Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường

Bài viết này bàn vềmối quan hệgiữa chất lượng và tình trạng không chắc chắn. Sự

tồn tại của những hàng hoá với nhiều thứhạng phẩm chất khác nhau đặt ra những vấn

đềquan trọng và thú vịcho lý thuyết vềthịtrường. Một mặt, sựtương tác giữa những

khác biệt vềchất lượng và tình trạng không chắc chắn có thểgiải thích cho các thể

chếquan trọng trên thịtrường lao động. Mặt khác, bài viết này là một nỗlực khó khăn

nhằm cung cấp cơsởlý thuyết cho lời phát biểu: “Việc kinh doanh tại các quốc gia

kém phát triển thật là khó khăn”. Nói cụthểhơn, tài liệu này cung cấp cơsở đểxác

định chi phí kinh tếcủa sựkhông trung thực. Những ứng dụng tiếp theo của lý thuyết

này bao gồm những nhận định vềcơcấu của thịtrường tiền tệ, vềkhái niệm “có thể

bảo hiểm được”, vềtính thanh khoản của những hàng hoá lâu bền, và vềnhững mặt

hàng có tên tuổi (hàng hiệu).

Có nhiều thịtrường mà trong đó người mua sửdụng một vài giá trịthống kê

thịtrường để đánh giá chất lượng của hàng hoá mà họ định mua. Trong trường hợp

này, người bán có động cơ để đưa ra thịtrường những hàng hóa kém chất lượng, vì

lợi nhuận cuảsản phẩm có chất lượng tốt chủyếu được thụhưởng bởi cảnhóm chịu

ảnh hưởng của các sốliệu thống kê chứkhông thuộc vềcá nhân người bán. Kết quả

là, cảchất lượng hàng hoá trung bình và qui mô của thịtrường có xu hướng suy giảm.

Người ta cũng nhận thấy rằng trên những thịtrường này, sẽcó sựkhác biệt giữa lợi

ích xã hội và lợi ích cá nhân, và do đó, trong một sốtrường hợp, sựcan thiệp của

chính phủcó thểlàm tăng phúc lợi của tất cảcác bên. Hoặc những thểchếtư(private

institutions) có thểmọc lên nhằm tranh thủlợi thếcủa sựgia tăng phúc lợi tiềm năng

có thểmang vềcho tất cảcác bên. Tuy nhiên, vềbản chất, những thểchếnày tạo nên

sựtập trung quyền lực có thểsẽphát triển cùng với những hệquảxấu của riêng nó.

Thịtrường xe ô tô được sửdụng nhưmột ví dụcụthể đểminh họa và triển

khai những ý tưởng vừa được trình bày ởtrên. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng thị

trường này được chọn vì tính cụthểvà dễhiểu chứkhông phải vì tầm quan trọng hay

tính thực tế.

pdf13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 965 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Nieân khoaù 2007-2008 Kinh tế học vi mô Bài đọc Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: Tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường George A. Akerlof 1 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ ĐÃ QUA SỬ DỤNG: TÌNH TRẠNG KHÔNG CHẮC CHẮN VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG1 George A. Akerlof 1 Tác giả xin đặc biệt cảm ơn Thomas Rothenberg vì những nhận xét và cảm hứng vô giá. Ngoài ra, tác giả còn mang ơn Roy Radner, Albert Fishlow, Bernard Saffran, William D. Nordhaus, Giorgio La Malfa, Charles C. Holt, John Letiche, và người chứng nhận, đã giúp đỡ và có những ý kiến đề xuất. Tác giả cũng xin cảm ơn Viện Thống kê Ấn Độ và Tổ chức Ford đã hỗ trợ về tài chính. I. Dẫn nhập Bài viết này bàn về mối quan hệ giữa chất lượng và tình trạng không chắc chắn. Sự tồn tại của những hàng hoá với nhiều thứ hạng phẩm chất khác nhau đặt ra những vấn đề quan trọng và thú vị cho lý thuyết về thị trường. Một mặt, sự tương tác giữa những khác biệt về chất lượng và tình trạng không chắc chắn có thể giải thích cho các thể chế quan trọng trên thị trường lao động. Mặt khác, bài viết này là một nỗ lực khó khăn nhằm cung cấp cơ sở lý thuyết cho lời phát biểu: “Việc kinh doanh tại các quốc gia kém phát triển thật là khó khăn”. Nói cụ thể hơn, tài liệu này cung cấp cơ sở để xác định chi phí kinh tế của sự không trung thực. Những ứng dụng tiếp theo của lý thuyết này bao gồm những nhận định về cơ cấu của thị trường tiền tệ, về khái niệm “có thể bảo hiểm được”, về tính thanh khoản của những hàng hoá lâu bền, và về những mặt hàng có tên tuổi (hàng hiệu). Có nhiều thị trường mà trong đó người mua sử dụng một vài giá trị thống kê thị trường để đánh giá chất lượng của hàng hoá mà họ định mua. Trong trường hợp này, người bán có động cơ để đưa ra thị trường những hàng hóa kém chất lượng, vì lợi nhuận cuả sản phẩm có chất lượng tốt chủ yếu được thụ hưởng bởi cả nhóm chịu ảnh hưởng của các số liệu thống kê chứ không thuộc về cá nhân người bán. Kết quả là, cả chất lượng hàng hoá trung bình và qui mô của thị trường có xu hướng suy giảm. Người ta cũng nhận thấy rằng trên những thị trường này, sẽ có sự khác biệt giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, và do đó, trong một số trường hợp, sự can thiệp của chính phủ có thể làm tăng phúc lợi của tất cả các bên. Hoặc những thể chế tư (private institutions) có thể mọc lên nhằm tranh thủ lợi thế của sự gia tăng phúc lợi tiềm năng có thể mang về cho tất cả các bên. Tuy nhiên, về bản chất, những thể chế này tạo nên sự tập trung quyền lực có thể sẽ phát triển cùng với những hệ quả xấu của riêng nó. Thị trường xe ô tô được sử dụng như một ví dụ cụ thể để minh họa và triển khai những ý tưởng vừa được trình bày ở trên. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng thị trường này được chọn vì tính cụ thể và dễ hiểu chứ không phải vì tầm quan trọng hay tính thực tế. Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Nieân khoaù 2007-2008 Kinh tế học vi mô Bài đọc Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: Tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường George A. Akerlof 2 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh II. Mô hình với ví dụ là thị trường xe ô tô A. Thị trường xe ô tô Bản chất của vấn đề được minh họa thông qua ví dụ về thị trường xe ô tô. Đôi lúc người ta nghe nhắc đến hoặc người ta cảm thấy ngạc nhiên trước sự chênh lệch giá quá lớn giữa những chiếc ô tô mới và những chiếc xe chỉ mới vừa rời các cửa hàng trưng bày mà thôi. Cách giải thích thông thường cho hiện tượng này là niềm vui sướng thuần tuý của việc sở hữu một chiếc ô tô “mới tinh”. Chúng tôi đưa ra một cách giải thích khác. Giả sử chúng ta chỉ có bốn loại xe ô tô (giả định này chỉ nhằm giúp việc giải thích cho rõ ràng hơn chứ không nhất thiết phải có tính chất thực tế). Có xe mới và xe cũ. Có xe tốt và xe xấu (mà ở Hoa Kỳ người ta gọi là “lemons” - đồ vô dụng). Một chiếc xe mới có thể là xe tốt mà cũng có thể là đồ vô dụng, và dĩ nhiên, xe đã qua sử dụng cũng thế, cũng có xe tốt và xe xấu. Các cá nhân trên thị trường này mua một chiếc ô tô mới mà không biết liệu chiếc xe họ mua có phải là xe tốt hay tồi. Nhưng họ biết rằng chiếc xe có thể là xe tốt với một xác suất là q, và cũng có thể là xe tồi với xác suất (1 – q). Theo giả định, q là tỷ trọng xe tốt và (1 – q) là tỷ trọng xe xấu. Tuy nhiên, sau khi sở hữu chiếc xe trong một thời gian, người chủ sở hữu có thể đánh giá chính xác hơn về chất lượng của cỗ xe này; nghĩa là người chủ sở hữu xây dựng được một xác suất mới về khả năng chiếc xe của ông là đồ tồi. Giá trị ước lượng này chính xác hơn so với giá trị ước lượng ban đầu. Giả sử bây giờ người chủ này muốn bán chiếc xe hiện có. Khi ấy tình trạng bất cân xứng về thông tin xuất hiện, vì người bán bây giờ đã am hiểu về chất lượng của chiếc xe nhiều hơn so với người mua. Nhưng trên thị trường xe tốt và xe tồi phải được bán với giá như nhau – vì người mua không thể biết được sự khác biệt giữa một chiếc xe tốt và một chiếc xe xấu. Rõ ràng là một chiếc ô tô đã qua sử dụng không thể được đánh giá bằng một chiếc xe mới - nếu chiếc xe đã qua sử dụng được đánh giá bằng với xe mới, thì hiển nhiên người ta sẽ có lợi khi bán một chiếc xe tồi với mức giá của xe mới, và mua một chiếc xe mới khác, với xác suất có được xe tốt (q) cao hơn so với xác suất mua nhằm xe xấu. Như vậy, người chủ của một chiếc xe tốt ắt sẽ bị cột chặt vào chiếc xe của mình (hoặc là lâm vào tình thế bất lợi khi muốn bán xe). Người chủ này chẳng những không thể nhận được giá trị thật của chiếc xe của mình, mà người ấy cũng không thể thu được giá trị kỳ vọng của một chiếc xe mới. Qui luật Gresham đã được tái hiện với ít nhiều sửa đổi. Vì hầu hết những chiếc ô tô được mua bán sẽ là “đồ vô dụng”, và những chiếc xe tốt có thể hoàn toàn không còn được mua bán nữa, nên những chiếc ô tô “xấu” có xu hướng đánh bật những chiếc xe tốt ra khỏi thị trường (theo một cách thức cũng giống như những đồng tiền cũ xấu sẽ lưu hành trên thị trường nhiều hơn những đồng tiền mới đẹp). Nhưng sự tương đồng với qui luật Gresham không hoàn chỉnh: những chiếc xe xấu đẩy lùi những chiếc xe tốt ra khỏi thị trường vì được bán với giá bằng với xe tốt; tương tự, những đồng tiền cũ xấu được lưu hành nhiều hơn những đồng tiền đẹp vì giá trị trao đổi của chúng cũng như nhau. Nhưng những chiếc xe xấu được bán theo giá ngang với xe tốt bởi vì người mua không thể phân biệt được giữa xe tốt và xe xấu; chỉ có người bán biết mà thôi. Tuy nhiên, trong qui luật Gresham, hẳn là người mua và người bán đều biết sự Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Nieân khoaù 2007-2008 Kinh tế học vi mô Bài đọc Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: Tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường George A. Akerlof 3 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh khác nhau giữa đồng tiền đẹp và đồng tiền xấu. Vì thế, phép so sánh này chỉ có tính chất minh họa, nhưng không hoàn chỉnh. B. Thông tin không cân xứng Chúng ta đã thấy rằng những chiếc xe tốt có thể bị các xe tồi loại ra khỏi thị trường. Nhưng ngay cả khi chất lượng hàng hóa là một biến có tính liên tục cao hơn thì tình trạng tồi tệ hơn cũng vẫn có thể tồn tại. Cũng có thể những chiếc xe xấu sẽ lấn át những chiếc xe không xấu lắm, rồi những chiếc xe không xấu lắm lại lấn át những chiếc xe trung bình, những chiếc xe trung bình lại lấn át những chiếc xe không tốt lắm, và những chiếc xe không tốt lắm lại lấn át những chiếc xe tốt theo một chuỗi sự kiện liên tục cho đến mức cuối cùng thị trường không còn tồn tại nữa. Người ta có thể giả định rằng nhu cầu đối với xe ô tô đã qua sử dụng phụ thuộc nhiều vào hai biến số - giá của xe ô tô p và chất lượng bình quân µ của xe ô tô đã qua sử dụng được mua bán trên thị trường, hay Qd = D(p, µ). Cả nguồn cung xe ô tô đã qua sử dụng và chất lượng bình quân µ đều phụ thuộc vào mức giá, hay µ = µ(p) và S = S(p). Và ở trạng thái cân bằng, cung phải bằng cầu ứng với một mức chất lượng bình quân cho trước, hay S(p) = D(p, µ(p)). Khi giá giảm, thông thường chất lượng cũng sẽ giảm. Và cũng có thể là không còn hàng hoá được mua bán trên thị trường ứng với bất kỳ mức giá nào. Chúng ta có thể suy ra một ví dụ như vậy từ lý thuyết thỏa dụng (utility theory). Giả định rằng có hai nhóm người mua bán: nhóm một và nhóm hai. Nhóm một có hàm thỏa dụng là: U1 = M +∑ = n i ix 1 trong đó M là việc tiêu dùng những hàng hoá khác ngoài ô tô, xi là chất lượng của chiếc ô tô thứ i, và n là số ô tô. Tương tự, ta cho: U2 = M + ∑ = n i ix 1 2/3 trong đó M, xi và n được định nghĩa như trên. Chúng ta có thể có ba nhận xét về hàm thỏa dụng: (1) Nếu không sử dụng hàm thỏa dụng tuyến tính (ví dụ như sử dụng hàm thỏa dụng lô-ga-rit) người ta có thể sa lầy vào việc tính toán đại số phức tạp. (2) Việc sử dụng hàm thỏa dụng tuyến tính cho phép ta tập trung vào những tác động của thông tin không cân xứng; với một hàm thoả dụng lõm, chúng ta phải xử lý một cách kết hợp những ảnh hưởng về rủi ro - phương sai (risk-variance effects) thông thường của tình trạng không chắc chắn và những ảnh hưởng đặc biệt mà chúng ta muốn thảo luận ở đây. (3) Hai hàm thoả dụng U1 và U2 có một đặc điểm khác thường là: việc có thêm một chiếc ô tô thứ nhì, hay tổng quát hơn là chiếc ô tô thứ k sẽ làm tăng thêm cùng một độ thoả dụng như chiếc ô Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Nieân khoaù 2007-2008 Kinh tế học vi mô Bài đọc Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: Tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường George A. Akerlof 4 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh tô đầu tiên. Một lần nữa, chúng ta đành chấp nhận giảm bớt tính chất thực tế của mô hình để tránh tình trạng mất tập trung vào trọng tâm nghiên cứu. Để tiếp tục, chúng ta giả định rằng : (1) cả hai nhóm người mua bán đều là những người muốn tối đa hoá độ thỏa dụng kỳ vọng theo Von Neumann – Morgenstern; (2) nhóm một có N chiếc ô tô với chất lượng x được phân phối đồng đều trong đoạn 0 ≤ x ≤ 2, và nhóm hai không có chiếc ô tô nào cả; (3) giá của “những hàng hoá khác” (M) là bằng 1 đơn vị. Ta ký hiệu thu nhập (bao gồm cả thu nhập có được từ việc bán xe ô tô) của tất cả những người mua bán trong nhóm một là Y1, và thu nhập của tất cả những người mua bán trong nhóm hai là Y2. Cầu đối với xe ô tô đã qua sử dụng sẽ là tổng cầu của cả hai nhóm. Khi ta bỏ qua tính không thể chia (indivisibilities), cầu xe ô tô của nhóm một sẽ là: D1 = Y1 / p µ / p > 1 D1 = 0 µ / p < 1 Và cung xe ô tô của nhóm một là: (1) S2 = pN / 2 p ≤ 2 với chất lượng bình quân là: (2) µ = p / 2 (Để suy ra (1) và (2), chúng ta sử dụng giả định là chất lượng xe ô tô có phân phối đều.) Tương tự, cầu của nhóm người mua bán thứ hai là: D2 = Y2 / p 3µ /2 > p D1 = 0 3µ /2 < p Và cung của nhóm hai: S2 = 0 Như vậy, tổng cầu D(p, µ) là: D(p, µ) = (Y2 + Y1) / p nếu p < µ D(p, µ) = Y2 / p nếu µ < p < 3µ / 2 D(p, µ) = 0 nếu p > 3µ / 2 Tuy nhiên, với mức giá p, chất lượng bình quân là p/2 và do đó không có một giao dịch nào xảy ra ứng với bất kỳ mức giá nào, bất chấp sự kiện là ứng với một mức giá Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Nieân khoaù 2007-2008 Kinh tế học vi mô Bài đọc Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: Tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường George A. Akerlof 5 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh bất kỳ giữa 0 và 3, vẫn có những người trong nhóm một sẵn lòng bán xe ô tô của họ với một mức giá mà những người trong nhóm hai sẵn lòng chi trả. C. Thông tin cân xứng Phần thảo luận ở đây về thông tin cân xứng tương phản với trường hợp thông tin bất cân xứng ở trên. Giả sử chất lượng của xe có phân phối đều, 0 ≤ x ≤ 2. Khi đó, đường cung và đường cầu có thể viết lại như sau: Cung: S(p) = N p > 1 S(p) = 0 p < 1 Và đường cầu là: D(p) = (Y2 + Y1) / p nếu p < 1 D(p) = Y2 / p nếu 1 < p < 3/2 D(p) = 0 nếu p > 3/2 Ở trạng thái cân bằng: (3) p = 1 nếu Y2 < N (4) p = Y2 / N nếu 2Y2/3 < N < Y2 (5) p = 3/2 nếu N < 2Y2/3 Nếu N < Y2, có sẽ có một khoản lợi về độ thoả dụng là N/2 so với trường hợp thông tin không cân xứng. (Nếu N > Y2, trong trường hợp mà thu nhập của nhóm hai không đủ để mua toàn bộ N chiếc ô tô, thì có một khoản lợi về độ thỏa dụng là Y2/2 đơn vị.) Cuối cùng, ta cũng nên lưu ý rằng trong ví dụ này, nếu những người mua bán thuộc nhóm một và nhóm hai có cùng những giá trị ước lượng xác suất như nhau về chất lượng của mỗi chiếc ô tô – cho dù những giá trị ước lượng này có thể khác nhau giữa những chiếc ô tô khác nhau – các phương trình (3), (4), và (5) vẫn sẽ mô tả trạng thái cân bằng với một thay đổi nhỏ: khi đó p sẽ tiêu biểu cho giá trị kỳ vọng của một đơn vị chất lượng. III. VÍ DỤ VÀ ỨNG DỤNG A. Bảo hiểm Có một sự kiện mà ai cũng biết là những người trên 65 tuổi thật khó mà mua được bảo hiểm y tế. Câu hỏi tự nhiên đặt ra là: Thế tại sao không tăng giá (phí bảo hiểm) lên để cân xứng với rủi ro? Câu trả lời của chúng ta là: khi giá tăng, những người bảo hiểm cho chính mình sẽ là những người chắc chắn rằng họ đang cần mua bảo hiểm; vì những sai sót khi kiểm tra sức khoẻ, vì sự thông cảm của bác sĩ đối với những bệnh nhân già nua, Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Nieân khoaù 2007-2008 Kinh tế học vi mô Bài đọc Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: Tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường George A. Akerlof 6 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh v.v. sẽ làm cho người xin mua bảo hiểm dễ dàng đánh giá những rủi ro có liên quan hơn so với công ty bảo hiểm. Kết quả là tình trạng sức khoẻ bình quân của những người xin mua bảo hiểm sẽ giảm xuống khi mức giá (phí bảo hiểm) tăng lên – từ đó dẫn đến không có doanh vụ bảo hiểm nào xảy ra ở bất kỳ mức giá nào.2 Điều này hết sức tương đồng với trường hợp xe ô tô của chúng ta, trong đó chất lượng bình quân của ô tô đã qua sử dụng được cung ứng trên thị trường sẽ giảm xuống theo sự giảm sút tương ứng của mức giá. Điều này nhất quán với cách giải thích trong các sách giáo khoa về bảo hiểm: Nói chung, không có các hợp đồng bảo hiểm dành cho lứa tuổi ngoài sáu mươi lăm… Phí bảo hiểm định kỳ quá cao khiến cho không ai cảm thấy hấp dẫn cả ngoại trừ những người được bảo hiểm bi quan nhất (và cũng có nghĩa là những người có tình trạng sức khoẻ yếu kém nhất). Như vậy, có một vấn đề về sự lựa chọn ngược (adverse selection)3 nghiêm trọng ở lứa tuổi này.4 Số liệu thống kê cũng phù hợp với kết luận này. Cho dù nhu cầu về bảo hiểm y tế tăng lên theo tuổi tác, nhưng điều tra mẫu quốc gia năm 1956 cho 2.809 gia đình với 8.898 người cho thấy rằng mức thanh toán bảo hiểm y tế giảm từ 63 phần trăm cho những người ở lứa tuổi trong khoảng 45 đến 54, chỉ còn 31 phần trăm cho những người ở lứa tuổi ngoài 65. Và thật là ngạc nhiên, điều tra này cũng nhận thấy chi phí y tế bình quân cho nam giới ở tuổi từ 55 đến 64 là 88 đô-la, trong khi nam giới tuổi ngoài 65 trả một mức chi phí y tế bình quân là 77 đô-la.5 Trong khi chi tiêu y tế ngoài bảo hiểm tăng từ 66 đô-la lên 80 đô-la trong những nhóm tuổi này, thì thanh toán bảo hiểm giảm từ 105 đô-la xuống 70 đô-la. Kết luận xem ra là các công ty bảo hiểm đặc biệt cảnh giác trong việc cung ứng bảo hiểm y tế cho người già. Nguyên tắc “lựa chọn ngược” xuất hiện tiềm tàng trong mọi loại hình bảo hiểm. Nhận định sau đây đã được đưa ra trong một quyển sách giáo khoa về bảo hiểm ở trường Wharton: Có một sự lựa chọn ngược tiềm ẩn trong sự kiện là những người có hợp đồng bảo hiểm y tế định kỳ có thể quyết định chấm dứt hợp đồng khi họ trở nên già hơn và phí bảo hiểm tăng cao. Hành động này có thể làm cho công ty bảo hiểm có một tỷ lệ rủi ro bình quân thấp một cách thái quá và các khoản yêu cầu thanh toán bảo hiểm có thể trở nên cao hơn dự tính. Sự lựa chọn ngược “xuất hiện (hay ít ra là có thể xuất hiện) bất kỳ khi nào cá nhân hay nhóm người được bảo hiểm có quyền tự do mua hay không mua bảo hiểm, có quyền quyết định giá trị hay kế hoạch bảo hiểm, và có quyền duy trì hay không tiếp tục hợp đồng bảo hiểm nữa.”6 2 Bài báo rất hay của Arrow “Tình trạng không chắc chắn và chăm sóc y tế” (“Uncertainty and Medical Care”, American Economic Review, Vol. 53, 1963), không trình bày luận điểm này một cách chính thức. Ông nhấn mạnh vào “tâm lý ỷ lại” (moral hazard) hơn là vào sự “lựa chọn ngược”. Theo ý nghĩa chặt chẽ, sự hiện hữu của tâm lý ỷ lại cũng gây bất lợi như nhau cho các chương trình các chính phủ và tư nhân; theo ý nghĩa rộng hơn, trong đó bao hàm cả “sự lựa chọn ngược”, “tâm lý ỷ lại” mang lại một lợi thế quyết định cho các chương trình bảo hiểm của chính phủ. 3 Ở một số tài liệu khác “lựa chọn ngược” (adverse selection) được dịch là “tâm lý ỷ lại” 4 O. D. Dickerson, Bảo hiểm y tế (“Health Insurance”, Homewood, Ill.: Irwin, 1959), trang 333. 5 O. W. Aderson (với J.j. Feldman), Bảo hiểm và chi phí y tế gia đình, (“Family Medical Costs and Insurance”, New York: McGraw-Hill, 1956). 6 H. S. Denenberg, R. D. Eiler, G. W. Hoffman, C. C. Kline, J. J. Melone, và H. W. Snider, Rủi ro và bảo hiểm (“Risk and Insurance”, Englewood Cliffs, N. J.: Prentice Hall, 1964), trang 446. Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Nieân khoaù 2007-2008 Kinh tế học vi mô Bài đọc Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: Tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường George A. Akerlof 7 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh Việc bảo hiểm nhóm, hình thức bảo hiểm y tế phổ biến nhất ở Hoa Kỳ, cũng chọn ra những người khoẻ mạnh, vì tình trạng sức khoẻ đầy đủ nói chung là điều kiện tiên quyết để tuyển dụng lao động. Đồng thời điều này cũng có nghĩa là bảo hiểm y tế ít khi dành cho những người cần đến nó nhất, vì chính các công ty bảo hiểm cũng thực hiện việc “lựa chọn ngược” của riêng họ. Điều này bổ sung thêm một lập luận chính ủng hộ sự chăm sóc y tế.7 Trên cơ sở chi phí và lợi ích, việc chăm sóc y tế cơ bản có thể đáng để thực hiện: vì có thể mỗi cá nhân trên thị trường sẽ sẵn lòng thanh toán chi phí kỳ vọng của việc chăm sóc y tế và mua bảo hiểm, nhưng không một công ty bảo hiểm nào sẵn lòng ký kết hợp đồng bảo hiểm với cá nhân đó cả - ứng với bất kỳ mức giá nào cũng sẽ thu hút quá nhiều “đồ vô dụng”. Kinh tế học phúc lợi về chăm sóc y tế, theo quan điểm này, tương đồng một cách chính xác với lập luận kinh điển về chi tiêu chính phủ cho việc xây dựng đường sá (hàng hoá công). B. Tuyển dụng những người thuộc cộng đồng thiểu số Nguyên tắc “đồ vô dụng” cũng làm sáng tỏ việc tuyển dụng những người thuộc cộng đồng thiểu số. Chủ lao động có thể từ chối tuyển dụng những thành viên của cộng đồng thiểu số cho một số loại hình công việc. Quyết định này có thể chẳng phải xuất phát từ quan điểm phi duy lí hay sự thành kiến nào đó – mà chỉ đơn thuần vì lý do tối đa hoá lợi nhuận, vì nòi giống có thể đóng vai trò như một giá trị thống kê tốt cho nền tảng xã hội, chất lượng học tập, và những năng lực làm việc tổng quát của người lao động. Thành tích học tập tốt có thể đóng vai trò thay thế cho giá trị thống kê này; thông qua xếp hạng sinh viên, hệ thống trường học có thể đưa ra một chỉ báo về chất lượng tốt hơn so với cách chỉ căn cứ vào những đặc điểm bề ngoài khác. Như T. W. Schultz viết: “Cơ cở giáo dục khám phá và trau dồi những tài năng tiềm ẩn. Năng lực của trẻ em và những sinh viên trưởng thành có thể không bao giờ được biết tới cho đến khi được phát hiện ra và bồi dưỡng.”8 (Những chữ in nghiêng là được tác giả bổ sung thêm). Một người lao động không qua đào tạo có thể có những tài năng tự nhiên đáng giá, nhưng những tài năng này phải được chứng nhận bởi “cơ sở giáo dục” trước khi một công ty có thể sử dụng họ; tính không đáng tin cậy của những trường học không tên tuổi làm giảm triển vọng kinh tế của các sinh viên của trường. Sự thiếu thốn này có thể đặc biệt bất lợi cho thành viên của những cộng đồng thiểu số vốn dĩ đã kém ưu thế rồi. Người chủ lao động có thể đưa ra một quyết định có tính duy lý là không tuyển dụng bất kỳ một thành viên nào thuộc cộng đồng này vào 7 Trích đoạn sau đây, cũng rút ra từ một quyển sách giáo khoa về bảo hiểm, cho thấy thị trường bảo hiểm y tế cách biệt như thế nào so với sự cạnh tranh hoàn hảo: “… Các công ty bảo hiểm phải sàng lọc những hồ sơ xin mua bảo hiểm. Lẽ tự nhiên, đúng là nhiều người tự nguyện tìm kiếm sự bảo hiểm đầy đủ bằng cách tự mình đến với công ty bảo hiểm. Nhưng trong các tuyến bảo hiểm y tế và bảo hiểm tai nạn, các công ty bảo hiểm có thể không quan tâm nhiều đến những người tình nguyện tìm mua bảo hiểm mà không được tiếp cận bởi một đại lý bảo hiểm.” (F. J. Angell, Bảo hiểm, nguyên tắc và thực hành, New York: Nhà xuất bản Ronalt, 1957, trang 8-9.) Điều này cho thấy rằng bảo hiểm không phải là một hàng hoá để bán trên thị trường mở. 8 T. W. Schultz, Giá trị kinh tế của giáo dục (New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia, 1964), trang 42. Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Nieân khoaù 2007-2008 Kinh tế học vi mô Bài đọc Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng: Tình trạng không chắc chắn về chất lượng và cơ chế thị trường George A. Akerlof 8 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh những vị trí có trách nhiệm cao, vì thật khó mà phân biệt những người có phẩm chất làm việc tốt với những người có phẩm chất làm việc kém. Kiểu quyết định này rõ ràng là những gì mà George Stigler đã nghĩ đến khi ông viết “trong một thể chế ngu muội, có lẽ Enrico Fermi chỉ là một người làm vườn, và Von Neumann chỉ là một nhân viên thu tiền trong một hiệu thuốc.”9 Tuy nhiên, kết quả là, phần thưởng cho những công trình nghiên cứu tại những trường học không tên tuổi có xu hướng mang về cho toàn bộ tập thể – là làm tăng chất lượng bình quân của nhà trường – chứ không phải cho cá nhân. Chỉ đến khi nào những thông tin khác ngoài thông tin về giống nòi được sử dụng thì mới có động cơ thôi thúc hoạt động đào tạo. Thêm một mối lo nữa là Văn phòng Cơ hội Kinh tế (Office of Economic Opportunity) đang sắp sửa sử dụng phép phân tích lợi ích và chi phí để đánh giá các chương trình của cơ quan này, vì có thể có nhiều lợi ích ngoại tác (những lợi ích có hiệu ứng lan toả). Sự gia tăng lợi ích của việc đào tạo cộng đồng thiểu số thông qua nâng cao chất lượng bình quân của cộng đồng thì cũng đáng kể ngang với sự gia tăng lợi ích nhờ nâng cao chất lượng của từng cá nhân người được đào tạo. Và cũng tương tự như vậy, sinh lợi có thể được phân phối cho cả nhóm hơn là cho cá nhân. C. Chi phí của tính không trung thực Mô hình “đồ vô dụng’’ có thể được sử dụng để đưa ra những nhận định về chi phí của tính không trung thực. Ta hãy xem xét một thị trường trong đó hàng hoá được bán một cách trung thực hay không trung thực; chất lượng có thể được thể hiện ra, nhưng cũng có thể bị thể hiện sai. Dĩ nhiên, vấn đề của người mua là nhận diện chất lượng. Sự hiện diện trên thị trường của những người muốn chào bán những hàng hoá thứ cấp (inferior goods) có xu hướng đẩy thị trường đi đến chỗ không còn tồn tại nữa – cũng giống như trong trường hợp những chiếc ô tô vô dụng của chúng ta. Đây chính là khả năng có thể dẫn đến những chi phí chủ yếu của tính không trung thực, vì những doanh vụ không trung thực có xu hướng đẩy lùi những doanh vụ trung thực ra khỏi thị trường. Có thể có những người muốn mua những hàng hoá có chất lượng tốt và những người muốn bán những sản phẩm chất lượng tốt như thế với những mức giá thích hợp; tuy nhiên, sự hiện diện của những kẻ muốn tống khứ những món hàng tồi tệ như những món hàng tốt có xu hướng đánh bật việc kinh doanh chính đáng. Do đó, chi phí của sự không trung thực không chỉ nằm ở số tiền mà người mua bị đánh lừa; mà chi phí đó còn phải bao gồm cả những thiệt hại do đánh bật những hoạt động kinh doanh chính đáng ra khỏi thị trường. Tính không trung thực trong kinh doanh là một vấn đề nghiêm trọng tại các quốc gia kém phát triển. Mô hình của chúng tôi trình bày một cơ cấu khả dĩ cho nhận định này và phác họa bản chất của những nền kinh tế ‘‘ngoại tác’’ (external economies). Nói một cách cụ thể, trong mô hình kinh tế vừa mô tả, tính không trung thực hay sự biểu thị sai về chất lượng của xe ô tô đã làm thiệt hại ½ đơn vị thoả dụng trên mỗi chiếc ô tô; hơn nữa, sự biểu thị sai này còn làm giảm qui mô của thị trường xe ô tô đã qua sử dụng từ N chiếc xuống còn bằng 0. Như vậy, chúng ta có thể đánh giá được chi phí của tính không trung thực một cách gián tiếp – ít ra là trên lý thuyết. 9 G. J. Stigler, “Thông tin và thị trường lao động”, Journal of Political Economy, tập 70 (tháng 10 năm 1962), phần bổ sung trang 104. Chương trình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4456_thi_truong_hang_hoa_da_qu.pdf