/l) lẫn teicoplanin (NĐƯCTT > 16 mg/l). 
Kiểu đề kháng này (phenotype vanA) xuất hiện qua trung gian plasmide nên 
có thể được lan truyền giữa các chủng. Một số ít chủng kháng van comycin 
nhưng vẫn còn nhạy với teicoplanin (phenotype vanB và vanC) 1,15,17. 
ĐIỀU TRỊ VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM TRÙNG DO CẦU 
KHUẨN GRAM DƯƠNG KHÁNG THUỐC 
1) Tụ cầu khuẩn kháng meticillin: Vancomycin là kháng sinh chủ 
lực điều trị VNTMNT do tụ cầu khuẩn kháng meticillin. Việc phối hợp thêm 
gentamicin làm tăng vận tốc sát khuẩn. Trong VNTMNT trên van nhân tạo, 
việc phối hợp thêm rifampicin (nếu chủng tụ cầu khuẩn gây bệnh nhạy 
rifampicin) rất hữu ích 1,2. Trên bảng 2 là phác đồ kháng sinh trị liệu 
VNTMNT do tụ cầu khuẩn kháng meticillin. 
Bảng 2 : Kháng sinh trị liệu VNTMNT do tụ cầu khuẩn kháng 
meticillin 1,2. 
 Kháng sinh Liều dùng Thời 
gian 
VNTMNT van 
nguyên gốc 
Vancomycin 
± 
30 
mg/kg/ngày 
4-6 
tuần 
gentamicin 3 
mg/kg/ngày 
5 
ngày 
VNTMNT van 
nhân tạo 
Vancomycin 
+ 
gentamicin 
+ rifampicin 
30 
mg/kg/ngày 
3 
mg/kg/ngày 
300 mg x 
3 uống 
≥ 6 
tuần 
2 
tuần 
≥ 6 
tuần 
Một vấn đề đang được một số nhà nghiên cứu quan tâm là sự đáp ứng 
lâm sàng kém với liệu pháp vancomycin trong trường hợp NĐƯCTT của 
vancomycin đối với chủng tụ cầu khuẩn ở mức tương đối cao. Hidayat và 
cộng sự theo dõi 95 bệnh nhân nhiễm trùng bệnh viện (viêm phổi và/hoặc 
nhiễm trùng máu) do S. aureus kháng meticillin và so sánh tỉ lệ đáp ứng lâm 
sàng trong trường hợp NĐƯCTT của vancomycin ≤ 1 mg/l và ≥ 2 mg/l 18. 
Kết quả cho thấy những trường hợp NĐƯCTT ≤ 1 mg/l có tỉ lệ đáp ứng lâm 
sàng cao hơn có ý nghĩa so với những trường hợp NĐƯCTT ≥ 2 mg/l (85% 
so với 62%, p = 0,02) (hình 2). Tử vong trong những trường hợp đầu cũng 
thấp hơn so với những trường hợp sau (10% so với 24%). Từ kết quả này, 
các tác giả nghiên cứu đã cảnh báo về khả năng thất bại của liệu pháp 
vancomycin ngay cả trong những trường hợp mà NĐƯCTT của vancomycin 
đối với chủng tụ cầu khuẩn vẫn còn nằm trong khoảng được cho là nhạy. 
Hình 2 : Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng trong trường hợp NĐƯCTT của 
vancomycin ≤ 1 mg/l và ≥ 2 mg/l (Cột màu đen biểu thị tỉ lệ đáp ứng lâm 
sàng. Cột màu xám biểu thị tỉ lệ nồng độ đáy vancomycin trong máu chưa 
đạt mức gấp 4 lần NĐƯCTT). 
Để đối phó với nhiễm trùng do tụ cầu khuẩn kháng hoặc có độ nhạy 
trung gian với vancomycin, trong thời gian gần đây ngành công nghiệp dược 
đã cho ra đời một số kháng sinh mới có hoạt tính mạnh chống tụ cầu khuẩn 
(và cả tràng cầu khuẩn). Các thuốc này gồm: quinupristin- dalfopristin (là 
phối hợp một streptogramin A với một streptogramin B), linezolid (là đại 
diện đầu tiên của nhóm oxazolidinone được dùng trong lâmsàng), 
daptomycin (là một kháng sinh nhóm lipopeptide), tigecycline (đại diện đầu 
tiên của nhóm glycylcycline được dùng trong lâm sàng), oritavancin và 
dalbavancin (2 kháng sinh này là những glycopeptide bán tổng hợp). Trong 
số các kháng sinh này chỉ có daptomycin đã được nghiên cứu ở bệnh nhân 
VNTMNT do S. aureus (Kết quả cho thấy daptomycin có hiệu quả tương 
đương phối hợp vancomycin - gentamicin 19). 
2) Liên cầu khuẩn : Trong VNTMNT do liên cầu khuẩn, việc xác 
định NĐƯCTT của penicillin đối với chủng vi khuẩn rất quan trọng nhưng 
lại thường bị các thầy thuốc lâm sàng bỏ sót. Nếu NĐƯCTT của penicillin 
trong khoảng 0,1-0,5 mg/l, liều penicillin G dùng phải cao hơn là khi 
NĐƯCTT của penicillin < 0,1 mg/l (18-24 triệu đơn vị/ngày thay vì 12-18 
triệu đơn vị/ngày) và việc phối hợp thêm gentamicin (thời gian 2 tuần) trở 
thành bắt buộc chứ không còn là một lựa chọn (có thể có hoặc không) như 
trong trường hợp NĐƯCTT < 0,1 mg/l. Nếu NĐƯCTT của penicillin đối với 
chủng liên cầu khuẩn > 0,5 mg/l thì phải dùng phác đồ kháng sinh dành cho 
tràng cầu khuẩn 1,2. 
3) Tràng cầu khuẩn : Một khi đã chẩn đoán VNTMNT do tràng cầu 
khuẩn, nên yêu cầu phòng xét nghiệm vi sinh xác định NĐƯCTT của 
ampicillin (hoặc penicillin) và vancomycin đối với chủng vi khuẩn và xác 
định chủng vi khuẩn có đề kháng gentamicin và streptomycin ở mức cao hay 
không 20. 
Bản thân chủng tràng cầu khuẩn nguyên thủy đã tương đối đề kháng 
penicillin, do đó liều penicillin G dùng điều trị VNTMNT do tràng cầu 
khuẩn rất cao (18-30 triệu đơn vị/ngày, tương đương khoảng 400.000 đơn 
vị/kg/ngày). Việc phối hợp thêm gentamicin cũng là bắt buộc nếu chủng 
tràng cầu khuẩn không đề kháng gentamicin ở mức cao. Nếu chủng tràng 
cầu khuẩn kháng gentamicin ở mức cao nhưng không kháng streptomycin ở 
mức cao thì phối hợp penicillin (ampicillin) với streptomycin 1,2,17. Trong 
trường hợp chủng tràng cầu khuẩn đề kháng tất cả aminoglycoside ở mức 
cao, dùng penicillin G hoặc ampicillin đơn trị kéo dài (8-12 tuần) 1,16. Gần 
đây một nhóm tác giả Tây Ban Nha đã báo cáo việc điều trị thành công cho 
bệnh nhân VNTMNT do Enterococcus faecalis kháng aminoglycoside ở 
mức cao bằng phối hợp ampicillin - ceftriaxone liều cao (ampicillin tiêm 
tĩnh mạch 2 g mỗi 4 giờ, ceftriaxone tiêm tĩnh mạch 2 g mỗi 12 giờ, thời 
gian dùng 6 tuần) 21. 
Nếu chủng tràng cầu khuẩn kháng nhóm penicillin (NĐƯCTT của 
ampicillin > 16 mg/l) thì có 2 lựa chọn : hoặc dùng ampicillin phối hợp 
sulbactam (VNTMNT do E. faecalis tiết b-lactamase), hoặc dùng 
vancomycin thay cho kháng sinh nhóm penicillin 1,17,22. 
Đa số chủng E. faecalis kháng vancomycin và một số ít chủng E. 
faecium kháng vancomycin còn nhạy với b-lactam liều cao 17. Một số 
nghiên cứu cho thấy có thể dùng ampicilline liều cao phối hợp imipenem 
hoặc ceftriaxone để điều trị VNTMNT do các chủng vi khuẩn này 1,17,20. 
Trong trường hợp chủng tràng cầu khuẩn kháng cả penicillin lẫn 
vancomycin và aminoglycoside ở mức cao (có thể gặp với E. faecium), chưa 
có một phác đồ kháng sinh nào được chứng minh là có hiệu quả. Kháng sinh 
được đề nghị trong trường hợp này là linezolid, quinupristin-dalfopristin 
hoặc daptomycin 1,15,17. 
Trên bảng 3 tóm tắt các phác đồ kháng sinh trị liệu VNTMNT do 
tràng cầu khuẩn, 
Trong VNTMNT do tràng cầu khuẩn thời gian dùng aminoglycoside 
là 4-6 tuần (so với chỉ 1-2 tuần trong VNTMNT do tụ cầu khuẩn hoặc liên 
cầu khuẩn). Vì thời gian dùng aminoglycoside kéo dài, bệnh nhân cần được 
theo dõi định kỳ chức năng thận. Ở người có chức năng thận bình thường, 
liều gentamicin khởi đầu là 3 mg/kg/ngày chia 3 lần và liều streptomycin là 
15 mg/kg/ngày chia 2 lần 20. Nếu có điều kiện nên theo dõi nồng độ 
aminoglycoside trong máu. Liều gentamicin cần được điều chỉnh để đạt 
nồng độ đỉnh 3-4 µg/ml và nồng độ đáy < 1 µg/ml. Liều streptomycin cần 
được điều chỉnh để đạt nồng độ đỉnh 20-35 µg/ml và nồng độ đáy < 10 
µg/ml 20. 
Bảng 3 : Kháng sinh trị liệu VNTMNT do tràng cầu khuẩn 1,20. 
 Kháng sinh Liều/ngày Số 
tuần 
Chủng nhạy Ampicillin 12 g 4-
penicillin, vancomycin, 
aminoglycoside 
hoặc 
penicillin G 
+ gentamicin 
18-30 
triệu đơn vị 
3 mg/kg 
6 
4-
6 
4-
6 
Chủng nhạy 
penicillin, vancomycin, 
streptomycin, kháng 
gentamicin 
Ampicillin 
hoặc 
penicillin G 
+ 
streptomycin 
12 g 
18-30 
triệu đơn vị 
15 mg/kg 
4-
6 
4-
6 
4-
6 
Chủng nhạy 
penicillin, kháng tất cả 
aminoglycoside 
Ampicillin 12 g ≥ 
8 
Chủng kháng 
penicillin (tiết b-
lactamase), nhạy 
vancomycin và 
aminoglycoside 
Ampicillin-
sulbactam 
+ gentamicin 
12 g 
3 mg/kg 
6 
6 
Chủng kháng 
penicillin (nội sinh), nhạy 
vancomycin và 
aminoglycoside 
Vancomycin 
+ gentamicin 
30 mg/kg 
3 mg/kg 
6 
6 
Ampicillin 
+ imipenem 
12 g 
2 g 
≥ 
8 
≥ 
8 
E. faecalis kháng 
penicillin, vancomycin, 
aminoglycoside 
hoặc 
ampicillin 
12 g ≥ 
8 
+ ceftriaxone 4 g ≥ 
8 
E. faecium kháng 
penicillin, vancomycin, 
aminoglycoside 
Linezolid 
hoặc 
quinupristin-
dalfopristin 
1200 mg 
22,5 
mg/kg 
≥ 
8 
≥ 
8 
Ghi chú : Ở trẻ em liều ampicillin tính theo cân nặng là 300 
mg/kg/ngày, liều vancomycin là 40 mg/kg/ngày, liều imipenem là 60-100 
mg/kg/ngày, liều linezolid là 30 mg/kg/ngày. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 8_6.pdf 8_6.pdf