Xã hội học giáo dục

*Khái niêm về trí tuệ

- “Trí" theo Mạnh Tử, có mầm mống bẩm sinh là cái "ta sẵn có vậy, nguồn gốc

của trí là lòng phải chăng"- Nhưvậy, trí không những là trí thông minh, mà còn là tâm

trí, là tấm lòng, biết cân nhắc và suy xét. Theo tiếng Việt thì đó là sự khôn ngoan.

- Theo Tuân Tư thì: "Cái biết trọng người gọi là tri; tri mà hợp với cái gì ở bên

ngoài gọi là trí" - Như vậy trí tuệ là sự phù hợp giữa nội tâm và hiểm hực bên ngoài, là

lý trí thực hành.

- Các học giả hiện đại cũng đưa ra những định nghĩa khác nhau vềtrí tuệ, trí

thông minh. Từ định nghĩa này có thể chọn ra ba quan niệm sau:

+ Coi thông minh là năng lực học tập

+ Coi thông minh là năng lực tư duy trừu tượng

+ Coi thông minh là năng lực thích ứng

Xu hướng định nghĩa trí thông minh qua hoạt động thích nghi được nhiều nhà

nghiên cứu cấp nhận nhất (V.Stem, D.Wecheles, Jpiaget).

pdf54 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Xã hội học giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển GD theo hướng XHH sẽ huy động được mọi tiềm năng của XH ở những mức độ khác nhau, tạo cơ sở mở rộng quy mô, đẩy nhanh tốc độ, tăng cường chất lượng GD đáp ứng nhu cầu phát triển và tiến bộ XH. Nghiên cứu XHHGD là nghiên cứu một trong những vấn đề cơ bản nhất của GD, giúp cho GD phát huy mọi tiềm năng của chính mình, dựa vào sức mạnh của XH để phát triển bền vững. XHHGD mang tính phổ quát đối với sự nghiệp GD chung, có tính toàn cầu. 3. Các yêu cầu đối với XHHGD Phải có biện pháp nâng cao hiểu biết của toàn XH về vai trò, tác dụng của GD làm chuyển biến thái độ của cộng đồng của XH đối với GD. Tạo cho quần chúng biến thái độ bằng hành vi cụ thể tham gia hoạt động GD dưới nhiều hình thức tương ứng với thế mạnh của chính họ. Tổ chức được các phong trào hỗ trợ giáo dục để góp phần giải quyết những khó khăn về vật chất, quản lý GD. XHHGD phải đặt dưới sự kiểm soát của Đảng và chính quyền các cấp để trên cơ sở đó mà tổ chức phối hợp các hoạt động, xây dựng môi trường GD thích hợp với hoàn cảnh của mỗi địa phương. Giữ vững vai trò tham mưu của trường học nhằm hướng mọi hoạt động vào việc thực hiện tốt mục tiêu GD. Nhà trường phải trở thành nòng cốt của mọi phong trào, mọi cuộc vận động thực hiện XHHGD. 4. Cơ chế tổ chức thực hiện Kết hợp giữa việc huy động các đoàn thể XH tham gia hỗ trợ hoạt động GD với việc tổ chức mọi lực lượng XH cấp cơ sở tham gia giáo dục. GD với chiến lược phát triển toàn diện con người trong thời kỳ CNH-HĐH I. Một số khái niệm: 1- Phát triển con người .(Human Development) bao gồm rất nhiều hiện tượng gần nhau như: con người (Human beings); cá thể (individual); cá nhân (person); nhân cách (personality); nhân lực (human resources). + Phát triển con người là lĩnh vực của sự phát triển nói chung, nó còn là tiên chỉ, mục tiêu cao cả của phát triển. (phát triển XH là phát triển cấp 2, phát triển kinh tế là phát triển cấp 1 , phát triển con người là phát triển cấp + Phát triển con người là sự phát triển loài người, cá thể người, cá nhân, nhân cách, nhân lực, do đó nhiều hình thái, nhiều giá trị và nhiều chức năng. + Bản chất của sự phát triển con người là làm gia tăng giá trị của con người trên các mặt tinh thần, thể chất, đạo đức, kinh tế, kỹ thuật, nghệ thuật, trí tuệ, tình cảm, XH, 37 pháp lý v.v... (Với ý nghĩa đó, phát triển con người được xem là nguyên tắc hạt nhân của sự phát triển bền vững xét trên bình diện toàn XH). + Về mặt triết học, phát triển con người được xét đều trên ba lĩnh vực cơ bản: . Phát triển thể chất hoặc thể xác (thể lực, thể hình, thể năng) . Phát triển tâm trí (lý trí và trí tuệ, các chức năng nhận thức và lôgíc- trí dũng). . Phát triển tâm hồn, tình cảm (đánh giá, biểu thị thái độ, thể hiện nhu cầu tâm năng. 2 - Phát triển nguồn nhân lực + Về mặt giá trị (phát triển con người là gia tăng giá trị nói chung của con người) phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị sử dụng của con người. + Về mặt lôgíc (phát triển con người là gia tăng giá trị của con người như là giá trị cứu cánh - mục đích của phát triển và như là giá trị phương tiện) còn phát triển nguồn nhân lực chủ yếu là phát triển mặt công cụ ở con người, như một nguồn tài nguyên, một nguồn vốn và một nguồn động lực trong quá trình phát triển. + Trình độ phát triển của con người thể hiện tập trung ở các chỉ số phát triển con người (HDI) và chất lượng cuộc sống. Nó quyết định chất lượng của nguồn nhân lực và những tiền đề quan trọng nhất để phát triển nguồn nhân lực. Vì thế, trong nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực luôn đặt ra ra mục tiêu phát triển con người: có con người phát triển đầy đủ giá trị thì mới có nhân lực chất lương cao. (Tuy nhiên, không thể đồng nhất phát triển nguồn nhân lực với phát triển con người, vì con người không chỉ có giá trị sử dụng và chức năng công cụ mà còn giữ vai trò, chức năng nhân bản). + Có thể nói: phát triển con người là phạm trù tâm lý - giáo dục và HH; phát triển nguồn nhân lực là phạm trù kinh tế - chính trị - xã hội. Hai phạm trù này thống nhất với nhau trên cơ sở phạm trù nhân cách, hoạt động và giá trị. II- Mô hình con người với tư cách là đơn vi của nguồn nhân lực trong xã hội CNH-HĐH 1- Theo kinh nghiệm của các nước đã và đang CNH-HĐH, con người cần có những thuộc tính cơ bản sau: + Năng lực trí tuệ và kỹ thuật hoạt động chắc chắn, chính xác + Trình độ nghiệp vụ, chuyên môn hoá + Khả năng hợp tác và cạnh tranh 38 + Khả năng di truyền nghề nghiệp và việc làm + Khả năng hoạch định, đánh giá và tự đánh giá + Sức chịu đựng sự căng thẳng (stres) do nhịp độ sống và môi trường công nghiệp, lối sống hiện đại gây ra. + Học vấn chung về quản lý, công nghệ, kinh tế, hành chính, luật, chính sách, thị trường, ... + Nhu cầu, sở thích tinh thần của cá nhân tương đối rõ ràng, đặc biệt trong sinh hoạt văn hoá, thể thao, giải trí + Tính kỷ luật và tính tổ chức + Tính độc lập của lý trí và tình cảm trong công việc, cuộc sống gia đình, quan hệ XH, học tập + Năng động và hiệu quả trong công việc + Lòng trung thực thẳng thắn + Kỹ năng sống thường nhật, tỉnh táo, ít viển vông + Ý chí và tính mạo hiểm trong hành động + Thiện chí với lao động chân tay, tập luyện và vận động thể chất + Tính độc lập với gia đình và dòng họ + Ý thức quan tâm tới đại cục + Nhu cầu thành đạt, học tập, giao tiếp và phát triển bản thân + Giàu trải nghiệm, biết học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm + Ứng xử đa phương tiện và đa chiều + Hướng vào tương lai + Thừa nhận giá trị của sự thay đổi + Chấp nhận sự khác biệt với mình + Khả năng xử lý thông tin, tính toán, cân nhắc, giải quyết vấn đề + Tính tạo nhã, lịch thiệp (nghi thức văn hoá) trong công việc và quan hệ + Tính hiệu lực, hiệu quả trong công việc và đời sống + Tính quy đồng dân tộc ở phương diện văn hoá + Tính lạc quan, chịu đựng thất bại và nắm bắt vận hội mới + Quý trọng và sử dụng thời gian nghiêm túc + Gắn bó với công việc (trách nhiệm và tính mục đích) và coi trọng nhân cách nghề nghiệp 39 + Phong cách thị dân + Quang giao và khoan dung + Xu hướng cá nhân CN và tính riêng biệt trong đời sống sinh hoạt + Yêu thích nghệ thuật và du lịch + Đa dạng trong phương thức hành vi 2- Ở Việt Nam, những nét đặc trưng của con người Việt Nam đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương II (khoá VIII) và trong Luật Giáo dục bao gồm: + Sức khoẻ, thể hình tốt, ý chí bền bỉ + Bản sắc dân tộc trong đời sống và đạo đức, văn hoá, nghệ thuật, giao tiếp của cá nhân, của gia đình, của cộng đồng. + Hệ tư tưởng Mác-lênin và Hồ Chí Minh + Lý tưởng và niềm tin XHCN + Lý tưởng độc lập dân tộc và ý chí bảo vệ, xây dựng tổ quốc III. Giáo dục và sự phát triển con người 1- Quan hệ giữa GD và phát triển con người là mối quan hệ giữa đầu tư và lợi ích, giữa vốn liếng và hiệu quả. + Cơ cấu chung nhất của quá trình phát triển con người bao gồm hai thành phần: Một là đầu tq vào con người Hai là động cơ hoá hay huy động những tiềm năng và sức mạnh trong đời sung và công việc, phát huy tính tích cực cá nhân của con người bằng những ảnh hưởng và tác động khác nhau. + Các giải pháp phát triển con người cho dù ở khâu đầu tư hay động cơ hoá đều có thể sắp xếp vào 4 loại cơ bản: . Các giải pháp XH / con người . Các giải pháp thông tin / ra quyết định . Các giải pháp cơ cấu / hành chính . Các giải pháp công nghệ / kinh tế + Loại giải pháp XH / con người có vai trò bao trùm, gắn với giáo dục, đào tạo, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi XH, những giá trị của đời sống gia đình, sinh hoạt, văn hoá, giải trí, thể thao, quan hệ XH (giao lưu), các bổn phận công dân, truyền thống và TLXH... trong đó GD- ĐT có vai trò chủ đạo bởi vì thực chất những giải pháp này chính là các quá trình XHH hoá cá nhân. + Loại giải pháp thông tin / ra quyết định chủ yếu dựa vào những nghiên cứu, 40 điều tra, tìm hiểu hiện trạng, chính sách và những khuyến nghị về con người, những chủ trương quản lý vĩ mô và vi mô, những ảnh hưởng của truyền thống quảng bá, giao dịch, tiếp xúc... đối với con người. + Những giải pháp về cơ cấu / hành chính có liên quan tới tổ chức, quản lý, điều hành (luật) phân bố, kiểm soát, điều chỉnh... những ảnh hưởng của môi trường đến con người và những ảnh hưởng do con người tác động lẫn nhau cũng như tác động lên môi trường. + Loại giải pháp công nghệ / kinh tế gắn với tài chính, cải thiện công nghệ, điều kiện, công cụ, nội dung lao động, mức tiêu dùng, chuẩn vật chất của đời sống, môi trường sinh thái của con người. + Hai thành phần trong cơ cấu phát triển con người đều là đầu tư, chúng chỉ khác nhau ở chỗ đầu tư trực tiếp hay gián tiếp. Giáo dục - đào tạo tham gia vào cả hai thành phán và luôn giữ vai trò chủ đạo, do đó, giáo dục - đào tạo được xem là lĩnh vực đầu tư phát triển, nó chi phối hiệu quả của tất cả những loại đầu tư khác nhau. 2. Quan hệ giữa giáo dục và phát triển người là Quan hệ giữa phương tiện và mực đích giữa công cụ và thành tựu - Đảng CSVN khẳng định: GD là quốc sách hàng đầu; quan điểm này được biểu hiện: + Ưu tiên cho giáo dục (tài chính, tinh thần, tính pháp chế của hệ thống giáo dục...) + GD là công cụ mạnh mẽ của quốc gia, một phương sách quan trọng bậc nhất để phát triển đất nước: GD là công cụ cơ bản để phát triển con người (con người là yếu tố quyết định đến mọi thành tựu phát triển kinh tế - xã hội khác nhau). - Phát triển con người là công việc lâu dài “trồng người" có "lợi ích trăm năm". - Trong chiến lược phát triển con người, GD phải được đặt ở vị trí chủ đạo và nòng cốt. (Nếu cơ cấu chiến lược phát triển con người bao gồm: tư tưởng, đường lối; các mục tiêu; các nhiệm vụ; các giai pháp; các điều kiện thi GD là một thành tố xuyên suốt cả 5 khâu). - Tính chất của giáo dục: Luật GD quy định tính chất của nền GD Việt Nam là: nền GD XHCN; tính nhân dân; tính dân tộc; tính khoa học; tính hiện đại. Những tính chất này bao trùm toàn bộ hệ thống giáo dục. Mối quan hệ dân trí, nhân lực, nhân tài + Dân trí là một nền tảng để có được và phát triển được nhân lực và nhân tài (GD-ĐT phải xây dụng được nền tảng dân trí này. Nhân lực và nhân tài chỉ là một bộ phận của dân trí; nhân tài chỉ là bộ phận ưu tú nhất trong nhân lực). 41 + Mô hình nâng cao dân trí; nhân tài trong cuối thế kỷ XX ở nước ta là giáo dục cho mọi người. Từ năm 2001, sẽ là mô hình: phổ cập THCS; giáo dục thường xuyên; phổ cập trung học; phổ cập nghề trong đội ngũ nhưng người lao động. + Dân trí, nhân lực và nhân tài chỉ là những thứ công cụ đơn thuần nếu thiếu đi cơ sở giá trị của chúng là con người và nhân cách con người. - Nội dung giáo dục: Vấn đề nội dung GD được xét trên 3 mặt: + Về mặt tổ chức: Nội dung được cơ cấu thành các lĩnh vực học tập và rèn luyện, được phản ánh trong hệ thống các hoạt động trong môn học và ngoài môn học. Phân hoá trong GD nhờ chia ban, phân luồng đào tạo, phân chia lĩnh vực đào tạo (bắt buộc và tự chọn) dựa trên năng lực, sở trường và cơ sở GD, nhu cầu thị trường lao động và xu thế phân công lao động, phát triển ngành nghề. Sử dụng phương thức tích hợp nội dung như lồng ghép môn học, tích hợp xuyên môn (môn học tích hợp), tích hợp liên môn (các chủ đề tích hợp) nhằm phát huy tốt nhất hiệu quả sử dụng chương trình và học liệu, của phương tiện và chi phối thời gian học tập. + Về thành phần của nội dung GD: Cần nghiêng về tri thức ứng dụng, các kỹ năng hành dụng và các kỹ năng hiểu biết XH (luật pháp, văn hoá), kinh tế, chính trị, lịch sử, học vấn công nghệ và kinh tế; học vấn về bản thân con người và đời sống con người, học vấn về tài nguyên và môi trường; kỹ năng độc lập học tập; kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, xử lý tình huống; thái độ nhân văn đối với công việc, con người và thiên nhiên, kỹ năng chung sống và sống khoan dung; thái độ trách nhiệm đối với XH và bản thân; thái độ sáng tạo trong hoạt động và quan hệ. + Về mặt giá trị : Nội dung GD cần phản ánh được các xu thế chính của sự chuyển đổi giá trị vài ba chục năm gần đây: pháp chế và nền hành chính hợp lý hoá; hợp tác và cạnh tranh; đô thị hoá và siêu đô thị hoá; chủ động, năng động trong sự phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ; thế tục hoá (đời thường hoá); liên kết và tích hợp các tổ chức, các nguồn nhân lực, các năng lực; phân hoá và chuyên môn hoá các kỹ năng, sức mạnh và quyền lực của tri thức khoa học - kỹ thuật; nhịp độ hoạt động cao; vai trò quyết định của nhân tố con người, đặc biệt trong quản lý; định hướng nhân văn và phát triển bền lững; năng lực thích ứng cao của XH trước những thay đổi của tự nhiên và lịch sử; chất lượng cuộc sống tương xứng với mức độ tăng trưởng kinh tế, các xu thế toàn cầu hoá trong các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, khoa học - công nghệ; truyền thông; dịch vụ giải trí, du lịch, thể thao v.v... - Phương Pháp giáo dục: 42 (Nếu nội dung GD chứa đựng những giá trị tiềm tàng, sẽ xuất hiện trong sản phẩm GD thì phương pháp GD sẽ quyết định giá trị thật sự của sản phẩm GD. Các Mác đã chỉ rõ: "Thước đo trình độ của một nền văn minh không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ nó sản xuất ra cái đó bằng cách nào”). + Phương pháp GD hiện nay chỉ có thể là phương pháp dựa vào hoạt động của người học và các quan hệ và môi trường học tập cởi mở, dân chủ, nhân văn, vào các phương thức giao tiếp tích cực như hợp tác, tham gia vào các học liệu, công cụ, KT đa phương tiện được hiện đại hoá. + Phương pháp GD phải được xây dựng trên cơ sở giải quyết có hiệu quả vấn đề tích cực hoá, cá thể hoá. + Phương pháp GD muốn có hiệu quả phải dựa vào tiềm năng trít hực, kỹ năng, tay nghề của người dạy, người học, chế độ đánh giá GGD và sử dụng con người sau đào tạo. (Vì thế, những tiền đề này cần được XD đồng bộ và được đổi mới trước khi giải quyết nhiệm vụ đổi mới phương pháp). IV. Mô hình nhân cách con người Việt Nam trong chiến lược phát triển toàn diện con người 1. Khái niệm: - Nhân cách con người: Trong Tâm lý học (TLH) có hai cách hiểu về nhân cách con người: + Là cá nhân với tư cách là chủ thể của các quan hệ XH và của hoạt động có ý thức . + Là một hệ thống các phẩm chất của cá nhân được quy định bởi sự gia nhập vào các quan hệ XH, được hình thành trong hoạt động cùng nhau và trong giao tiếp (A.V.Petrovsky và Yaroshevsky, chủ biên, Từ điển TLH, tiếng Nga, Matskva, 1990). Có thể nói: nhân cách là bộ mặt TL, đạo đức của mỗi người - đó là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất TL quy định giá trị XH và hành vi XH của người đó. Nhân cách được phân tích trên ba bình diện khác nhau và được đánh giá ở ba mức độ khác nhau: Thứ nhất, nhân cách của con người được thể hiện trước tiên ở dạng cá tính (nhân cách bộc lộ trong tính cá biệt, không đồng nhất với mọi người, với cái chung, vì vậy giá trị của nhân cách là ở tính tích cực của nó trong việc khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và sự hạn chế tự nhiên nhất của mình). Thứ hai, nhân cách được thể hiện trong mối quan hệ và liên hệ mà nó tham gia trong quá trình hoạt động cộng đồng. Giá trị nhân cách ở mức độ này (mức độ giữa các cá nhân). 43 Thứ ba, nhân cách được xem như là một chủ thể đang thực hiện một cách tích cực, có chủ định hay không chủ định, những biến đổi trong những người khác nhau mà nó có liên quan - quen biết, hoặc không liên quan bằng hành động của mình: nhân cách như là chủ thể của hoạt động. Giá trị của nhân cách ở mức độ này là ở những tác động mà nhân cách này gây ra đối với những nhân cách khác, đối với những biến đổi của nhân cách khác, diễn ra dưới ảnh hưởng hoạt động của những nhân cách này. (Mọi biến đổi cơ bản nhờ hoạt động đối tượng và giao tiếp của mình, cá nhân này tạo ra được những cá nhân khác, đặt biệt là ở bản thân mình như là một người khác, đã tạo bằng nét đặc trưng đầy đủ và có giá trị nhất của cá nhân ấy như là một nhân cách). Nhân cách chỉ có thể được xem xét trong sự thống nhất của ba bình diện trên. Nó phản ánh tính ổn định, thống nhất, tích cực và tính giao tiếp. - Cấu trúc nhân cách: Nếu xét nhân cách tách khỏi những đặc điểm cá thể của đặc trưng tâm lý mỗi người, có thể xác lập được một cấu trúc điển hình của nhân cách con người nói chung. Có thể đề cập tới một số quan niệm về cấu trúc nhân cách có liên quan nhiều tới quá trình giáo dục, đào tạo như sau: + Quan niệm coi nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản là: Nhận thức (bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ) Rung cảm (tình cảm và thái độ) Ý chí (phẩm chất ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen) + Quan niệm coi nhân cách bao gồm 4 tiểu cấu trúc: Xu hướng (thế giới quan, lý tưởng, hứng thú, tâm thế...) Kinh nghiệm (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen) Đặc điểm của quá trình tâm lý (các phẩm chất trí tuệ, ý chí, đặc điểm cảm xúc, tình cảm). Các đặc điểm sinh học (khí chất, giới tính, lứa tuổi, các đặc điểm bệnh lý) + Quan niệm nhân cách có nhiều tầng: tầng nổi, sáng tỏ (bao gồm ý thức, tự ý thức và ý thức nhóm) và tầng sâu, tối tăm (bao gồm tiềm thức và vô thức). + Quan niệm về các mặt đào tạo của nhân cách: đức, trí, thể, mỹ... và quan niệm về 4 thuộc tính phức hợp của nhân cách là xu hướng, tính cách, năng lực và khí chất. Nhưng bao quát hơn cả, phù hợp hơn cả, nên xem hai cách con người bao gồm bốn khối bộ phận sau đây: * Xu hướng của nhân cách: Đó là hệ thống những động lực thúc đẩy, quy định lựa chọn của các thái độ và tính tích cực của con người. 44 (Xu hướng bao gồm nhiều thuộc tính khác nhau, bao gồm một hệ thống các nhu cầu, hứng thú mềm tin, lý tưởng tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó có một thành phần nào đấy chiếm ưu thế và có ý nghĩa chủ đạo, đồng thời các thành phần khác nhựa giữ vai trò chỗ dựa, làm nền). * Những khả năng của nhân cách: bao gồm một hệ thống các năng lực, bảo đảm cho sự thành công của hoạt động. Các năng lực của cá nhân là tiền đề tâm lý bảo đảm cho xu hướng của cá nhân trở thành hiện thực. Thông thường ở mỗi cá nhân có một năng lực nào đó chiếm ưu thế, còn các năng lực khác thì phụ thuộc vào nó và tăng cường cho nó. * Phong cách hành vi của nhân cách: Phong cách là do tính cách và khí chất của nhân cách ấy quy định. (Tính cách là hệt hóng thái độ của con người đối với thế giới xung quanh và bản thân, được thể hiện trong hành vi của họ. Tính cách tạo nên phong cách hành vi của con người trong môi trường XH và phương thức giải quyết những nhiệm vụ thực tế của họ). * Hệ thống điều khiển nhân cách: Hệ thống này thường được gọi là "tự ý thức" của nhân cách, nó thực hiện sự tự điều chỉnh - tăng cường hay làm giảm bớt hoạt động, tự kiểm tha và sửa chữa các hành vi và hành động, dự kiến và hoạch định cuộc sống và hoạt động của cá nhân. Tuỳ thuộc vào mức độ phát triển mà hệ thống tự điều chỉnh này được củng cố và con người trở thành chủ nhân của các sức mạnh của mình. Tuỳ thuộc vào sự giáo dục và lối sống của trẻ và người lớn mà phẩm chất của "tự ý thức" được xác định, khả năng tự điều chỉnh các sức mạnh và phương tiện của bản thân được xác định. (Ở Việt Nam, các bộ phận trên trong cấu trúc mà nhân cách được sắp xếp thành hai mặt thống nhất là đức và tài hay phẩm chất và năng lực, dưới sự chỉ đạo của ý thức bản ngã). Có thể biểu diễn cấu trúc đó theo sơ đồ sau: 45 Đức (phẩm chất) - Phẩm chất hướng về XH (đạo đức- chính trị): thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động... - Phẩm chất hướng về cá nhân (đạo đức tư cách): nết na, sự ham muốn - Phẩm chất ý chí: tính kỷ luật, tự chú, mục đích, quả quyết, phê phán... - Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí Tài (năng lực) - Năng lực XH hội: khả năng thích ứng, năng lực sáng tạo, cơ động, mềm dẻo, linh hoạt trong toàn bộ cuộc sống XH. - Năng lực chủ thể hoá: khả năng biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc, cái riêng, bản lĩnh của cá nhân. - Năng lực hành động: có mục đích, có điều khiển, chủ động tích cực. - Năng lực giao tiếp; khả năng thiết lập và duy trì quan hệ với người khác Cấu trúc tâm lý của nhân cách khá phức tạp, nhiều mặt và cơ động. Cấu trúc tâm lý của nhân cách tương đối ổn định, chứa đựng những thuộc tính điển hình chi mỗi cá nhân. 2. Giáo dục phát triển nhân cách nhằm phục vu sư nghiệp CNH-HĐH đất nước đối với con người Việt Nam thế kỷ XXI - Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định mục tiêu tổng quát của thời kỳ CNH- HĐH là: đến năm 2020, căn bản hoàn thành CNH-HĐH, cải biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành nước công nghiệp, cụ thể là: + Lao động sử dụng máy móc + Điện khí hoá về cơ bản + Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có khả năng nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học và công nghệ. Nhiệm vu cơ bản của thời kỳ này là: Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN. Phát triển nguồn lực con người, thực hiện công bằng XH, xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có đủ bản lĩnh, phẩm chất và năng lực. Mô hình nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ CNH-HĐH - Căn cứ để xây đựng mô hình: + Những đòi hỏi của sự nghiệp CNH-HĐH + Hiện trạng về nhân cách con người Việt Nam nói chung và của thanh thiếu niên nói riêng. + Kinh nghiệm, truyền thống của cha ông: yêu nước, cần cù, sáng tạo, lạc quan, 46 thương người, vì nghĩa. + Kinh nghiệm nước ngoài: Mô hình nhân cách của nhà quản trị kinh doanh; mô hình người chín muồi; mô hình con người hiện thực hoá bản thân. Mô hình con người phát huy đầy đủ chức năng (nhà tâm lý học Mỹ Lockes cho rằng: "con người phát huy đầy đủ chức năng" về nhiều mặt giống như đứa trẻ. Đây là cái tôi thuần khiết và cái thiện chân chính. ông cho rằng hạnh phúc không có nghĩa là mọi nhu cầu SV của con người đều được thoả mãn (tài sản, địa vị). ý nghĩa chân thực của hạnh phúc là ở khuynh hướng tích cực tham gia vào hiện thực, ở sự phấn đấu liên tục, chứ không phải là kết quả của nó). Mô hình Người sáng tạo (nhà tâm lý học Mỹ A.Floom) ông cho rằng, ở mỗi người đều có khuynh hướng tận dụng đầy đủ tiềm năng của mình để trưởng thành và phát triển. “Con người sáng tạo" có thể sử dụng mọi sức mạnh, tiềm năng và năng lực của mình. Ông cho rằng con người như thế có các đặc điểm trên 4 mặt: khả năng yêu mến người khác, năng lực tư duy, hạnh phúc và lương tâm. - Mô hình dự kiến về nhân cách con người Việt Nam thế kỷ XXI + Đó là một nhân cách được phát triển toàn diện + Đó là một nhân cách gắn bó nhịp nhàng, hài hoà giữa ba mặt: nội tâm thống nhất, lành mạnh, ổn định tích cực; quan hệ với người khác một cách nhân ái, hữu nghị, hợp tác; quan hệ với công việc và sự nghiệp say mê và nhiệt tình, thích ứng và sáng tạo, hiệu quả và thành đạt (quan hệ của con người với bản thân, với người khác và với công việc). (Sự phát triển hài hoà tâm lý bên trong; người có nhân cách lành mạnh có thể xử lý đúng đắn quan hệ giữa người với người, phát triển tình bạn; người có nhân cách lành mạnh có thể vận dụng có hiệu quả trí tuệ và năng lực của mình vào việc giành lấy thành công trong công việc và sự nghiệp). Nếu mô tả một cách đầy đủ, chi tiết thích ứng với giai đoạn CNH- HĐH thì mô hình đó là: “Con người có lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; có ý chí kiên cường, có hoài bão lớn lao phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, có tư duy sáng tạo và óc thực nghiệm, có tính tổ chức và kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao, có lòng nhân ái, tôn trọng và hợp tác được với người khác, năng động và thích ứng, có tinh thần pháp luật và ý thức công dân, ý thức bảo vệ môi sinh, biết yêu cái đẹp". (Đó chính là mô hình gắn bó chặt chẽ hai mặt đức và tài và là cơ sở cho việc giáo dục toàn diện con người). 47 V. Định hướng chiến lược phát triển trí tuệ con người Việt Nam thời kỳ CNH-HĐH 1. Trí tuệ và vai trò của trí tuệ trong sự nghiệp CNH-HĐH *Khái niêm về trí tuệ - “Trí" theo Mạnh Tử, có mầm mống bẩm sinh là cái "ta sẵn có vậy, nguồn gốc của trí là lòng phải chăng"- Như vậy, trí không những là trí thông minh, mà còn là tâm trí, là tấm lòng, biết cân nhắc và suy xét. Theo tiếng Việt thì đó là sự khôn ngoan. - Theo Tuân Tư thì: "Cái biết trọng người gọi là tri; tri mà hợp với cái gì ở bên ngoài gọi là trí" - Như vậy trí tuệ là sự phù hợp giữa nội tâm và hiểm hực bên ngoài, là lý trí thực hành. - Các học giả hiện đại cũng đưa ra những định nghĩa khác nhau về trí tuệ, trí thông minh. Từ định nghĩa này có thể chọn ra ba quan niệm sau: + Coi thông minh là năng lực học tập + Coi thông minh là năng lực tư duy trừu tượng + Coi thông minh là năng lực thích ứng Xu hướng định nghĩa trí thông minh qua hoạt động thích nghi được nhiều nhà nghiên cứu cấp nhận nhất (V.Stem, D.Wecheles, Jpiaget). - Khái niệm "trí tuệ" có thể có những hàm ý sau

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc (88).pdf