Vai trò của công tác xã hội trong sức khỏe tâm thần và những gợi ý cho Việt Nam

Bài viết tóm tắt này sẽ miêu tả những vai trò của các nhân viên công tác xã hội

trong cung cấp các dịch vụ sức khỏe tâm thần. Chúng tôi cũng sẽ giải thích định nghĩa

“các rối loạn tâm thần”, những yếu tố được xem là nguyên nhân gây ra chúng, những gợi

ý dành cho đào tạo công tác xã hội và những gợi ý đối với công tác xã hội và chăm sóc

sức khỏe tâm thần ở Việt Nam với việc thực hiện Đề án 1215 (Văn phòng Thủ tướng Việt

Nam, 2011).

Với mục tiêu của bài viết này, chúng tôi định nghĩa một rối loạn tâm thần là một

rối loạn trong đó một người (ở bất kỳ độ tuổi nào) trải qua một hay nhiều các triệu chứng

sau: a) lo âu chủ quan; b) một mức độ suy giảm hoạt động chức năng tâm lý và/hoặc xã

hội nhất định; c) hoạt động bất thường hay suy giảm trong các chứng năng cảm giác xung

đột với môi trường chung; và/ hoặc d) chức năng tư duy hay nhận thức bất thường xung

đột với văn hóa của cá nhân (Sands & Gelis, 2012). Nghề công tác xã hội, được định

hướng bởi những bằng chứng khoa học và y tế, nhìn nhận nguyên nhân của các rối loạn

tâm thần là một tập hợp các yếu tố phức tạp trong khuôn khổ “sinh học – tâm lý – xã hội”

đã được xây dựng từ mô hình thống nhất về y tế và bệnh tật (Weiner, 1984). Khuôn khổ

này tính đến yếu tố di truyền, tính dễ bị tổn thương và khí chất của cá nhân, các yêu tố

nguy cơ về mặt sinh học và môi trường, và các nguyên nhân gây căng thẳng về sinh học

và môi trường thúc đẩy “sự biểu đạt” của tính dễ bị tổn thương mắc phải, hay yếu tố có

thể gây cản trở hoạt động chức năng lành mạnh của cá nhân (như trường hợp những tác

động của sang chấn nghiêm trọng). Tầm quan trọng nhất định đối với những yếu tố

nguyên nhân được xác định theo văn hóa – các nền văn hóa khác nhau đặt trọng tâm ở

những yếu tố khác nhau

pdf17 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Vai trò của công tác xã hội trong sức khỏe tâm thần và những gợi ý cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác cá nhân, các gia đình, nhóm và cộng đồng mà chuẩn bị cho sinh viên bắt đầu nghề nghiệp và chuẩn bị cho họ trở thành “người học tập suốt đời” để đảm bảo việc sử dụng tốt nhất những đào tạo nâng cao khi liên quan đến những nhóm dân cư mà họ phục vụ • Những nội dung nghiên cứu và lượng giá để các sinh viên học hỏi làm thế nào để lượng giá một cách phê phán những can thiệp của họ và các kết quả đầu ra đối với các thân chủ, và trở thành “những người tiêu dùng” các nghiên cứu để họ cập nhật những bằng chứng mới nhất về các cách thức thực hành tốt nhất Những gợi ý dành cho Việt Nam 13 Với Nghị định 1212 của Thủ tướng Chính phủ (Văn phòng Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, 2011), bao gồm tổng ngân sách là 8.382 tỷ đồng, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng một kế hoạch đầy tham vọng để xem xét lại toàn bộ hệ thống chăm sóc sức khỏe hành vi của cả nước. Bên cạnh việc củng cố các cơ quan nhà nước cấp địa phương (Sở Lao động Thương binh & Xã hội), Nghị định nhấn mạnh đến vai trò của gia đình và cộng đồng, và chỉ rõ tập huấn những kiến thức và kỹ năng dành cho các gia đình để họ có thể cung cấp các dịch vụ phục hồi chức năng và chăm sóc phù hợp dành cho người có những vấn đề về sức khỏe hành vi (Mục II. Các hoạt động cụ thể của Nghị định). Bước tiếp theo trong định hướng này là xây dựng một mạng lưới các nhà cung cấp dựa vào cộng đồng cùng với chăm sóc liên tục. Ví dụ các gia đình thay thế có thể cung cấp nhà cho những người có các vấn đề sức khỏe hành vi nghiêm trọng và mãn tính những người quay trở lại cộng đồng mà không có gia đình để chung sống hoặc những người chưa tự quản lý được gia đình của riêng mình. Kế hoạch của Nghị định cũng bao gồm tăng cường hợp tác với các nguồn lực tâm linh. Người Việt Nam là những người có tín ngưỡng - ở hầu hết mọi làng xã đều có một ngôi chùa. Với các cộng đồng Thiên chúa giá ở khu vực Đồng bằng Sông Hồng ở phía Bắc cũng như Sông Mekong ở phía Nam, có thể thấy các nhà thờ ở khắp mọi nơi. Rất nhiều trong số các tổ chức tôn giáo này đã cung cấp các dịch vụ từ thiện truyền thống trong nhiều thế kỳ, không có bất cứ nguồn ngân sách nào từ Chính phủ. Nghị định 1215 chính thức công nhận tầm quan trọng của các dịch vụ sức khỏe tâm thần và xã hội bởi các tổ chức cộng đồng: trong mục III. Các giải pháp, Nghị định giải thích rõ ràng nhiệm vụ xây dựng một khung pháp lý để củng cố hỗ trợ và tham gia của cộng đồng trong chăm sóc và phục hồi cho những người có vấn đề về sức khỏe hành vi. Điều này có nghĩa là các chính quyền địa phương có thể khuyến khích 14 các tổ chức cộng đồng tham gia vào hệ thống chăm sóc dành cho những người sử dụng các dịch vụ xã hội. Chính phủ sẽ cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, tập huấn và giám sát để hỗ trợ các tổ chức cộng đồng. Mô hình này sẽ giúp đất nước huy động được những nguồn lực tài chính cũng như nhân lực rộng lớn hiện đang bị che khuất trong cộng đồng. Mô hình này, nếu được xây dựng phù hợp sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức công và tư. Những gợi ý của Nghị định 1215 đối với nghề công tác xã hội cũng như đào tạo công tác xã hội là: 1. Các nhân viên công tác xã hội, với những kỹ năng đặc biệt của họ trong hợp tác, các nhìn nhận toàn diện của họ về các vấn đề sức khỏe hành vi và phục hồi, và những giá trị của họ về giảm kỳ thị, ở vào vị trí hợp lý để hỗ trợ trong việc thi hành Nghị định 1215. Các nhân viên công tác xã hội có thể được tập huấn về các vai trò ở mọi cấp độ can thiệp – lập kế hoạch chính sách ở cấp quốc gia và cấp tình, quản trị các tổ chức cung cấp dịch vụ, kiểm huấn sinh viên và cung cấp dịch vụ chăm sóc trực tiếp cho các cá nhân, các gia đình và cộng đồng. 2. Nghị định 1215 có tiềm năng năng cao nhóm các nhà chuyên môn công tác xã hội sức khỏe tâm thần và đội ngũ nhân viên tổ chức có đủ trình độ chuyên môn. Khi thực hiện, điều này sẽ tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho việc thực hành thực tập là nội dung cần thiết để đào tạo các nhà thực hành sức khỏe hành vi. Chúng tôi mong đợi rằng, những nỗ lực để nâng cao đào tạo công tác xã hội cũng sớm bắt đầu có kết quả trong a) số lượng những nhân viên công tác xã hội lành nghề sẵn sàng làm việc, b) số lượng đội ngũ nhân viên hiện có của 15 các tổ chức có những kỹ năng được nâng cao để cung cấp các dịch vụ công tác xã hội và c) số lượng các nhân viên công tác xã hội có đủ trình độ những người có thể kiểm huấn sinh viên. Về lâu dài, chúng tôi mong đợi rằng sự mở rộng và nâng cao các dịch vụ sức khỏe hành vi của Việt Nam sẽ đóng góp cho nền tảng kiến thức của nghề. Nghiên cứu công tác xã hội rất thực tế và mang tính ứng dụng cao. Các trường đại học và các tổ chức dịch vụ có thể hợp tác để cung cấp các bằng chứng về nhu cầu đối với các dịch vụ và tính hiệu quả đối với những vấn đề chỉ riêng có ở Việt Nam, nhưng cũng là mối quan tâm lớn đối với nhiều quốc gia khác nhưu là hậu quả về sức khỏe tâm thần của việc di cư đô thị đối với các cá nhân và gia đình, làm thế nào để giảm thiếu những hậu quả tâm lý của sang chấn với những người là nạn nhân, và làm thế nào để đáp ứng những nhu cầu về sức khỏe tâm thần của những người khuyết tật, là một vài ví dụ được nêu. Theo cách này, việc mở rộng và cải thiện các dịch vụ sức khỏe hành vi ở Việt Nam sẽ có tác động toàn cầu. 16 Tài liệu tham khảo Adeponle, A. B., Thombs, B. D., Groleau, D., Jarvis, E., & Kirmayer, L. J. (2012). Using the cultural formulation to resolve uncertainty in diagnoses of psychosis among ethnoculturally diverse patients. Psychiatric Services, 63, 147-153. American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders. (5th ed.). Arlington, VA: American Psychiatric Publishing. Auslander, W., & Freedenthal, S. (2006). Social work and chronic disease: Diabetes, heart disease, and HIV/AIDS. In S. Gehlert & T. A. Browne (Eds.), Handbook of health social work (pp. 23-42). Hoboken, NJ: Wiley. Bentley, K. J. (Ed.). (2002). Social work practice in mental health: Contemporary roles, tasks, and techniques. Pacific Grove, CA: Brooks Cole. Corrigan, P. W., Mueser, K. T., Bond, G. R., Drake, R. E., & Solomon, P. (2010). Principles and practice of psychiatric rehabilitation: An empirical approach. New York: Guilford. Eshun, S., & Caldwell-Colbert, T. (2009). Culture and mood disorders. In S. Eshun & R. A. Gurung (Eds.), Culture and mental health (pp. 181-196). West Sussex, UK: Wiley- Blackwell. Kessler, R. C., Aguilar-Gaxiola, S., Alonso, J., Chatterfi, S., He, Y., Heeringa, S., Lee, S., et al. (2013). Global mental health epidemiology. In E. Sorel (Ed.), 21st century global mental health (pp. 3-31). Burlington, MA: Jones & Bartlett. Kessler, R. C., Berglund, P., Demler, O., Jin, R., Merikangas, K. R., & Walters, E. E. (2005). Lifetime prevalence and age-of-onset distributions of DSM-IV disorders in the National Comorbidity Survey Replication. Archives of General Psychiatry, 62, 593-602. National Association of Social Workers. (2014). Social Work Profession Retrieved June 22, 2014, from Sands, R. G., & Gelis, Z. D. (2012). Clinical social work practice in behavioral mental health: Toward evidence-based practice. Boston, MA: Allyn & Bacon. Tran, T. D. (2014). Individual and family counseling. Hanoi, Vietnam: Vietnam National University. Vietnam Office of the Prime Minister. (2011). Decree 1215 (1215/QĐ-TTg). Hanoi, Vietnam. Vuong, D. A., Ginneken, E. V., Morris, J., Ha, S. T., & Busse, R. (2010). Mental health in Vietnam: Burden of disease and availability of services. Asian Journal of Psychiatry, 4, 65-70. 17 Weiner, H. (1984). An integrative model of health, illness, and disease. Health and Social Work, 9, 253-260. World Health Organization. (1992). International Statistical Classification of Diseases and Related Health Problems, 10th Revision (ICD-10). Geneva: WHO. World Health Organization. (2011). Mental Health Atlas 2011: Viet Nam. World Health Organization - Dept. of Mental Health and Substance Abuse Retrieved from =1. World Health Organization. (2013). Mental health action plan 2013-2020. Geneva: World Health Organisation.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvai_tro_cua_cong_tac_xa_hoi_trong_suc_khoe_tam_than_2512.pdf