Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Năm 1986 nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà Nước đã đề ra nhiều chủ trương phương hướng để chuyển đổi nên kinh tế. Đăc biệt đến Đại hội Đảng VII (1991) Đảng ta đã đưa ra chủ trương nhanh chóng chuyển đổi nền kinh tế Kế Hoạch Hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước và định hướng XHCN. Đến đại hội Đảng  (4/ 2001) Đảng chính thức đưa ra quan điểm phát triển thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Tính đến nay công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà Nước ta đã trãi qua 20 năm.Mặc dù có nhiều giai đoạn ,nhiều thời kỳ chúng ta gặp nhiều khó khăn nhưng công cuộc đổi mới nền kinh tế của chúng ta cũng đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Tại hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ 11 Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh phát biểu:So với 20 năm vê trước , đất nước ta đã có sự thay đổi toàn diện: đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-Xã Hội , kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh , bước đầu hình thành Kinh Tế Thị Trường (KTTT) định hướng XHCN, đẩy nhanh Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa ,đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc do Đảng lãnh đạo được cũng cố và tăng cường, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên nhiều ,vị thế của nước ta trên trường Quốc Tế không ngừng được nâng cao .

 

docx26 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 989 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A – Giới thiệu đề tài Năm 1986 nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà Nước đã đề ra nhiều chủ trương phương hướng để chuyển đổi nên kinh tế. Đăc biệt đến Đại hội Đảng VII (1991) Đảng ta đã đưa ra chủ trương" nhanh chóng chuyển đổi nền kinh tế Kế Hoạch Hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước và định hướng XHCN. Đến đại hội Đảng IX (4/ 2001) Đảng chính thức đưa ra quan điểm phát triển thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Tính đến nay công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà Nước ta đã trãi qua 20 năm.Mặc dù có nhiều giai đoạn ,nhiều thời kỳ chúng ta gặp nhiều khó khăn nhưng công cuộc đổi mới nền kinh tế của chúng ta cũng đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Tại hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ 11 Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh phát biểu:"So với 20 năm vê trước , đất nước ta đã có sự thay đổi toàn diện: đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-Xã Hội , kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh , bước đầu hình thành Kinh Tế Thị Trường (KTTT) định hướng XHCN, đẩy nhanh Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa ,đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc do Đảng lãnh đạo được cũng cố và tăng cường, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên nhiều ,vị thế của nước ta trên trường Quốc Tế không ngừng được nâng cao ..." Thực tế trên đã minh chứng cho sự đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta khi quyết định chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ,quan liêu bao cấp sang nền KTTT . Vì vậy , trong những năm tiếp theo chúng ta vẫn tiếp tục xây dựng , cũng cố và tiến tới ngày càng hoàn thiện hơn nữa nền KTTT định hướng XHCN .Để thực hiện được mục tiêu đó không chỉ có Đảng và Nhà nước tham gia mà đòi hỏi sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế . Để có thể tham gia một cách có hiệu quả trong nền KTTT thì các thành phần tham gia phải hiểu được bản chất của KTTT định hướng XHCN.Những năm gần đây thuật ngữ KTTT định hướng XHCN không còn xa lạ với mọi người nữa nhưng để có thể hiểu được thế nào là KTTT ? Thế nào là KTTT định hướng XHCN? KTTT có tác dụng gì ?Và thực trạng của nền KTTT ở Việt Nam hiện nay như thế nào ?...đó còn là một vấn đề . Đề án Kinh Tế Chính Trị với đề tài : Xây dựng nền KTTT định hướng XHCN nhằm mục đích đưa ra một cách có hệ thống những kiến thức về KTTT nói chung cũng như KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam nói riêng . Từ những kiến thức cơ bản đó chúng ta sẽ tiến hành phân tích một số thực trạng còn tồn tại trong nền kinh tế nước ta, đồng thời cũng đưa ra những giải pháp cơ bản để giải quyết những thực trạng đó . Trên nền tảng đó Nhà Nươc nói chung và các thành phần kinh tế nói riêng sẽ đưa ra những chiến lược , sách lược phù hợp với tình hình để có thể phát huy hết các tiềm năng thế mạnh của mình ,han chế những điều kiện cản trở sự phát triển . Mỗi một thành phần kinh tế trong cơ cấu nền kinh tế phát triển đều góp phần thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển theo . B – Nội dung đề tài I.Bản chất của KTTT nói chung 1.Lịch sử phát triển các loại hình kinh tế Trong lịch sử hình thành va phát triển của xã hội loài người từ xưa đến nay trãi qua hai loại hình kinh tế: - kinh tế tự nhiên - kinh tế hàng hóa Hai loại hình kinh tế này có sự khác biệt về bản chất đánh dấu sự phát triển . Trong khi kinh tế tự nhiên vận hành theo cơ chế đặc trưng là tự sản tự tiêu thì kinh tế hàng hóa với trình độ phát triển cao hơn , mọi sản phẩm sản xuất ra nhằm để trao đổi hoặc bán trên thị trường . Điều đó có nghĩa là người này sản xuất ra là để cho người khác tiêu dùng . Kiểu tổ chức kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển trong cả một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau , mang những đặc trưng khác nhau . Loại hình tổ chức kinh tế đầu tiên của kinh tế hàng hóa là kinh tế hàng hóa giãn đơn . Đây là một loại hình kinh tế hàng hóa của những người nông dân cá thể , thợ thủ công cá thể và những tiểu thương buôn bán nhỏ dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và vốn , đồng thời dựa trên sức lao động của bản thân chủ sở hữu . Đây là hình thức sở hữu nhỏ đặc trưng của một nền kinh tế còn ở trinh độ kém phát triển . Tiếp theo kinh tế hàng hóa chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế hàng hóa quy mô lớn thường được đặc trưng bởi nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa (TBCN) . Nó dựa trên hình thức sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất và vốn , đồng thời dựa trên sức lao động bóc lột của người làm thuê . ở hình thức hàng hóa quy mô lớn này đã có sự khác biệt về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và vốn , đồng thời có sự thay đổi căn bản về cách thức sử dụng , khai thác sức lao động của con người . Giai đoạn này chủ sở hữu không tự lao động , không sử dụng sức lao động của bản thân và gia đình nữa mà dựa vào quy mô sản xuất lớn hơn , phương thức sản xuất hiện đại hơn họ thuê người lao động và bóc lột sức lao động củanhững người làm thuê này nằm tạo ra được nhiều sản phẩm và nhiều giá trị thặng dư . Đây là những đặc trưngcủa một nền kinh tế phát triển . Tiếp đến kinh tế phát triển đến trình độ cao nhất là mô hình KTTT . Dưới tác động mạnh mẽ của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ nền kinh tế có những bước phát triển nhanh chóng . Theo đó , tất cả các yếu tố đầu vào , đầu ra của quá trình sản xuất đều thông qua thị trường . Vốn , lao động , tư liệu sản xuất , đất đai , bất động sản , các sản phẩm hàng hóa dịch vụ ... đều tồn tại dưới hình thưc hàng hóa , nó thông qua thị trường và do thị trường quyết định . 2.Đặc điểm của KTTT Như đã nói ở trên , KTTT là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều thông qua thị trường . Do đó KTTT có những đặc trưng sau: Một là , trong nền KTTT các chủ thể kinh tế có tính độc lập , có quyển tự chủ trong sản xuất kinh doanh . Có nghĩa là các chủ thể kinh tế có quyền tự do lựa chọn lĩnh vưc kinh doanh , loại hình kinh doanh , địa bàn kinh doanh ...và có quyền độc lập trong sản xuất kinh doanh . Đây là một ưu điểm của KTTT vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế có thể sản xuất kinh doanh trong những lĩnh vực mà họ có thế mạnh nhờ đó sẽ tạo được sự năng động của các chủ thể kinh tế Hai là , giá cả do thị trường quyết định . Mọi yếu tố của quá trình sản xuất đều thông qua thị trường , giá cả của hàng hóa là kết quả của cac yếu tố trong thị trương . Có hai loại giá được hình thành : giá người mua va giá người bán .Giá người bán chính là sự kết hợp của giá trị hàng hóa , sự tương tác giữa cung-cầu và năng lực của doanh nghiệp .Giá người mua chính là sự kết hợp của thu nhập và sự tương tác giữa cung-cầu , tâm lý tiêu dùng . Ba là , nền kinh tế luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan : quy luật giá trị , quy luật cung-cầu ,quy luật cạnh tranh ... Sự tác động của các quy luật đó hình thành quy luật tự điều tiết của nền kinh tế . Bốn là , nền KTTT hiện đại có sự quản lý và điều tiết của Nhà Nước thông qua pháp luật kinh tế , kế hoạch hóa các chính sách kinh tế để hạn chế các mặt trái của nền KTTT . 3.Tác dụng của KTTT KTTT với bốn đặc trưng kể trên đã có những tác động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất . ­KTTT tồn tại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt , lấy lợi nhuận làm mục đích hình , thành tồn tại và phát triển . Do đó nó có tác động kích thích buộc các chủ thể kinh tế phải tiến hành cải tiến kỷ thuật công nghệ để nâng cao năng suất lao động , chất lượng sản phẩm ... để có thể giảm chi phí sản xuất , hạ giá thành sản phẩm , đứng vững trên thị trường . Cũng nhờ đó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển , nâng cao năng xuất lao động xã hội . –Trong nền KTTT có một đặc điểm là không phải sản xuất cái mà mình có mà phải sản xuất cái mà thị trường cần do đó phải biết sử dụng một cách tối ưu các nguồn lực vốn là khan hiếm của nền kinh tế để có thể sản xuất đáp ứng một cách nhanh nhất , nhiều nhất , đa dạng nhất . Điều đó buộc các chủ thể kinh tế phải năng động để có thể có thể nắm bắt nhu cầu của thị trường nhanh chóng và tìm mọi cách để đáp ứng được các nhu cầu đó một cách tối ưu nhất . –Phân công lao động là điều kiện cần phải có để nền kinh tế hàng hóa co thể ra đời và tồn tại . Ngược lại sau khi kinh tế hàng hóa ra đời va phát triển thì nó tác động trở lại thúc đẩy hơn nữa sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc trong quá trình sản xuất để có thể phát huy hết mọi khả năng , nguồn lực của từng vùng , miền và của cả nền kinh tế quốc dân . –KTTT ra đời và phát triển sẽ thúc đẩy hơn nữa sự tích tụ và tập trung sản xuất từ đó tạo điều kiện ra đời nền sản xuất lớn có tính xã hội hóa cao . Đồng thời sẽ chọn lọc được đội ngũ những người sản xuất kinh doanh giỏi , đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ , lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước . Nói tóm lại phát triển KTTT mang lại nhiều tác dụng to lớn . Nó tạo ra một nền kinh tế hết sức năng động trong đó mọi cá nhân tổ chức kinh tế đều phải làm việc một cách nghiêm túc thì mới có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt . Chính trong môi trường này nguồn lực của nền kinh tế được phân phối đồng đều cho các ngành , lĩnh vực . Con người sống trong nền KTTT cũng trở nên năng động hơn , mọi khả năng và năng lực đều được huy động một cách tối ưu . Nhờ đó con người được phát triển toàn diện . II.Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam 1.Sự cần thiết khách quan phải phát triển KTTT ở Việt Nam Nền kinh tế Việt Nam tuy trình độ phát triển ở mức thấp nhưng vẫn tồn tại những cơ sở khách quan để phát triển KTTT . –Một là , phân công lao động xã hội ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu . Sự phát triển của phân công lao động diễn ra trong từng khu vực , từng địa phương thể hiện ở tính phong phú và đa dạng về mẫu mã cũng như chất lượng hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường . –Hai là , nền kinh tế Việt Nam tồn tại nhiều hình thức sở hữu :sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể , sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể , sở hữu tiểu chủ , sở hữu tư bản tư nhân ), sở hữu hỗn hợp .Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập với lợi ích riêng và chỉ quan hệ với nhau thông qua quan hệ hàng hóa – tiền tệ . –Ba là , trong cơ cấu các thành phần kinh tế ở Việt Nam thì kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể đóng vai trò chủ đạo , cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định . Chúng là những thành phần kinh tế riêng biệt có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh , có lợi ích riêng, có trình độ kỹ thuật công nghệ , trình độ tổ chưc quản lý khác nhau .Do đó chi phí và hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng khác nhau . –Bốn là , xu thế của thế giới hiện nay là toàn cầu hóa vì vậy chúng ta cũng phải giao lưu với nươc ngoài . Và quan hệ hàng hóa – tiền tệ là yếu tố cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại ,đăc biệt là trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang ngày càng sâu sắc như hiện nay . Mỗi quốc gia , mỗi chủ sở hữu phải đưa hàng hóa của mình ra trao đổi vơi cac nươc khác trên thế giới . 2.Đặc điểm , bản chất của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Nước ta với đặc điểm chính trị là một nước đi theo con đường XHCN , vì vậy nền kinh tế của nước ta cũng đi theo hướng này. Tuy nhiên trình độ của nước ta vẫn chưa đạt tới nền KTTT xã hội chủ nghĩa mà chỉ mới trong giai đoạn quá độ , hay nói cách khác nền kinh tế của chúng ta là một nền KTTT mang tính chất quá độ . Với đặc điểm là một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp chúng ta đi lên xây dựng nền KTTT nhưng không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển kinh tế của các nước đi trước là từ kinh tế hàng hóa giản đơn chuyển lên KTTT tự do rồi lên KTTT hiện đại mà phải xây dựng nền KTTT hiện đại định hướng XHCN theo kiểu rút ngắn .Sự khác biệt này làm cho nền kinh tế của nước ta mang những đặc điểm chung của nền KTTT nói chung lại vừa mang những đặc điểm riêng có của một nền kinh tế quá độ . 2.1.Nền kinh tế nước ta là nền KTTT gồm nhiều thành phần tham gia trong đó thành phần kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo Như đã biết nước ta đang trong giai đoạn quá độ phát triển lên CNXH vì vậy bản thân nó có những đặc điểm riêng đặc trưng cho giai đoạn này . Một trong những đặc điểm đó là sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất do xã hội tồn tại nhiều hình thưc sở hữu tư liệu sản xuất .Trong đó một số hình thức do lịch sử để lại như sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ : nông dân cá thể , thợ thủ công cá thể , tiểu thương buôn bán nhỏ . Một số lại do kết quả của quá trình cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới làm xuất hiện thêm : hợp tác xã nông nghiệp , hợp tác xã công nghiệp , hợp tác xã tín dụng , xí nghiệp công tư hợp doanh ...Một số khác lại do yêu cầu của quá trình đổi mới và mở cửa :doanh nghiệp liên doanh , doanh nghiệp nước ngoài ...Gắn với mỗi hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là một thành phần kinh tế vì vậy điều tất yếu khách quan là nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế.Hiện chúng ta có sáu thành phần kinh tế chính : thành phần kinh tế Nhà nước thành phần kinh tế tập thể thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ thành phần kinh tế tư bản tư bản tư nhân thành phần kinh tế tư bản Nhà nước thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sáu thành phần kinh tế này cùng tồn tại trong một tổng thể thống nhất , mỗi thành phần là một bộ phận cấu thành nên nền kinh tế quôc dân . Sự phát triển của từng thành phần kinh tế đều góp phần vào sự phát triển chung của tổng thể nền kinh tế . Với đặc điểm là một nền KTTT định hướng XHCN thì thành phần kinh tế Nhà nước ra đời dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất đóng vai tro chủ đạo trong nền kinh tế . Với sức mạnh kinh tế to lớn nhờ có nguồn vốn từ ngân sách , có lực lượng lao động đông đảo được đào tạo chuyên môn , nắm trong tay những ngành nghề then chốt và mũi nhọn như năng lượng , công nghiệp nặng , giao thông vận tải , bưu chính viễn thông ...Kinh tế Nhà nước là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế , là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế góp phần định hướng và tạo lập thế cân bằng trong nền kinh tế , hạn chế tối đa những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội . Thực chất , việc xác lập vai trò chủ đạo của nền kinh tế là vấn đề có tính nguyên tắc thể hiện sự khác biệt có tính bản chất giũa KTTT định hướng XHCN với KTTT tư bản chủ nghĩa . Chính tính định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta đã xác lập vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta . Bởi lẽ , mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó , văn kiện đại hội Đảng IX cũng nhấn mạnh vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước :"kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nên nền tảng của nền kinh tế quốc dân " . 2.2.Nền KTTT ở nước ta vận hành theo cơ chế thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước XHCN Trước hết phải nói rằng nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền KTTT , do đó nó cũng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có như : quy luật giá trị , quy luật cung-cầu , quy luật cạnh tranh ... và giá cả , phương thức phân phối các nguồn lực kinh tế đều do thị trường quyết định .Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế phức tạp ngày nay, hầu hết các nền kinh tế trên Thế giới đều cần có sự quản lý , chi phối và điều tiết của Nhà nước nhằm sữa chữa , hạn chế ở một mức độ nào đó những thất bại của thị trường . Viẹt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó . Với bản chất là một nhà nước "của dân , do dân , vì dân" đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam , Nhà nước XHCN tiến hành quản lý , điều tiết nền kinh tế nhằm sữa chữa những thất bại của thị trường , thực hiện các mục tiêu công bằng xã hội mà tự bản thân nền KTTT không thể thực hiện được . Với mục tiêu đó vai trò quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng , nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và phát triển bền vững ,đạt hiệu quả cao và đặc biệt là bảo đảm công bằng xã hội , rút ngắn sự chênh lệch giữa giàu và nghèo , giữa thành thị và nông thôn , giữa các vùng miền trong cả nước . Nguyên tắc quản lý nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta là kết hợp kế hoạch hóa với thị trường .Trong khi thị trường tồn tại khách quan và vận động theo những quy luật vốn có thì kế hoạch lại là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý và chịu tác động của các yếu tố chủ quan . Kết hợp kế hoạch hóa với thị trường tạo ra một phương tiện hữu hiệu để quản lý nền kinh tế bởi bản thân kế hoạch và thị trường đều tồn tại cả ưu – khuyết điểm . Nếu áp dụng riêng rẽ từng biện pháp thì sẽ tồn tại những hiện tượng không mong muốn gây ra hậu quả xấu cho nền kinh tế . Vì vậy cần kết hợp kế hoạch vơi thi trương để hạn chế bớt nhược điểm , phát huy được ưu điểm thế mạnh của từng phương thức. Kế hoạch hóa với ưu điểm là tập trung được các nguồn lực cho những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,đảm bảo cân bằng tổng thể , gắn mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội ngay tư đầu , vì vậy kế hoạch hóa coa thể hạn chế , sữa chữa và khắc phục khuyết tật cơ bản của kinh tế thị trường là tính tự phát gây mất cân đối , tổn hại cho nền kinh tế . Tuy nhiên kế hoạch hóa cũng tồn tại những nhươc điểm rất lớn mà thực tế những năm trong thời kỳ bao cấp đã chỉ rỏ , đó là kế hoạch hóa không thể bao quát hết tất cả mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã hội .Đặc biệt trong nền KTTT thì sự biến động đó càng nhanh chóng và xãy ra đồng thời trên nhiều lĩnh vực gây nhiều khó khăn trong việc lập kế hoạch cũng như sữa đổi bổ sung các kế hoạch đó . Khi tiến hành lập kế hoạch thì một yêu cầu được đặt ra là kế họah đó phải được lập căn cứ trên các điều kiện thực tế của thị trường , bảo đảm thích ứng kịp thời với sự biến động của đời sống kinh tế xã hội . Ngược lại , thị trường với ưu điểm là sự phát triển nhanh chóng , biến đổi không ngừng, kích thích các chủ thể kinh tế trở nên năng động sáng tạo nhờ đó thúc đẩy mọi mặt của nền kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng . Thị trường chính là căn cư để xây dựng và kiểm tra tính hiệu quả của cac kế hoạch .Muốn thị trường hoạt động phù hợp với định hướng XHCN thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch . Sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường tạo thành một công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý nền kinh tế ở cả tầm vĩ mô và tầm vi mô . Với tầm vi mô thị trường là căn cứ để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh . Thông qua sự biến động của thị trường doanh nghiệp xây dựng được kế hoạch , phương án kinh doanh cụ thể : sản xuất cái gì ? sản xuất bao nhiêu ? và sản xuất cho ai ? bán ở đâu?...Kế hoạch đưa ra nếu càng sát với thực tế thì hiệu quả càng cao, khả năng thu được lợi nhuận cao càng lớn , ngược lại nếu kế hoạch đưa ra không sát với thực tế thì tính khả thi rất thấp gây thiệt hại cho chủ thể kinh doanh . Với tầm vĩ mô , mặc dù thị trường không còn là căn cứ duy nhất có tính quyết định tới kế hoạch nhưng kế hoạch vẫn không thể thoát li khỏi sự tác động của thị trường .Mục đích của kế hoạch tầm vĩ mô là đảm bảo sự cân đối tổng thể của nền kinh tế như :tổng cung-tổng cầu,tổng sản xuất-tổng tiêu dùng, tổng hàng hóa -tổng tiền tệ...Thông qua kế hoạch vĩ mô nhà nước tác động lên giá cả, cung- cầu để điều chỉnh những phát triển tự phát lệch lạc của thị trường. 2.3.Nền KTTT ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối nhưng trong đó phân phối theo lao động là hình thức phân phối cơ bản nhất Mỗi chế độ xã hội có những chế độ phân phối tương ứng với nó . Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị mà trước hết là quan hệ sở hữu quyết định . Với nước ta , do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp , xã hội tồn tại nhiều hình thức sở hữu : sở hữu toàn dân ,sở hữu tập thể , sở hữu cá nhân , sở hữu của nước ngoài và các hình thức sở hữu hỗn hợp giữa chúng .Mỗi hình thức sở hữu lại có một hình thức hay một nguyên tắc phân phối tương ứng với nó .Xã hội Việt Nam thời kỳ quá độ tồn tại nhiều hình thức sở hữu do đó tất yếu sẽ tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập : phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp , phân phối theo giá trị sức lao động , phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội . Trong nhưng hình thức phân phối trên thì hình thức phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối đặc trưng , bản chất của nền KTTT định hướng XHCN . Sở dĩ như vậy vì trong nền kinh tế định hướng XHCN chế độ sở hữu toàn dân được xác định là hình thức sở hữu chính , tương ứng với nó là thành phần kinh tế nhà nước . Như đã phân tích ở trên thành phần kinh tế nhà nước là một thành phần kinh tế có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam . Tồn tai tương ứng với nó là hình thức phân phối thu nhập theo lao động . Chế độ sở hữu toàn dân và hình thúc phân phối theo lao động là hai điểm khac biệt rõ ràng nhất giữa KTTT định hướng XHCN và KTTT tư bản chủ nghĩa . Mục tiêu của chúng ta là lấy phát triển KTTT là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản là xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng , dân chủ ,văn minh, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột , có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc , có đièu kiện để có thể phát triển một cách toàn diện .Với mục tiêu đó mỗi bước phát triển tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với từng bước cải thiện đời sống của nhân dân ,với tiến bộ và công bằng xã hội .Tất cả các hình thức phân phối trên đều góp phân thực hiện mục tiêu đó đặc biệt là hình thưc phân phối theo lao động vì theo phương thức phân phối này người lao động làmm nhiều hưởng nhiều , làm ít hưởng ít tùy vào hiệu quả lao động của họ , người lao động được hưởng phần thu nhập đúng bằng công sức mà họ đã bỏ ra . 2.4.Nền KTTT ở nước ta phát triển theo mô hình mở cửa , hội nhập với khu vực và quốc tế theo nguyên tắc đa phương hóa các quan hệ Quốc tế , đa dạng hóa các hình thưc kinh tế đối ngoại. Cùng nhìn lại 20 năm về trước - giai đoạn những năm 80 – khi đó nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ,là một nền kinh tế đóng không hội nhập , giao lưu với bên ngoài hoặc nếu có thì cũng chỉ thông thương với cac nước cùng phe XHCN mà thôi . Tất nhiên có nhiều lý do ,nhiều yếu tố lịch sử tác động nên Nhà nước ta thực hiên chính sách đóng cửa nền kinh tế, chính sách đó đã làm cho nền kinh tế nước ta một thời gian dài rơi vào tình trạng trì trệ . Chính sách kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã triệt hết sự năng động sáng tạo của người lao động,của cac chủ thể trong nền kinh tế . Hậu quả là nền kinh tế rơi vao khủng hoảng , đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn .Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy và đi đến quyết định phải mở cửa nền kinh tế , hội nhập với khu vực và Thế giới . Đây là một quyết định đúng đắn phù hợp với xu hướng chung của thời đại . Có nhiều lý do để dẫn đến sự hội nhập ,mở cửa trong đó một lý do hết sức quan trọng đó là sự tác động của cuộc cách mạng khoa hoc – công nghệ đang diên ra nhanh chóng và tác động tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội , tới mọi quốc gia làm cho các quốc gia phải phụ thuộc lẫn nhau .Vì vậy mở cửa hội nhập là một xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới để giải quyết mối quan hệ phụ thuộc đó một cách có hiệu quả .Với một nền kinh tế mở cửa , hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới chung ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thu hút vốn , kỹ thuật công nghệ hiện đại cũng như kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác cac tiềm năng và thế mạnh của quốc gia mình một cach có hiệu quả nhất . Việt Nam chúng ta hiên nay cũng đã có nhiều chính sách thu hút vốn , công nghệ của nươc ngoài để tiến hành xây dựng và phát triển nền kinh tế hiện đại theo con đường rút ngắn. Việc mở của hội nhập nền kinh tế theo hướng đa phương hóa , đa dạng hóa các hình thức đối ngoại với cac nước trong khu vực và trên thế giới sẽ mang lại nhiều lợi thế cho nươc ta . Tuy nhiên việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải tuân thủ các thông lệ quốc tế, đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia dân tôc . Điểm lại quá trình suốt 20 năm đổi mới chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu trong quan hệ quốc tế mở đường cho kinh tế phat triển . Thời gian tới chúng ta tiếp tục mở rộng đa phương hóa ,đa dạng hóa các hình thức đối ngoại, cần có những bước đi thích hợp trong tiến trình hội nhập khu vực và quôc tế. Thưc tế Viêt Nam đã và đang trong lộ trình hội nhập và hội nhập hơn nữa với các nước trong khu vực ASEAN ,Việt Nam cũng đang trong lộ trình đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO dự kiến trong năm 2006 này chúng ta sẽ trở thành thành viên chính thức . Gia nhập vào các tổ chức kinh tế của khu vực và thế giới hứa hẹn sẽ mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội để phat triển mạnh hơn nền kinh tế nhiều tiềm năng :thúc đẩy các ngành thế mạnh ( gạo, giày da , may mặc , thủy sản ...) mở rộng thị trường thu hút đầu tư tư nước ngoài .Bên cạnh những cơ hội thì cũng có nhiều thách thức vì khi hội nhập cũng đồng nghĩa với việc phải tháo bỏ hàng rào thuế quan bảo vệ các ngành sản xuất trong nước . Điều đó đông nghĩa rằng các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành không phải là thế mạnh sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong môi trường cạnh tranh khố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKTCT28.docx