10 giá trị của bruxchecker trong chẩn đoán nghiến răng khi ngủ

Mục tiêu nghiên cứu: xác định và so sánh sự mất màu đỏ trên BruxChecker giữa hai đối tượng có và không

nghiến răng khi ngủ để đánh giá giá trị của BruxChecker trong chẩn đoán nghiến răng khi ngủ.

Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu cắt ngang trên bệnh nhân đến khám và sinh viên của khoa Răng

Hàm Mặt ‐ ĐH Y Dược Tp.HCM. Thu thập thông tin, trả lời bảng câu hỏi và khám lâm sàng để chọn 40 đối

tượng cho 2 nhóm, mỗi nhóm 20 đối tượng, cho đeo BruxChecker trong 2 đêm liên tiếp, đánh giá và so sánh sự

mất màu trên BruxChecker giữa hai nhóm sau khi chấm bằng thang điểm đánh giá BruxChecker. Phân loại các

kiểu mẫu nghiến ở nhóm có nghiến răng khi ngủ.

Kết quả: Có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001) về sự mất màu đỏ trên BruxChecker ở 2 nhóm có

nghiến răng khi ngủ và không nghiến răng khi ngủ. Về phân loại các kiểu mẫu nghiến trên BruxChecker của

nhóm có nghiến răng khi ngủ với tỉ lệ khá cao

pdf7 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 535 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu 10 giá trị của bruxchecker trong chẩn đoán nghiến răng khi ngủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Răng Hàm Mặt  325 10 GIÁ TRỊ CỦA BRUXCHECKER TRONG CHẨN ĐOÁN  NGHIẾN RĂNG KHI NGỦ  Nguyễn Vũ Thúy Quỳnh*, Nguyễn Thị Kim Anh*, Nguyễn Phúc Diên Thảo*, Đoàn Hồng Phượng*   Trần Thị Nguyên Ny*  TÓM TẮT  Mục tiêu nghiên cứu: xác định và so sánh sự mất màu đỏ trên BruxChecker giữa hai đối tượng có và không  nghiến răng khi ngủ để đánh giá giá trị của BruxChecker trong chẩn đoán nghiến răng khi ngủ.  Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu cắt ngang trên bệnh nhân đến khám và sinh viên của khoa Răng  Hàm Mặt ‐ ĐH Y Dược Tp.HCM. Thu thập thông tin, trả lời bảng câu hỏi và khám lâm sàng để chọn 40 đối  tượng cho 2 nhóm, mỗi nhóm 20 đối tượng, cho đeo BruxChecker trong 2 đêm liên tiếp, đánh giá và so sánh sự  mất màu trên BruxChecker giữa hai nhóm sau khi chấm bằng thang điểm đánh giá BruxChecker. Phân loại các  kiểu mẫu nghiến ở nhóm có nghiến răng khi ngủ.  Kết quả: Có khác biệt có ý nghĩa  thống kê  (p<0,001) về sự mất màu đỏ  trên BruxChecker ở 2 nhóm có  nghiến răng khi ngủ và không nghiến răng khi ngủ. Về phân loại các kiểu mẫu nghiến trên BruxChecker của  nhóm có nghiến răng khi ngủ với tỉ lệ khá cao   Kết luận: có thể sử dụng BruxChecker để chẩn đoán nghiến răng khi ngủ. Bên cạnh đó từ sự mất màu đỏ  trên máng thể hiện những tiếp xúc của các răng trên hai hàm có thể phân loại các kiểu mẫu nghiến ở đối tượng  có nghiến răng khi ngủ.  Từ khóa: nghiến răng khi ngủ, kiểu mẫu nghiến  ABSTRACT  THE EFFICIENCY OF BRUXCHECKER IN THE DIAGNOSIS OF SLEEP BRUXISM  Nguyen Vu Thuy Quynh, Nguyen Thi Kim Anh, Nguyen Phuc Dien Thao, Doan Hong Phuong,   Tran Thi Nguyen Ny * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 325 ‐ 331  Purpose: The object  to  identify and compare  the  loss of  red on BruxChecker between  two groups: no  sleep bruxism (No SB) and sleep bruxism (SB) and to assess the efficiency of BruxChecker in the diagnosis of  sleep bruxism.  Materials and methods: A cross‐sectional study was conducted on 40 participants from the Clinic of  the Faculty of Odonto‐Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City. Gathering  information, wearing  BruxChecker  in  2  consecutive  nights,  identifying  and  comparing  between  the  two  groups, classifying models the tooth grinding pattern.  Results: There are significant differences (p<0.001) in discoloured level of red on BruxChecker between  2 groups: no sleep bruxism and sleep bruxism. The result that overall rate of mediotrusive grinding is 80%  in sleep bruxism group.  Conclusions: It is able to diagnose sleep bruxism by BruxChecker. Besides, the BruxChecker is shown  to be a useful tool in examining the grinding pattern during sleep bruxism.  Keywords: Sleep bruxism, BruxChecker, the grinding pattern  * Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM  Tác giả liên lạc: TS. Trần Thị Nguyên Ny  ĐT: 01662019680 Email: nytran11@yahoo.com   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 326 MỞ ĐẦU  Chẩn đoán và kiểm soát nghiến răng luôn là  đề tài hấp dẫn với nhiều nhà nghiên cứu và các  bác  sĩ  lâm  sàng. Tuy nhiên, hiện nay  có nhiều  quan  điểm  chưa  đồng  thuận  quanh  việc  phân  loại,  chẩn  đoán và  định nghĩa về nghiến  răng.  Một loạt các vấn đề liên quan đến hệ thống nhai  có  thể một  phần  do  thói  quen  cận  chức  năng  như  nghiến  răng  bao  gồm  chấn  thương  nhai,  mòn răng, di chuyển răng,  rối  loạn  thái dương  hàm, thất bại các phục hồi nha khoa và thậm chí  gây  ra những  cơn  đau vùng mặt(10). Mặc dù  đây không phải là một rối loạn đe dọa đến tính  mạng nhưng có  thể ảnh hưởng đến chất  lượng  cuộc sống(4). Kể  từ khi nghiến  răng được coi  là  một yếu tố góp phần các vấn đề về răng, xem xét  thói quen cận chức năng đã thật cần thiết trong  chẩn  đoán  và  lập  kế  hoạch  điều  trị  trước  khi  thực hiện bất kỳ can thiệp nào. Tuy nhiên, hiện  nay  việc  chẩn  đoán  nghiến  răng  vẫn  chủ  yếu  dựa  trên  bảng  câu  hỏi  hay  đến  khi  xuất  hiện  diện mòn trên răng, và không có phương pháp  dứt khoát đáng tin cậy để đánh giá nghiến răng  trên  lâm sàng hợp  lý, hiệu quả, chi phí thấp và  có  tác  động  vào  quyết  định  điều  trị(4). Những  phương pháp mới gần đây như ghi điện đồ cơ  nhai, đa ký giấc ngủ cho một cái nhìn tổng thể,  chi tiết về nghiến răng đáng  tin cậy. Tuy nhiên  có những hạn chế nhất định, khó sử dụng  trên  dân  số  lớn,  chi  phí mắc,  thay  đổi môi  trường  giấc ngủ có thể ảnh hưởng đến hành vi thực tế  của nghiến răng. BruxChecker là một tấm nhựa  polyvinyl mỏng, dày 0,1 mm, được chế tạo bằng  máy  ép  chân  không  Biostar  (Scheu  Dental  ‐  Đức),  các  tấm  trong  suốt  được  làm  nóng  tại  2300C trong 15 giây và ép trên mẫu hàm, sau đó  đã được cắt dọc theo rìa nướu, bề mặt nhai được  sơn với thuốc nhuộm màu đỏ. Axit màu đỏ 51,  còn  được gọi  là Red  số 3 hoặc erythrosin B,  là  một  loại thuốc nhuộm được sử dụng màu thực  phẩm nhân tạo [10]. Một lợi thế của BruxChecker  đã được chứng minh hầu như không gây nhiễu  hoặc  ảnh hưởng đến hoạt động của hàm dưới,  và không gây sự co thắt không cần thiết của cơ  nhai.  Sau  thời  gian  2  đêm  liên  tiếp mang  loại  máng  này,  các  kiểu mẫu  nghiến  giữa  các mặt  răng được thể hiện trên bề mặt máng bởi những  nơi mất màu sơn đỏ(10, 11). Và câu hỏi được đặt ra:  liệu  có  thể  dùng  BruxChecker  để  chẩn  đoán  nghiến răng hay không?  Từ  đó  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  cắt  ngang, có nhóm chứng với các mục tiêu sau: Xác  định  giá  trị  của BruxChecker  trong  chẩn  đoán  nghiến răng khi ngủ. Với các mục tiêu cụ thể:  Xác  định  mức  độ  mất  màu  đỏ  trên  BruxChecker của nhóm không nghiến răng khi  ngủ.  ‐  Xác  định  mức  độ  mất  màu  đỏ  trên  BruxChecker của nhóm có nghiến răng khi ngủ.  ‐ So sánh sự khác biệt về mức độ mất màu  đỏ  trên BruxChecker giữa 2 nhóm có và không  có nghiến răng khi ngủ.  ‐ Phân loại các kiểu mẫu nghiến dựa trên sự  mất  màu  đỏ  trên  BruxChecker  của  nhóm  có  nghiến răng khi ngủ.  ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP  Thiết kế nghiên cứu  Cắt ngang mô tả có nhóm chứng. Mẫu gồm  40 người chia  làm 2 nhóm: có nghiến  răng khi  ngủ  (n=20); không nghiến  răng khi ngủ  (n=20).  Các đối tượng thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu chung:  tự nguyện  tham gia nghiên  cứu, người  trưởng  thành,  tuổi  từ  20  –  40,  không  đang  trong  giai  đoạn chỉnh hình, không đau cấp. Các đối tượng  được xếp vào nhóm  có nghiến răng khi ngủ khi  thỏa các tiêu chuẩn của AASM (Koyano  ‐ 2008)  với 2 điều kiện: (1) Bệnh nhân tự nhận biết hoặc  được người khác cho biết có nghiến răng  trong  vòng 6  tháng gần đây:  trả  lời “có”  từ 2 câu  trở  lên  trong bảng câu hỏi với: Câu 1 “Có ai nghe  thấy  hay  tự  bạn  biết  mình  nghiến  răng  khi  ngủ?”  (bắt buộc) và  trả  lời “Có”  thêm  từ 1 câu  trở  lên  trong những  câu  còn  lại.  (2) Khám  lâm  sàng có: diện mòn (bắt buộc) và có thêm từ 1 trở  lên các dấu hiệu sau: tiếng kêu khớp, đau khớp,  đau  cơ, mỏi  hàm,  giới  hạn  vận  động  hàm:  há  miệng hạn chế khi biên độ há  tối đa < 40 mm,  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Răng Hàm Mặt  327 lệch hàm: độ lệch khi há miệng tối đa > 2 mm.  Dữ liệu được thu thập qua các bước  (1) Chọn trong các bệnh nhân và sinh viên  tại khoa Răng Hàm Mặt ĐH Y Dược Tp.HCM  thỏa  các  tiêu  chuẩn  chọn mẫu  chung,  sau  đó  các đối tượng được cho trả lời bảng câu hỏi và  khám  lâm  sàng  để  chia  thành  2  nhóm:  có  nghiến  răng khi ngủ  (n=20), không  có nghiến  răng khi ngủ (n=20). (2) Lấy dấu hàm trên, gửi  labo làm BruxChecker. (3) Cho bệnh nhân cả 2  nhóm đeo trong 2 đêm liên tiếp (theo Odonera  ‐ 2006).  (4) Thu  thập mẫu BruxChecker và  lấy  số  liệu.  (5) Tư vấn, hướng dẫn,  điều  trị bệnh  nhân nếu cần thiết.  Phương pháp đánh giá   Xác định và so sánh mức độ mất màu đỏ trên  BruxChecker giữa 2 nhóm:  Các  BruxChecker  được  mã  số  hóa  không  được cho biết của nhóm nào.  Đánh giá sự mất màu đỏ  trên BruxChecker  do bác sĩ không tham gia nghiên cứu chấm.  Xác  định  độ  tin  cậy  của người  chấm:  chọn  ngẫu nhiên 30% số mẫu nghiên cứu gồm 15 mẫu  chấm lại lần 2. Độ kiên định tính được là.  Cách đánh giá:   Dụng cụ: một lưới có chia ô (mỗi ô cạnh 1mm)  gắn trên tấm kính trong được cố định song song với  mặt phẳng sàn nhà. Xác định sự song song với mặt  phẳng sàn nhà bằng thước thủy tĩnh.   Hình 1: Dụng cụ chấm BruxChecker  Cách chấm: khi chấm mẫu hàm được đặt áp  sát vào dưới tấm kính sao cho chạm tại 3 điểm: 1  điểm  ở  răng  trước  và  2  điểm  ở  răng  sau.  Sử  dụng  thêm  kính  lúp  để  hỗ  trợ  cho  quan  sát  chính xác hơn. Kính và mắt người quan sát luôn  đặt vuông góc với tấm lưới.  Sự mất màu đỏ trên BruxChecker được đánh  giá  theo  thang  điểm bán  định  lượng do nhóm  nghiên cứu đề nghị với các mức độ như sau:   0: không mất màu.  1: mất màu dạng điểm: S1 rộng <1 ô; dài <1.  2: mất màu đỏ dạng đường: S2 rộng < 1 ô; dài  > 1 ô.  3: mất màu đỏ dạng diện:S3 1 ô ≤ rộng < 3 ô; 1  ô ≤ dài.   4: mất màu đỏ dạng diện  lớn: S4rộng ≥ 3 ô;  dài ≥ 3 ô.  5: lủng.  Mỗi răng được cho 1 điểm, tính điểm trung  bình của cá nhân:  Chỉ số TB = ∑chỉ số từng răng/∑ số răng  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 328 Hình 3. Các mức điểm của thang bán định lượng  Phân loại các kiểu mẫu nghiến dựa trên sự  mất màu đỏ trên BruxChecker của nhóm có  nghiến răng khi ngủ.  20  BruxChecker  của  nhóm  có  nghiến  răng  khi ngủ  được  xếp  loại  theo phân  loại  các kiểu  mẫu  nghiến  theo  nghiên  cứu  của  Park  và  cs.  (2008).  Mỗi  BruxChecker  được  phân  thành  2  bên: phải,  trái; mỗi  bên  được  quan  sát  và  xếp  vào 1 trong 6 loại sau:  Hình 4: Một số kiểu mẫu nghiến   (1):  IC+MG  (T);  IC+MG  (P);  (2):  ICPM+MG  (T); ICP (P); (3): IC (P); ICP (T)  IC:  vùng  nghiến  thuộc  răng  nanh  có  hoặc  không răng cửa.  IC + MG: vùng nghiến thuộc răng nanh có  hoặc không răng cửa có kèm vùng nghiến bên  hướng tâm.  ICP: vùng nghiến thuộc răng tiền cối có hoặc  không răng nanh và răng cửa  ICP + MG: vùng nghiến  thuộc răng  tiền cối  có hoặc không  răng nanh và  răng  cửa  có kèm  vùng nghiến bên hướng tâm  ICPM: vùng nghiến  thuộc  răng  cối  có hoặc  không răng tiền cối, răng nanh và răng cửa  ICPM + MG: vùng nghiến thuộc răng cối có  hoặc không răng tiền cối, răng nanh và răng cửa  có kèm vùng nghiến bên hướng tâm.  Nhập và xử lý số liệu  Nhập số liệu bằng phần mềm Excel và xử lý  số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.  Dùng phép kiểm t‐test để đánh giá sự khác  nhau giữa 2 nhóm có ý nghĩa hay không.  KẾT QUẢ  Xác  định và  so  sánh mức  độ mất màu  đỏ  trên BruxChecker giữa 2 nhóm  Sự  mất  màu  đỏ  trên  BruxChecker  giữa  2  nhóm có khác nhau có ý nghĩa thống kê.  Bảng 1: Điểm trung bình chấm BruxChecker của 2  nhóm  No SB SB Trung bình 2,03 ± 0,80 3,36 ± 0,35 p < 0,001 Phép kiểm định t độc lập  Bảng 2: Tỉ lệ % số răng của 2 nhóm ứng với các mức  điểm theo thang điểm bán định lượng  Nhóm Điểm No SB SB n % n % 0 47 16,8 5 1,8 1 52 18,6 6 2,1 2 32 11,4 8 2,9 3 129 46,1 156 55,7 4 12 4,3 55 19,6 5 0 0 43 15,4 X 8 2,8 7 2,5 3 4 5 1 2 (1) (2) (3) 0 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Răng Hàm Mặt  329 Phân  loại  các kiểu mẫu nghiến dựa  trên  sự mất màu đỏ trên BruxChecker ở nhóm  có nghiến răng khi ngủ:  Bảng 3: Tỉ lệ % các kiểu mẫu nghiến quan sát trên  BruxChecker của nhóm có nghiến răng khi ngủ  Kiểu hướng dẫn n % IC 1 2,5% IC+MG 5 12,5% ICP 2 5% ICP+MG 6 15% ICPM 5 12,5% ICPM+MG 21 52,5% MG 32 80%  BÀN LUẬN  Xác  định và  so  sánh mức  độ mất màu  đỏ  trên BruxChecker giữa 2 nhóm:  Để giải thích sựu khác biệt giữa hai nhóm,  chúng  tôi  xem  xét  điểm  của  từng  răng  ở  hai  nhóm  và  nhận  thấy:  ở  nhóm  không  nghiến  răng  khi  ngủ,  chủ  yếu  sự mất màu  đỏ  trên  BruxChecker ở bốn mức điểm đầu theo thứ tự  là điểm 3 với 46,1%; điểm 1 với 18,6%; điểm 0  với  16,8%;  điểm  2  với  11,4%.  Số  răng  ở mức  điểm  4  thấp  với  4,3%,  không  có  răng  nào  ở  mức điểm 5. Điều này cho thấy vẫn có những  tiếp  xúc  răng giữa  2 hàm  trong khi ngủ,  chủ  yếu ở các răng sau. Sự tiếp xúc răng này có thể  giải  thích  do  tiếp  xúc  hai  hàm  trong một  số  hoạt  động xảy  ra khi ngủ. Kato và  cs.  liệt kê  một số hoạt động sinh lý thuộc hàm mặt có thể  hiện diện  trong bất kỳ giai đoạn nào của giấc  ngủ gồm: nuốt, hoạt động nhịp nhàng của cơ  nhai,  nói mớ,  thay  đổi  biểu  hiện  trên  khuôn  mặt, ho, thở dài, những co giật không đặc hiệu  của  cơ  hàm(5) Trong  đó,  nuốt  là  hoạt  động  phổ  biến  nhất(5),  diễn  ra  thường  xuyên  suốt  ngày  đêm:  khoảng  40  lần/giờ  khi  thức(1)  và  giảm còn 6  ‐ 10  lần/giờ khi ngủ(5). Trong động  tác nuốt trống điển hình, các răng ở vị trí lồng  múi hoặc tiếp xúc lui sau. Như vậy, trong một  đêm  số  lần  nuốt  khá  nhiều,  có  thể  giải  thích  cho  kết  quả mất màu  trên  những  vùng  nhỏ  mức độ 1, 2, 3. Ngoài ra, còn một số hoạt động  khác như: hoạt  động nhịp nhàng  của  cơ nhai  xảy ra từ 1 ‐ 2 lần/giờ có ở 60% dân số ‐ đây là  hoạt động bảo vệ liên quan đến sự tăng độ ẩm  của đường hô hấp. Nói mớ, thay đổi biểu hiện  trên khuôn mặt cũng là hoạt động thường gặp,  ở trẻ em nhiều hơn người lớn ‐ được giải thích  là những biểu hiện cảm xúc liên quan đến giấc  mơ. Ho, hắt hơi,  thở dài  là những hoạt  động  với tần suất ít hơn, thường liên quan đến phản  xạ  bảo  vệ  đường  hô  hấp. Cuối  cùng  là  hoạt  động co giật không đặc hiệu của cơ hàm thuộc  phản ứng vận động để tỉnh giấc(5). Một nghiên  cứu của Suwa và cs. (2009)(14) khảo sát trên trẻ  em  tiểu học  cho  thấy  tỉ  lệ  trẻ  có một  số hoạt  động như ngáy, nói mớ khá cao ở nhóm có  nghiến  răng  khi ngủ. Và  tỉ  lệ  thấp  hơn  ở  trẻ  thuộc nhóm không nghiến  răng.  Đáng  tiếc  là  BruxChecker  chỉ giúp  thấy  được  các  tiếp  xúc  răng  hai  hàm  đã  xảy  ra  trong  khi  ngủ  chứ  không  giúp phân  biệt  tiếp  xúc  đó  là do hoạt  động nào gây ra. Khắc phục điều này thì phải  cần đến thiết bị đa ký giấc ngủ hay ghi điện cơ  đồ cơ nhai để giúp phân biệt nghiến răng thật  sự với các hoạt động sinh lý khác xảy ra trong  khi ngủ.   Ở nhóm có nghiến răng khi ngủ, sự tiếp xúc  răng giữa  2 hàm  xảy  ra  liên  tục với  cường  độ  mạnh  hơn  rất  nhiều  so  với  tiếp  xúc  răng  khi  nuốt. Có  nhiều  định  nghĩa  về  nghiến  răng  từ  trước đến nay, thế nhưng tất cả đều chung nhất  ở điểm là “có sự tiếp xúc mạnh giữa các bề mặt  răng”  (theo  American  Academy  of  Pediatric  Dentistry)(8) và “sự ma sát với cường độ cao và  kéo dài” (từ điển tiếng Pháp Y học và Sinh học).  Và  theo  phân  loại  nghiến  răng  của Hartmann  (1993) thì nghiến răng ban đêm  thường rơi vào  dạng nghiến răng lệch tâm, tức là có sự chuyển  động  nhịp  nhàng  của  hàm  thực  hiện  các  vận  động không  theo diện khớp  thông  thường mà  phát  triển  lực  nằm  ngang  với  trục  của  răng(9).  Chúng tôi cho rằng sự liên hệ giữa các răng như  vậy  đã  tạo  ra vùng mất màu  theo những diện  trên BruxChecker. Và theo thang chấm điểm bán  định  lượng sự mất màu đó ở ba mức điểm sau  của thang điểm là mức 3, 4, 5. Xem xét trên từng  răng ở nhóm có nghiến răng khi ngủ có: 55,7%  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 330 mức  điểm  3;  19,6%  mức  điểm  4;  15,4%  mức  điểm 5. Mức điểm 4 thường thấy trên răng sau,  nếu gặp ở các răng trước thì thường sẽ thấy diện  mòn làm phẳng rìa cắn khá rõ trên những răng  này. Cuối  cùng, mức  độ nghiến  cao nhất  theo  thang điểm chúng tôi đánh giá là mức 5 tức lủng  máng, những múi ghi nhận mức độ 5 thường ở  đỉnh múi răng nanh hoặc múi ngoài một số răng  sau. Như  đã  nói  ở  trên,  trước  đây  nhiều  nhà  nghiên  cứu  đã dựa vào  số  lớp nhựa  lủng  trên  máng  Bruxcore  để  đánh  giá  mức  độ  nghiến  răng(4,13),  và  vì  có  nhiều  lớp  nên  Bruxcore  khá  dày, được mang  trong vòng 5 đêm. Vì vậy, dù  BruxChecker  khá  mỏng  hơn  Bruxcore,  chỉ  0,1mm nhưng do trong thời gian ngắn hơn chỉ 2  đêm nên mức độ nghiến mức  lủng máng cũng  có thể xếp vào mức nghiến nhiều.   Phân loại các kiểu mẫu nghiến dựa trên sự  mất  màu  trên  BruxChecker  ở  nhóm  có  nghiến răng khi ngủ  Phân loại các kiểu mẫu nghiến thể hiện trên  BruxChecker  đã  được  báo  cáo  bởi  các  tác  giả  Onodera  và  cs.  (2006),  Park  và  cs.  (2008),  Sugimoto  và  cs.  (2011),  và  Atlas  Occlusion  Diagnosis  by  BruxChecker  được  xuất  bản  bởi  trường Kanagawa ‐ Nhật Bản(10,11,12,15). Đối với các  tác  giả  này,  trên  lâm  sàng,  khi  thực  hiện một  phục  hình  hay  can  thiệp  trên  khớp  cắn,  điều  quan trọng là các bác sĩ phải xác định được vị trí  trên  răng  sẽ  chịu những  lực  quá mức  hay  nói  cách khác là những vị trí và khu vực múi răng sẽ  bị mòn, đặc biệt ở những người có thói quen cận  chức năng mà cụ thể là nghiến răng. Tuy nhiên,  thường  có  sự khác biệt khi quan  sát giữa mẫu  vận  động  trên giá khớp và  các diện mòn  xuất  hiện  trên  lâm  sang(10). Nói  cách  khác, mặc  dù  trên giá khớp hay quan sát trên lâm sàng không  thấy có sự tiếp xúc ở một số vị trí, thế nhưng các  diện mòn có thể thấy ở các răng này. Điều này  chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa hướng dẫn răng  quan sát trên lâm sàng và hướng dẫn răng trên  thực  tế  trong  hoạt  động  nghiến  răng  khi  ngủ.  Một  số  khái  niệm  như  hướng  dẫn  răng  nanh,  hướng dẫn nhóm, khớp cắn  thăng bằng  từ  lâu  đã được biết đến dựa trên quan sát trong miệng  trên  lâm  sàng  hoặc  trên  giá  khớp.  Tuy  nhiên,  những  hoạt  động  chức  năng  của  hàm  dưới,  chẳng hạn như nhai và nói  là những vận động  tự do  trong “không gian  chức năng”(11). Do  đó  để quan sát/xác định chính xác răng hướng dẫn  cần được căn cứ vào những hoạt động cận chức  năng như nghiến răng(11).   Trong nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện  phân  loại  20  BruxChecker  của  đối  tượng  có  nghiến  răng  khi  ngủ  theo  phân  loại  trong  nghiên  cứu  của  Park  và  cs.  (2008)(11). Với  kết  quả  tỉ  lệ khá cao của  ICPM + MG  đến 52,5%;  tiếp  theo  là  ICP + MG chiếm 15%,  lần  lượt kế  tiếp  là  ICPM 12,5%;  IC + MG  12,5%;  ICP  5%;  cuối  cùng  là  IC  2,5%;  đặc  biệt  tổng  tỉ  lệ MG  chiếm đến 80%. Kết quả tỉ lệ MG trong nghiên  cứu  chúng  tôi  khá  cao  tương  tự  nghiên  cứu  của  các  tác  giả  Park  và  cs.  (2008)(11)  là  51%;  Onodera  và  cs.  (2006)(10)  là  84%.  Các  nghiên  cứu trên cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tỉ lệ các  kiểu  mẫu  nghiến  với  độ  mở,  sự  di  chuyển  khớp  thái dương và những dấu hiệu  rối  loạn  thái  dương  hàm.  Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  này  không đi sâu xem xét các mối quan hệ đó nên  chỉ dừng ở việc đưa ra thêm kết quả phân loại  các mẫu nghiến để tham khảo. Kết quả nghiên  cứu chúng  tôi hy vọng góp  thêm số  liệu phát  triển  những  đề  tài  xoay  quanh  sử  dụng  BruxChecker để xem xét những  tiếp xúc  răng  có  liên quan  thói quen  cận  chức năng nghiến  răng trong tương lai.  KẾT LUẬN  Có  thể  sử dụng BruxChecker  trong  chẩn  đoán  nghiến  răng  khi  ngủ.  Kết  quả  nghiên  cứu này đóng góp thêm thông tin về giá trị sử  dụng  BruxChecker  trong  chẩn  đoán  nghiến  răng khi ngủ.   TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Hoàng Tử Hùng (2005), Cắn Khớp Học, Nhà xuất bản Y Học  Thành phố Hồ Chí Minh, tr.98‐103.  2. Khan  F,  Young WG, Daley  TJ  (1998),  “Dental  erosion  and  bruxism.  A  tooth  wear  analysis  from  South  East  Queensland”, Aust Dent J, 43(2), p.117‐127.  3. Klasser GD, Greene CS, Lavigne GJ (2010), “Oral appliances  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Răng Hàm Mặt  331 and the management of sleep bruxism in adults: A century of  clinical applications and search for mechanisms”, International  Journal of Prosthodontics, 23(5), p.453‐455.  4. Koyano  K,  Tsukiyama  Y,  Ichiki  R,  Kuwata  T  (2008),  “Assessment  of  bruxism  in  the  clinic”,  Journal  of  Oral  Rehabilitation, 35(7), p.495‐508.  5. Lavigne  GJ,  Cistulli  PA,  Smith  MT  (2012),  Odontologie  et  Médecine du sommeil, Quintessence, p.101‐107.  6. Lobbezoo  F,  Ahlberg  J,  Glaros  AG,  Kato  T,  Koyano  K,  Lavigne GJ, Leeuw RD, Manfredini D, Svensson P, Winocur E  (2012),  “Bruxism  defined  and  graded:  an  international  consensus”,  Journal  of  Oral  Rehabilitation,  Blackwell  Publishing, DOI 10.1111/joor.12011.  7. Nadler SC (1957), “Bruxism, a classification: critical review”, J.  Am. Dent. Assoc, 54(5), p.615‐622.  8. Okeson  JP  (1996),  Orofacial  Pain:  Guidelinesfor  Assessment,  Diagnosis and Management. Quintessence Publishing, Chicago,  p.19‐44.  9. Omarjee  R  (2006),  Le  Bruxisme  Du  Sommeil.  Mieux  le  comprendre  pour  mieux  le  prendre  en  charge,  Thèse  pour  l’obtention  du  Diplome  d’état  de  Docteuren  Chirurgie  Dentaire, Saint‐Pierre, p.21‐40.  10. Onodera K, Kawagoe T, Sasaguri K, Protacio‐Quismundo C,  Sato S (2006), “The use of a bruxchecker in the evaluation of  different  grinding  patterns  during  sleep  bruxism”,  Cranio,  24(4), p.292‐299.  11. Park BK, Tokiwa O, Takezawa Y, Takahashi Y, Sasaguri K,  Sato S (2008), “Relationship of tooth grinding pattern during  sleep  bruxism  and  temporomandibular  join  status”,  The  Journal of Craniomandibular Practice, 26(1), p.8‐15.  12. Sato  S  (2005),  Atlas  occlusion  Diagnosis  by  BruxChecker,  Kanagawa  Dental  CollegeResearch  Institute  of  Occlusion  Medicine, p.14‐33.  13. Shilpa S, Varun P, Satish B, Surendra K  (2010), “Bruxism: A  Literature Review”, J Indian Prosthodont Soc, 10(3), p.142‐147.  14. Suwa  S, Takahara K,  Shirakawa  S, Komada Y,  Sasaguri K,  Onozuka M, Sato S (2009), “Sleep bruxism and its relationship  to sleep habits and  lifestyle of elementary school children  in  Japan”, The Authors Journal compilation, 7(2), p.93‐102.  15. www.kdcnet.ac.jp/college/occmed/brux‐e.htm  Ngày nhận bài báo: 22/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013  Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf325_1943.pdf