Trong các chương trình render cho 3dsMax, Vray là một chương trình được sử 
dụng phổ biến nhất. Hoàn toàn không phóng đại khi nói Vray phổ biến đến mức 
bằng tổng các renderer khác như mental ray, finalRender и brasil r/s cộng lại. Điều 
đó càng thể hiện rõ với thuật toán và nhân của chương trình được nghiên cứu và 
hoàn thiện bởi một nhóm người. 
Tính phổ biến của chương trình có những nguyên nhân xác đáng. Thứ nhất, VRay 
dùng trong các phép tính của nó phương pháp chuyển đổi tính toán –nó được xây 
dựng hoàn toàn trên cơ sở của phương pháp Monter-Carlo. Trong phương diện này 
có thể VRay được dùng như là 1 ví dụ để trình diễn chương trình theo phương pháp 
Monter-Carlo. Nhưng ngoài ra, VRay có 1 loạt đổi mới thú vị các công nghệ xử lý, 
cung cấp thêm cho VRay những ưu thế trong chất lượng và tốc độ tính toán. Bài 
viết này sẽ trình bày về các cơ chế tình toán cơ bản bên trong VRay và cung cấp 
cho người đọc một số phương pháp sử dụng hiệu quả chương trình này.
              
                                            
                                
            
 
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu VRay – Định nghĩa và cách sử dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VRay – Định nghĩa và cách sử dụng 
Mở đầu 
Trong các chương trình render cho 3dsMax, Vray là một chương trình được sử 
dụng phổ biến nhất. Hoàn toàn không phóng đại khi nói Vray phổ biến đến mức 
bằng tổng các renderer khác như mental ray, finalRender и brasil r/s cộng lại. Điều 
đó càng thể hiện rõ với thuật toán và nhân của chương trình được nghiên cứu và 
hoàn thiện bởi một nhóm người. 
Tính phổ biến của chương trình có những nguyên nhân xác đáng. Thứ nhất, VRay 
dùng trong các phép tính của nó phương pháp chuyển đổi tính toán – nó được xây 
dựng hoàn toàn trên cơ sở của phương pháp Monter-Carlo. Trong phương diện này 
có thể VRay được dùng như là 1 ví dụ để trình diễn chương trình theo phương pháp 
Monter-Carlo. Nhưng ngoài ra, VRay có 1 loạt đổi mới thú vị các công nghệ xử lý, 
cung cấp thêm cho VRay những ưu thế trong chất lượng và tốc độ tính toán. Bài 
viết này sẽ trình bày về các cơ chế tình toán cơ bản bên trong VRay và cung cấp 
cho người đọc một số phương pháp sử dụng hiệu quả chương trình này. 
Các nguyên lý cơ bản 
Nhiệm vụ cơ bản của bất kỳ chương trình renderer nào là tính toán sự chiếu sáng và 
màu sắc của một điểm bất kỳ của khung cảnh 3 chiều. Nhiệm vụ đó rất là phức tạp. 
Các phương pháp tính toán của đồ họa máy tính đã vượt qua một chặng đường phát 
triển khá dài, trước khi người ta đạt tới trình độ như ngày nay về hiện thực hóa các 
bức ảnh bằng sự trình diễn của máy tính. 
Thứ nhất, chúng ta đã biết rằng các vật thể được nguồn sáng chiếu sáng trực tiếp, 
khi mà vật thể và nguồn sáng có thể nối với nhau bới một đường thẳng. Mô hình sự 
chiếu sáng Fong và mô hình đổ bóng Fong, những thứ đã cho phép làm mềm mầu 
của các poligon bề mặt và tính ra những chỗ sáng nổi bật –highlight, đã trở thành 
đỉnh cao của mô hình tính toán này. Mô hình chiếu sáng đó cũng như các phép biến 
đổi của nó (Lambert, Blin, Torrent, Ward và những cái khác) bây giờ vẫn là nền 
tảng để tính toán sự chiếu sáng trực tiếp, chỉ thêm 1 chút bổ sung. Một trong các bổ 
sung quan trọng nhất , sự tính toán các kích thước không gian của nguồn sáng, cho 
phép nhận được các vết mờ của bóng vật thể. Một bổ sung khác là xác định sự 
giảm dần cường độ ánh sáng theo khoảng cách. Về chi tiết, các phép tính vật lý 
chính xác sự chiếu sáng sử dụng định luật cường độ tia sáng giảm dần theo bình 
phương khoảng cách. 
Thành phần thứ hai của sự chiếu sáng vật thể được xác định bằng phản xạ (hay gần 
với nó) từ các vật khác và không gian xung quanh vật thể. Để thực hiện pháp tính 
đó người ta đã nghĩ ra phương pháp dò tia - ray tracing. Phương pháp này dò theo 
đường đi của các tia sáng, bắt đầu từ Camera, tới bề mặt đầu tiên và sau đó phụ 
thuộc vào tính trong suốt hay phản xạ của bề mặt, xác định hướng đi tiếp theo của 
tia sáng. Phương pháp dò tia từ camera lần đầu tiên cho phép tính đến môi trường 
xung quanh trong sự chiếu sáng vật thể và đã hiệu quả hơn sự dò tia từ nguồn sáng, 
bởi vì chỉ tính xem xét đến các tia sáng tới được camera. Một trong những nhược 
điểm của phương pháp dò tia cổ điển là tính cứng nhắc của hình ảnh nhận được, sự 
rõ ràng quá mức của các đường bao, bóng đổ và màu sắc. Vì thế sau đó nguời ta đã 
làm ra phép chỉnh sửa sự phân bổ dò tia - distribution ray tracing (DRT). Bản chất 
của DRT là ở chỗ trong mỗi lần giao cắt giữa các tia dò từ bề mặt trên đường đi của 
nó, từ mỗi điểm giao nhau được xây dựng không chỉ một mà nhiều tia sáng. Quá 
trình này phần nào gợi nhớ đến chuỗi phản ứng. Hướng giải quyết đó đã cho phép 
tính ra các phản xạ và khúc xạ yếu dần (như là các phản xạ và khúc xạ fuzzy, blurry 
hay glossy), nhưng mà kèm theo sự gia tăng đáng kể khối lượng tính toán. Mô hình 
DRT được thực hiện trong các tính chất của vật liệu VRay phản xạ và khúc xạ với 
sự giúp đỡ của thông số Glossy. Do cái giá quá đắt của các phép tính DRT, sự 
chậm chạp trong tính toán glossy-material VRay đã trở thành «điều mà ai cũng nói 
đến». 
Thành phần thứ ba của quá trình chiếu sáng vật thể được tính toán qua sự khuếch 
tán nhiều lần màu sắc của các đối tượng xung quanh. Phương pháp đầu tiên dùng 
để tính sự chiếu sáng khuyếch tán thứ cấp là radiosity, mặc dù vẫn được sử dụng 
cho tới giờ, với sự tồn tại một loạt yếu kém, nó đã nhường chỗ cho 2 phương pháp 
tính khác tiến bộ hơn – Phương pháp Monte-Carlo và phương pháp Photon map. 
Phương pháp bản đồ photon tạo ra cho mỗi mặt phẳng của đối tượng trong khung 
cảnh một cơ sở dữ liệu, trong đó lưu trữ thông tin về sự va chạm của photon với bề 
mặt - tọa độ va chạm, hướng và năng lượng của photon. Photon được hiểu là phần 
năng lượng của sự chiếu sáng, truyền theo một hướng nhất định từ nguồn sáng. Mật 
độ photon của bản đồ được dùng trong các tính toán tiếp theo để đánh giá sự chiếu 
sáng của điểm trong kết quả của sự phân tán khuyếch tán ánh sáng trên các bề mặt 
xung quanh. Tất cả các renderer, sử dụng phương pháp bản đồ photon, thực hiện sự 
tính toán chiếu sáng qua 2 bước. Bước thứ nhất thực hiện dò photon từ nguồn sáng 
đến bề mặt và tạo ra bản đồ photon cho chúng. Bước thứ hai thực hiện quá trình dò 
tia ngược lại từ camera, còn bản đồ photon được sử dụng để tính toán sự chiếu sáng 
khuếch tán của các điểm giao nhau giữa tia dò ngược với mặt phẳng. 
Thứ tư, sự chiếu sáng được xác định bằng các trường hợp đặc biệt – tính các hiệu 
ứng ánh sáng xuất hiện trong kết quả tụ vào tiêu điểm do sự khuếch tán và phản xạ 
của tia sáng trên một số vùng của bề mặt. Các hiệu ứng này được gọi là các hiệu 
ứng quang tụ (caustic) của sự chiếu sáng, mà minh họa tuyệt vời từ thực tế có thể là 
thấu kính hội tụ ánh sáng mặt trời lên bề mặt vật thể.. Sự tính toán các hiệu ứng 
quang tụ của ánh sáng được thực hiện bằng phương pháp bản đồ photon, nhưng với 
yêu cầu bản đồ photon cục bộ có mật độ rất cao. Vì thế các bản đồ photon được tạo 
riêng biệt với sự xuất hiện các nhu cầu. 
Để kết thúc các ý nói trên, có thể khẳng định rằng: với trình độ phát triển hiện nay 
của các phương pháp tính toán đồ họa máy tính cho phép tính toán sự chiếu sáng 
một điểm bất kỳ trong khung cảnh 3D như tổng của 4 thành phần: chiếu sáng trực 
tiếp, phản xạ và khúc xạ, phát tán khuếch tán thứ và các hiệu ứng quang tụ ánh 
sáng. 
Để tính toán chính xác tất cả ánh sáng, đi qua 1 điểm nào đấy trên mặt phẳng, cần 
phải tính tổng tia sáng, đi tới điểm đó từ mọi hướng. Điều đó dẫn đến sự cần thiết 
tích phân ánh sáng theo nửa bán cầu, bao quanh điểm, nếu điểm nằm trên 1 bề mặt 
không trong suốt hoặc theo hình cầu bao xung quanh nếu điểm nằm trên một bề 
mặt trong suốt. Để tính toàn bộ ánh sáng trong đồ họa máy tính sử dụng các hàm, 
miêu tả 4 thánh phần ánh sáng – hàm nguồn sáng, hàm của các tính chất phản xạ 
(lý tưởng), khúc xạ của các bề mặt và hàm khuếch tán các phản xạ của các bề mặt. 
Hai hàm cuối thường được hợp nhất và được gọi là BRDF - Bidirectional 
Reflectance/Refractance Distribution Function (hàm rẽ nhánh phân bố phản 
xạ/khúc xạ). Mặt khác phép tính giải tích chính xác của các tích phân như vậy trong 
hầu hết trường hợp là không thể, vì thế để tìm ra kết quả các phép tính khác nhau 
đã được sử dụng 
Một trong các phương pháp cơ bản là phương pháp Monte-Carlo. Trong ý tưởng cơ 
bản, phương pháp Monter Carlo cho phép tính ra giá trị tích phân như tổng của một 
số lượng không lớn giá trị của các hàm dưới tích phân, được chọn ngẫu nhiên. 
Thực tế, phương tiện toán học của phương pháp Monter Carlo cho phép xác định 
sự lựa chọn những giá trị đó, bởi vì phụ thuộc vào nó là sự chính xác và tốc độ tìm 
ra kết quả tích phân. Được lựa chọn để tính giá trị của các hàm dưới tích phân 
thường được gọi là samples. Hiện tại, phương pháp Monter Carlo là tiêu chuẩn “ 
bất thành văn” cho các render đồ họa máy tính 3 chiều và được sử dụng hết sức 
rộng rãi – hầu như trong phần lớn các chương trình hàng đầu. Mặt khác phương 
pháp đó có một nhược điểm nghiêm trọng – chậm chạp trong tìm kết quả. Cụ thể 
điều đó có nghĩa là, để tăng chất lượng tính toán ánh sáng, ví dụ lên 2 lần thì khối 
lượng tính toán sẽ tăng gấp 4 lần (số sample). Yếu kém trong render là – những vết 
bẩn màu, các hạt và sự giả tạo trên 
Phương pháp Photon map được thiết kế như sự xen kẽ của phép tính sự chiếu sáng 
khuếch tán thứ cấp bằng phương pháp Monter Carlo và thay thế phép tính tích phân 
tương ứng. Giải pháp đó có một loạt ưu điểm và cả nhược điểm. Ưu điểm chính của 
Photon map là tốc độ và sự hoàn chỉnh của phép tính. Các nhược điểm của nó liên 
quan đến những yêu cầu bộ nhớ lớn và sự khó khăn trong việc liên kết các vết nối, 
các góc và đường biên của bề mặt. 
Chương trình cốt lõi của Vray được xây dựng trên phương pháp Monter Carlo. 
Vray cũng sử dụng phương pháp Photon map, nhưng không như sự xen kẽ với 
phương pháp Monter Carlo (giống như trong Mental ray), mà như một sự bổ sung. 
Nói cụ thể hơn là, để tính khuếch tán sơ cấp (tia sáng từ nguồn đi đến bề mặt, phản 
chiếu và va vào điểm cần tính sáng) trong Vray sử dụng phương pháp Monter 
Carlo. Dành cho tất cả các khuếch tán tái phản xạ, bắt đầu từ lần thứ 2 ( tia sáng lần 
thứ 2 hay nhiều hơn phản chiếu từ các bề mặt khác trước khi đến điểm cần tính), có 
thể sử dụng phương pháp Monter Carlo cũng như phương pháp Photon map. Trong 
thuật ngữ của Vray, khuếch tán lần thứ nhất được gọi là First diffuse bounces – sự 
bật lên thứ nhất, tất cả những sự tái phản xạ khác - secondary bounces, hay là sự 
bật lên thứ cấp. Cách tiếp cận đó khá hợp lý bởi vì như ta đã rõ, phần chính ánh 
sáng khuếch tán của điểm được tạo thành từ chính sự phản xạ thứ cấp. Đóng góp 
của các quá trình phản xạ còn lại không lớn, do kết quả của sự giảm rất nhanh của 
cường độ phản xạ khuếch tán cùng với quá trình gia tăng số lượng của chúng. Bằng 
cách đó, sự kết hợp phương pháp Monter Carlo và Photon map trong Vray đã đảm 
bảo tính chính xác và tốc độ cao hơn trong tính toán, so với các chương trình render 
đối thủ khác 
Sử dụng Photon map cho tính toán phản xạ qua lại được ưa thích hơn nhiều lần bởi 
vì nó cho phép nhận được kết quả nhanh hơn và chất lượng hơn. Mặt khác, vì 
Photon map không thể làm việc với các nguồn sáng như Skylight, HDRI và hạn chế 
truy cập vào bộ nhớ, trong tính toán khung cảnh mở và trong một vài trường hợp 
khác Photon map thường được thay thế bằng phương pháp Monter 
Các thông số điều khiển của VRay 
VRay: QMC Sampler 
Nhóm các biến điều khiển trong Vray bằng các tính chất chung của phương pháp 
Monte-Calro, đặt trong bảng dưới đây: 
Giá trị các thông số này xác định các Sampler sẽ được sử dụng trong tính toán mọi 
giá trị theo phương pháp Monter-Carlo. Ghi nhớ là thưc tế tất cả các giá trị, được 
tính bởi Vray, tất cả các dạng chiếu sáng, khúc xạ và phản xạ, translucency, caustic 
và các loại khác, đều sử dụng phương pháp đó. Kết quả là phụ thuộc vào những xác 
lập này tốc độ tính toán cũng như độ chính xác và do đó kéo theo mối quan hệ thời 
gian/chất lượng render hình 
Lock to pixels được dùng để loại đi những điểm nhấp nháy trong hoạt cảnh. Nếu 
dấu tick được đánh trong ô trống bên cạnh thông số này một liên kết chặt chẽ của 
giá trị các điểm cần tính sẽ được sử dụng đối với các điểm của hình sao cho các giá 
trị đó giống nhau tương ứng với các điểm trong các hình (frame) liền kề. Phương 
pháp Monter Carlo có tính ngẫu nhiên vì thế với sự giúp đỡ của nó cùng một giá trị 
có thể nhận những kết quả hơi khác nhau trong các điều kiện tương tự. Nếu ta tính 
ảnh tĩnh thì giá trị này có thể mạnh dạn để ở chế độ tắt. Lock to pixels và tăng 
samples cho tính toán các giá trị là 2 phương pháp cơ bản để chống lại sự nhấp 
nháy (flickering) trong các hoạt cảnh được tính bởi VRay 
Adaptation by effect on final result (importance sampling) – kỹ thuật được dùng để 
chọn các samples. Trong tính toán tích phân sự chiếu sáng bằng phương pháp 
Monter Carlo các giá trị của các hàm dưới tích phân (samples) được chọn theo một 
qui luật ngẫu nhiên nào đó trong giới hạn của hàm (bán cầu cho tính sáng của điểm 
trên mặt không trong suốt và hình cầu cho điểm trên mặt trong suốt) sẽ được sử 
dụng. Thú vị là samples có thể có tính hình học như hướng, dọc theo nó các giá trị 
của hàm sẽ được tính - nói một cách khác nó giống như từ điểm sẽ sinh ra tia để lấy 
samples. Kỹ thuật importance sampling để chọn những điểm bằng phương pháp 
chú trọng hay giá trị của những điểm cụ thể của samples cho một kết quả cụ thể. 
Nếu tia để lấy samples dọc theo một hướng nào đó đem lại ít giá trị chiếu sáng hoặc 
thậm chí bằng 0, các samples được lấy tiếp theo theo hướng đó hoặc gần với nó sẽ 
không được lấy. Một ví dụ khác – để tính một khúc xạ tối sẽ không cần nhiều 
samples. Trong mọi trường hợp, bật thông importance sampling sẽ ép buộc chuyển 
động của Vray tìm kiếm và lựa chọn cho tính toán những giá trị lớn (và vì thế quan 
trọng hơn cho hình ảnh) samples và bỏ đi những samples có giá trị thấp. Giá trị 
Amount điều khiển sự cao độ trong sử dụng kỹ thuật importance sampling khi tính. 
Giá trị 0 sẽ tắt hoàn toàn sự sử dụng Нулевое importance sampling, còn với 
Amount = 1 tất cả các samples sẽ phải qua tuyển chọn. Trong phần lớn trường hợp 
sử dụng kỹ thuật importance sampling hết sức hữu ích đối với các renderer – đưa 
đến sự gia tăng trông thấy về tốc độ trong khi vẫn đảm bảo chât lượng tính toán 
cao. Mặt khác kỹ thuật importance sampling với tính chất ngẫu nhiên của mình có 
thể đem lại những kết quả dở ngoài mong muốn – đó không phải là một nghich lý, 
đôi lúc tắt thông số đó có thể có lợi vì sẽ làm giảm nhiễu trong tính toán. Như vậy 
giảm Amount sẽ dẫn tới tăng chất lượng render và tăng cả thời gian tính toán. 
Chiến lược với thông số này có thể là như sau – tăng Amount, nếu nó không dẫn 
đến những thuyên giảm nghiêm trọng về chất lượng hình ảnh và giảm nó nếu 
render không có một lỗi nhiễu nào cả. Theo mặc định Amount = 1 
Adaptation by sample values (early termination) – cho phép Vray phân tích các giá 
trị samples và bỏ quá trình lấy samples nếu như những gí trị đó gần giống nhau. 
Nói một cách khác nếu như các giá trị của samples ít khác nhau thì thay vì tính tiếp 
các giá trị của samples mới các giá trị của samples đã tính sẽ được sử. Nếu như các 
samples khác nhau rõ rệt thì số lượng chúng được chọn sẽ lớn hơn. Thông số 
Amount xác định mức độ áp dụng kỹ thuật này. Với Amount = 0 kỹ thuật này hoàn 
toàn không được sử dụng, với Amount =1 early termination sử dụng số lượng nhỏ 
nhất có thể được các tia samples. Nếu như cần chất lượng tính toán cao thì dùng 
Amount = 0, nhưng trả giá cho điều đó là sự gia tăng thời gian rander. Chiến lược 
cho thông số này giống như với thông số importance sampling , giá trị Amount mặc 
định = 0. 
Min. samples – Thiêt lập số lượng nhỏ nhất được cho phép samples. Tức là số 
samples dùng cho tính toán 1 giá trị nhất định không thể nhỏ hơn giá trị 
Noise threshold – trọng tài, người phân sử, quyết định, khi nào giá trị nhận được đủ 
tốt cho hình ảnh. Các giá trị kết quả sẽ được tự so sánh với nhau theo từng bước. 
Nếu sự khác nhau lớn hơn giá trị Noise threshold thì các samples bổ sung sẽ được 
tính, nếu sự khác nhau nhỏ hơn thì quá trình tính kết thúc. Rõ ràng là thông số này 
có ảnh hưởng trực tiếp nhất tới chất lượng ( độ nhiễu ) và tốc độ render. Tăng nó 
lên có thể làm sự tính toán trở nên rất nhanh và nhiễu và ngược lại 
Những thông số trình bầy ở trên cho phép Vray linh động nhân các quyết định về 
số samples để tính toán giá trị này hoặc giá trị kia một cách trực tiếp trong quá trình 
tính. Nếu Amount của importance sampling và early termination có giá trị là 0 
chúng ta sẽ nhận được render có khả năng cao nhất của Vray về chất lượng. Thời 
gian tính cũng sẽ là lớn nhất còn số samples sẽ gần với số subdivs, được định cho 
GI trong thiết lập nguồn. Nếu giá trị Amount của importance sampling và early 
termination bằng 1, render sẽ là tối thiểu (nhưng hoàn toàn không có nghĩa là tồi) 
chất lượng, thời gian tính cũng sẽ là ngắn nhất có thể được còn số samples sẽ gần 
với giá trị đã định trong Min. Samples. Điều đó giống như 2 mặt đối nghịch, trong 
giới hạn đó xác định mọi giá trị thiết lập trung gian, tiêu tốn cho thời gian và chất 
lượng render 
Hình.02-08. Xác lập cả 2 giá trị Amount = 0, Noise threshold=0.005. 
Hình.02-09. Xác lập cả 2 giá trị Amount =1, Noise threshold=0.005. Nhận thấy là 
hình ảnh thu được giống lần trước nhưng thời gian rander giảm đi 2.5 lần 
Hình.02-10. Xác lập cả 2 giá trị Amount =1, Noise threshold=0.1. Giảm Noise 
threshold càng tăng tốc độ tính nhưng đã làm tồi đi rõ rệt chất lượng hình ảnh 
(nhiễu ở góc và trên các vết nối của tường và sàn, xuất hiện các hạt trong bóng ) 
Các giá trị đặt sẵn trong Vray theo mặc định của Amount và Noise threshold khá đa 
năng và tự nhiên trong hầu hết các trường hợp, hoặc chúng có thể là những giá trị 
khởi đầu cho các thử nghiệm cá nhân. Thay đổi chúng chỉ nên khi có sự hiểu biết 
thực sự và sâu sắc. Khuyến cáo không nên để giá trị 0 cho Noise threshold – điều 
đó có thể dẫn Vray tới những vòng tính toán lặp vô hạn, hoặc nhanh hơn, tới sự kết 
thúc thảm bại công việc của chương trình 
QMC –Monter Carlo, phương pháp được sử dụng bởi Vray khác biệt với Monter 
Carlo “cổ điển” ở chỗ nhờ việc sử dụng early termination và importance sampling. 
Chúng cho phép chọn các samples , điều làm cho những sample này không hoàn 
toàn ngẫu nhiên như trong phương pháp Monter Carlo chuẩn 
Tính GI (Chiếu sáng toàn cảnh - Global Illumination) 
Để tính tành phần đầu tiên – chiếu sáng trực tiếp, Vray có riêng thuật toán có khả 
năng làm việc độc lập. Để chắc chắn về điều đó rất đơn giản, chỉ cần render 1 
khung cảnh 3 D không có GI ( bỏ dấu tick trong hộp chọn “On” trong bảng VRay: 
Indirect Illumination). Trong kho công cụ của modul tính chiếu sáng trực tiếp có 
khả năng làm việc với các nguồn sáng không gian nên tính các mép bóng mềm 
không tạo thành vấn đề gì. Các xác lập chiếu sáng trực tiếp có trong các thông số 
của nguồn sáng và bóng (sự giảm dần, loại nguồn sáng, thông số của bóng v.v..) 
Hình.02-02. Chỉ tính chiếu sáng trực tiếp. Tất cả các vùng không nằm trong giới 
hạn nhìn thấy của nguồn sáng đều nằm trong bóng tối. Bóng mềm là kết quả của 
thao tác với nguồn sáng không gian 
Tắt chiếu sáng trực tiếp hoàn toàn có thể làm được, để làm điều đó ta sử dụng nút 
Exclude trong bảng xác lập của nguồn sáng. Ứng dụng này có ích cho phân tích 
map ở dạng nguyên thể và ảnh hưởng đối với chúng các xác lập của các thông số. 
Ví dụ, tách vật thể ra khỏi sự chiếu sáng không ảnh hưởng tới Photon map bởi vì 
nó, nếu trong tính chất của nguồn sáng có đặt Generate diffuse, sẽ tính toán Photon. 
Phép tính Photon mạp cũng chỉ có thể tắt ở đó. Cũng có thể lựa chọn bật hoặc tắt 
các vật thể khỏi Photon map nếu trong tính chất của các vật thể xác định bỏ đi dấu 
tick trong mục Receive GI и Generate GI (trong bảng Vray: System>Object 
settings ) 
Cũng có sẵn trong Vray thuật toán riêng để tính dò tia ngược, nó cũng là một bộ 
phận độc lập của hệ thông tính. Một phần thiết lập của ray tracing nằm trong bảng 
VRay: Global Switches и VRay: Image Sampler (Antialiasing), phần khác trong 
thông số vật liệu VRayMtl. 
Tính toán thành phần chiếu sáng thứ ba – khuếch tán phản xạ của sự chiếu sáng là 
một trong những thuật toán quan trọng nhất của Vray và cũng tương đối độc lập với 
những thành phần chiếu sáng khác. Các xác lập cơ bản của việc tính GI nằm trong 
bảng VRay: Indirect Illumination, các xác lập bổ sung khác rải rác trong hầu hết 
các bảng còn lại của Vray. Chúng ta sẽ xem sét nó lần lượt. Việc tính GI có thể bật 
hoặc tắt tùy ý trong hộp chọn “On” trong bảng VRay: Indirect Illumination. 
Các xác lập của thành phần chiếu sáng thứ tư – caustic – hiệu ứng quang tụ nằm 
trong bảng VRay: Caustic и VRay: System (Object settings и Light settings). 
Như vậy, Vray có cấu trúc modul rõ ràng, cho phép bật hoặc tắt của thành phần này 
hay thành phần kia của sự chiếu sáng không phụ thuộc vào các phần còn lại, điều 
này tiện lợi cho việc xác lập các thông số. Tiếp theo ta sẽ chỉ xem sét chi tiết chiếu 
sáng khuếch tán không trực tiếp (GI) 
Các xác lập cơ bản của GI. 
Để tính chỉ Indirect Illumination VRay cung cấp 3 phương pháp cơ bản: 
• Tính trực tiếp - Direct computation; 
• Irradiance map; 
• Photon map (Global photon map). 
Có thể thấy đặc điểm của các cách tính là chia các dạng khuếch tán phản xạ ra làm 
2 - Khuếch tán bật ra lần thứ nhất (ánh sáng đầu tiên đi đến một bề mặt nào đó, 
khuếch tán một cách phản xạ từ đó chỉ 1 lần rồi sau đó đi vào điểm cần tính sáng) 
và các loại khuếch tán còn lại (ánh sáng, cho tới khi đến điểm cần tính sáng đã 
phản xạ bởi các bề mặt của khung cảnh 2 lần hoặc nhiều hơn thế). Ý tưởng của việc 
chia ở trên – nó liên quan đến sự chú trọng đóng góp của chính lần khuếch tán đầu 
tiên của phản xạ ( lần bật lên khuếch tán đầu tiên của photon), sự đóng góp của các 
lần còn lại sẽ nhanh chóng tắt theo chiều tăng của số lần phản xạ. Để tính 2 loại nảy 
bật đó có thể dùng 4 bộ kết hợp khác nhau của 3 phương pháp tính ở trên 
• Tính trực tiếp - Direct computation cho lần bật lên khuếch tán đầu tiên và tính 
trực tiếp - direct computation (direct+direct) hay photon map (direct +photon) cho 
các lần bật lên sau; 
• Irradiance map cho lần đầu tiên bật lên và tính trực tiếp (irr_map+direct) hay 
photon map cho các lần bật lên sau (irr_map+photon). 
Рис.02-04. Chỉ có chiếu sáng trực tiếp và một lần khuếch tán phản xạ (lần khuếch 
tán bật lên đầu tiên - first diffuse bounces) 
Hình.02-05. Chiếu sáng trực tiếp và tất cả các lần khuếch tán phản xạ, được tính 
bằng phương pháp irradiance map cho lần bật lên khuếch tán đầu tiên và phương 
pháp photon map cho các lần bật lên khuếch tán tiếp theo. 
Hình.02-05a. Chỉ có sự bật lên khuếch tán đầu tiên ( Sự phản xạ qua lại đầu tiên ), 
được tính bằng phương pháp irradiance map. Để thấy hình ảnh này có thể tính sự 
chiếu sáng trực tiếp và GI với first diffuse bounces - on, secondary bounces - off và 
lưu irradiance map đã tính vào file. Sau đó tắt tất cả các vật thể của khung cảnh ra 
khỏi sự chiếu sáng trực tiếp và render với irradiance map được load từ file. 
Hình.02-05b. Còn bản thân Photon map được thấy như thế này. Để thấy nó ta tắt 
các vật thể ra khỏi sự chiếu sáng trực tiếp và tính first diffuse bounces>Global 
photon map, secondary bounces - off. 
Hình.02-05c. Photon map và ánh sáng trực tiếp, không có sự bật lên phản xạ thứ 
nhất 
Chiếu sáng trực tiếp - Direct computation (DC) dùng để tính sự chiếu sáng khuếch 
tán bằng phương pháp Monter Carlo. Tên khác của phương pháp này là “ Thô lực”. 
Khi tính direct+direct cho mỗi điểm một nửa bán cầu có kích thước đơn vị sẽ được 
xây dựng và việc lấy samples của hàm dưới tích phân sẽ được tiến hành ( Số lượng 
samples được biểu diễn trong xác lập Subdivs của nhóm First diffuse 
bounces>Direct computation), mà phần cốt lõi của nó là phần khuếch tán BRDF. 
Việc lấy samples BRDF là sự lựa chọn ngẫu nhiên một trong các giá trị cụ thể của 
nó, điều đó tương đương với việc chọn một hướng cụ thể (góc) chiếu xuống của 
ánh sáng. Theo hướng đó tia dò sẽ dò tới giao điểm mới với bề mặt gần nhất. Tại 
điểm mới sự chiếu sáng trực tiếp của nó sẽ được tính (đó sẽ là sự bật lên phản xạ 
đầu tiên) và quá trình tính các lần phản xạ tiếp theo cần phải lặp lại - xây dựng bán 
cầu ( hoặc cả hình cầu cho bề mặt trong suốt), lấy samples theo số lượng subdivs 
của nhóm Secondary bounces>direct computation, tia dò mới sẽ dò như thế tiếp 
cho đến khi đạt được Depth – độ sâu của tia dò. Bởi vì sự phản xạ qua lại sẽ nhanh 
chóng tắt đi cùng với sự gia tăng số lần phản xạ, thêm một yếu tố hạn chế số lượng 
samples và độ sâu tia dò, ngoài Depth, đó là QMC Sampler – với importance 
sampling và early termination. 
Tính bằng “thô lực” thu được kết quả về sự phân bố nửa bóng (phần chuyển bóng) 
rất chính xác hoàn toàn không bị gián đoạn. Nhưng thực sự rất lâu. Ví dụ, nếu chọn 
Subdivs bằng 50 cho cả 2 loại bật lên phản xạ, thì số tia samples cho mỗi điểm sẽ là 
2500, tức là sẽ có 2500 новых điểm mới, mà tại mỗi điểm đó sẽ lại tiến hành dò 
2500 tia của chúng, và sẽ nhận được 2500 điểm nữa, cứ thế quá trình tiếp diễn 
trong khi xác lập QMC vẫn cho phép. Quá trình rất nhanh chóng có tính chất như 
một dòng thác lũ, và tất cả số lượng khổng lồ tia DC sẽ phải được tính nghiêm túc 
và hoàn thiện. Số lượng samples của sự nảy bật thứ cấp của Vray theo mặc định là 
1 tia, nó có vẻ hoàn toàn đủ để cho kết quả tốt cho phần lớn trường hợp và giảm 
nhẹ rõ rệt khối lượng tính. Ngoài độ chính xác tính nửa bóng cao và tốc độ chậm, 
nhược điểm của DC còn là sự nhiễu, điều liên quan đến việc tính toán được thực 
hiện riêng rẽ cho từng điểm. Để tránh nhiễu chỉ có 1 phương pháp – nâng số lượng 
tia samples (Subdivs), điều không rõ là không tốt cho thời gian tính toán. Vì thế, 
direct+direct computation khá ít được sử dụng trong thực tế và chủ yếu là cho các 
hình reference, giúp nhận biết cần ph
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ytrong3dmaxvraydinhnghiavacachsudung.pdf ytrong3dmaxvraydinhnghiavacachsudung.pdf