Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam trong xu thế hội nhập kế toán quốc tế: Cơ hội và thách thức

Hiện nay, Bộ tài chính đang triển khai thực hiện Quyết định 480/QĐ-TTg ngày

18/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Kế toán – Kiểm toán

đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của

Chính phủ, về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Theo đó việc phát triển và

hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chuẩn mực Báo cáo tài chính tại Việt Nam là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách cần phải được triển khai để đáp ứng yêu cầu của nền

kinh tế trong giai đoạn hội nhập.

Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế bao gồm các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS)

và các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) đã được Hội đồng chuẩn mực kế toán

quốc tế ban hành và nhiều lần điều chỉnh, cập nhập và thay thế. Chuẩn mực kế toán quốc

tế là điều kiện quan trọng đảm bảo cho các doanh nghiệp, tổ chức trên toàn thế giới áp

dụng các nguyên tắc kế toán thống nhất trong công tác lập và trình bày báo cáo tài chính.

Hiện nay nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản và các quốc gia Châu Âu, Châu

Á Thái Bình Dương đang tiến dần đến xu hướng hội tụ IFRS. Trong xu thế toàn cầu hoá về

kế toán, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài tiến trình hội nhập với hệ thống chuẩn mực

báo cáo tài chính quốc tế. Bài viết này sẽ điểm lại quá trình hình thành và phát triển IFRS,

xu hướng phát triển của IFRS và những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng IFRS tại Việt

Nam.

pdf17 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 23/05/2022 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam trong xu thế hội nhập kế toán quốc tế: Cơ hội và thách thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n viên trong công ty. Tuy nhiên, đại bộ phận kế toán viên tại các doanh nghiệp Việt Nam là những người trực tiếp lập BCTC đều chưa được đào tạo và tiếp cận IFRS. Hầu như các trường đại học chưa triển khai việc đào tạo IFRS cho sinh viên dẫn đến tình trạng sinh viên khi ra trường chưa biết gì về IFRS. Ngoài ra, bản thân cơ quan thuế cũng như các cán bộ thuế cũng chưa nắm rõ về các chuẩn mực của IFRS nên khi làm theo IFRS thì chênh lệch giữa thu nhập chịu thuế và lợi nhuận kế toán sẽ ngày càng khác biệt. Do vậy, vẫn còn xảy ra những tranh luận giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp khi các cơ quan này nhận được bộ BCTC theo IFRS từ phía các doanh nghiệp. Ngoài những khó khăn kể trên còn có những khó khăn từ thông số của thị trường. Khi đánh giá giá trị hợp lý thì phải có thị trường thích hợp để đánh giá. Ví dụ khi muốn đánh giá giá trị hợp lý của một sản phẩm loại A thì chúng ta phải có thị trường để xác định giá trị của sản phẩm đó trong khi đó trên thực tế, chúng ta vẫn chưa có đủ thị trường để xác định giá trị. Ngoài ra, hệ thống đánh giá tín nhiệm, xếp hạng doanh nghiệp của Việt Nam cũng chưa mạnh vì khi áp dụng IFRS thì phải xác định các yếu tố như là lãi suất hiệu lực. Muốn xác định lãi suất hiệu lực thì phụ thuộc nhiều vào yếu tố xác định rủi ro, hệ thống quản trị cũng như xếp hạng doanh nghiệp để xác định lãi suất hiệu lực đối với từng doanh nghiệp. Còn với thị trường vốn, vì quy mô doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ nên thị trường trái phiếu chuyển đổi chưa phát triển dẫn đến công cụ vốn và công cụ nợ nếu muốn tính theo chuẩn mực quốc tế còn gặp khó khăn do chưa có đầy đủ các thị trường để chúng ta đo lường và xác định giá trị. Thứ năm, Áp dụng IFRS tại Việt Nam - Cần lộ trình phù hợp. Theo IASB, IFRS phù hợp với toàn bộ các công ty có trách nhiệm giải trình đại chúng. Điều này bao gồm các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán và theo đó có trách nhiệm báo cáo tới các cổ đông. Các công ty này cũng bao gồm các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tương hỗ và các tổ chức tương tự có nhận vốn từ công chúng. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) không có trách nhiệm BCTC ra công chúng, họ thấy chi phí để hiểu và áp dụng IFRS cao hơn lợi ích thu được, do vậy IASB có các IFRS riêng cho SMEs. Một trong những câu hỏi lớn dành cho Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào đang cần cập nhật các chuẩn mực kế toán, là liệu có nên áp dụng IFRS hay điều chỉnh để phù hợp với những yêu cầu trong nước? Hầu hết các quốc gia đều cân nhắc trước vấn đề này, và đại đa số chọn áp dụng IFRS và không điều chỉnh gì. 334 Tại một hội thảo về chia sẻ kinh nghiệm triển khai IFRS tại các nước đang phát triển diễn ra ngày 8/3/2016 tại Bộ Tài chính, ông Hans Hoogervorst, Chủ tịch IASB cho biết IASB rất khuyến khích Việt Nam tham gia cộng đồng các quốc gia áp dụng IFRS bằng việc áp dụng nguyên vẹn bộ Chuẩn mực IFRS bởi những lợi ích mà IFRS đem lại cho nền kinh tế quốc gia và cam kết hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong từng giai đoạn triển khai áp dụng IFRS. Cũng tại Hội thảo này, ông Đặng Thái Hùng, Vụ trưởng Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán, Bộ Tài chính, cho rằng cần có lộ trình phù hợp để từng bước tiến tới áp dụng hoàn toàn IFRS, bên cạnh đó cần có sự tư vấn, hỗ trợ của IASB và chuyên gia của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế. Với kinh nghiệm dày dặn trong việc tư vấn áp dụng IFRS trên toàn cầu, một số tổ chức nghề nghiệp quốc tế và các công ty kiểm toán cam kết hỗ trợ Bộ Tài chính, thông qua Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán, gây dựng lộ trình và triển khai áp dụng IFRS tại Việt Nam, đồng thời sẽ tư vấn, trợ giúp các doanh nghiệp có nhu cầu lập BCTC theo IFRS. Về vấn đề này, theo ông Đặng Thái Hùng, cần có sự hợp tác hiệu quả, bài bản và sâu rộng hơn nữa giữa các bên để việc áp dụng IFRS được hiệu quả hơn. Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã nhận được một số bản diễn giải chuẩn mực quốc tế và sự hợp tác của các chuyên gia quốc tế trong việc tư vấn doanh nghiệp áp dụng IFRS. Việc áp dụng hoàn toàn IFRS kỳ vọng sẽ mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu tố của BCTC, loại trừ sự khác biệt trong chuẩn mực kế toán, là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong lập và trình bày BCTC. Việc thực hiện theo IFRS thực sự là một thách thức về mức độ phát triển của thị trường, trình độ, năng lực của kiểm toán viên, kế toán viên và cả các nhà đầu tư trên thị trường. Đối với TTCK, việc lập và trình bày BCTC theo IFRS sẽ hỗ trợ nâng cao tính công khai, minh bạch và bền vững của thị trường. Tuy nhiên, việc chuyển đổi BCTC được lập theo VAS sang IFRS đòi hỏi nỗ lực không nhỏ từ các doanh nghiệp và những người làm công tác tài chính kế toán. Thứ sáu, Việc áp dụng và thực hiện IFRS đòi hỏi phải bỏ ra các khoản chi phí đầu tư và duy trì khá lớn. Với sức ép và sự giám sát ngày càng cao của các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý, trong khi việc chuyển đổi sang IFRS cần nhiều thời gian, doanh nghiệp không thể bỏ qua vấn đề này nếu muốn thành công trong môi trường cạnh tranh. Việc lập lộ trình để áp dụng IFRS, bao gồm nâng cao nhận thức, đào tạo và xây dựng hệ thống là cấp bách và bắt buộc. Đó là việc xây dựng lại hệ thống các quy trình thu thập, xử lý và cung cấp thông tin, số liệu kế toán, tài chính; thay đổi hệ thống phần mềm và đào tạo lại cho nhân viên để chuyển đổi lại hệ thống báo cáo. Các chuyên gia ước tính chi phí bỏ ra để thực hiện những thay đổi trên, đặc biệt là sự thay đổi phần mềm kế toán là không hề nhỏ nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty lớn. Chi phí này có thể lên tới hàng triệu đô la Mỹ. 3.3 Thực trạng áp dụng IFRS vào Việt Nam Hiện nay, ở Việt Nam, IFRS được yêu cầu cho các ngân hàng Nhà nước và cho phép các ngân hàng thương mại. Tất cả các công ty của Việt Nam, niêm yết hoặc không 335 niêm yết phải lập báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, chỉ một số doanh nghiệp lập báo cáo tài chính theo IFRS nếu có vốn đầu tư nước ngoài hoặc niêm yết trên thị trường quốc tế. Trên thực tế hiện nay, có nhiều doanh nghiệp Việt Nam muốn niêm yết cổ phiếu, phát hành trái phiếu tại thị trường chứng khoán nước ngoài và các doanh nghiệp này thường gặp phải yêu cầu bắt buộc là có báo cáo tài chính theo IFRS. Bảng: Khảo sát tình hình áp dụng IFRS trong các doanh nghiệp Việt Nam Số lượng công ty Áp dụng IFRS Tỷ lệ % Không áp dụng Tỷ lệ % Tổng cộng Tổ chức tín dụng 4 6.9 54 93.1 58 Tổ chức phi tín dụng 1 1.09 91 98.91 92 Tổng cộng 5 3.33 145 96.67 150 (Nguồn: Tác giả tổng hợp) Qua khảo sát thực tế từ 150 doanh nghiệp thì có 4 ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng ngoại thương Việt Nam, tập đoàn Bảo Việt là áp dụng IFRS trong việc lập báo cáo tài chính chiếm 6.9%. Duy nhất có một tổ chức phi tín dụng là Vingroup Joint Stock Company công bố thông tin báo cáo tài chính theo cả chuẩn mực kế toán Việt Nam và IFRS chiếm 1.09%. Còn 145 doanh nghiệp không áp dụng IFRS mà tuân thủ theo chuẩn mực kế toán Việt Nam. Do đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế, năm 2014, Bộ Tài chính đã ban hành Chế độ kế toán doanh nghiệp theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC (thay thế Quyết định số 15/2006 ngày 20/03/2006) và Thông tư số 202/2014/TT-BTC về hướng dẫn lập báo cáo tài chính hợp nhất. Các Thông tư mới này đã góp phần nâng cao chất lượng của báo cáo tài chính, cung cấp các thông tin đáng tin cậy phục vụ việc ra quyết định kinh tế và thu hẹp khoảng cách giữa chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam với IAS/IFRS. Vào tháng 2/2016, trong Báo cáo Việt Nam 2035 “Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và WB đã đưa ra đề xuất rằng VAS cần thống nhất với IFRS, nhằm phát triển các thị trường vốn theo chiều sâu và thu hút hơn nữa nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, việc áp dụng IFRS sẽ giúp Việt Nam đi đúng hướng với tầm nhìn Việt Nam 2035, các chính sách của ASEAN cũng như theo kịp đà phát triển của những nền kinh tế thành công khác trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam hội nhập kinh tế sâu rộng trong bối cảnh thị trường “phẳng” toàn cầu với việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)... 5. Kết luận Áp dụng IFRS ở Việt Nam thực sự là một thách thức đối với các doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách. Việc thực hiện theo IFRS được ví như một cuộc cách mạng 336 trong công tác kế toán và lập báo cáo tài chính đòi hỏi phải nỗ lực rất lớn của tất cả các bên liên quan để vượt qua các thách thức và trở ngại. Theo các chuyên gia thì mô hình hợp lý cho việc áp dụng IFRS ở Việt Nam là vận dụng có chọn lọc IFRS trong giai đoạn đầu tiên. Trong tương lai, để có thể áp dụng rộng rãi và phổ biến IFRS nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán, Việt Nam cần tiến hành nhiều giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, bao gồm cả giải pháp trực tiếp đối với hệ thống chuẩn mực kế toán và giải pháp thuộc về môi trường kinh tế, pháp luật. Các biện pháp cơ bản trong thời gian tới nên là: Một là, Tăng cường đào tạo, tập huấn, cập nhật kiến thức về các Chuẩn mực quốc tế dưới nhiều hình thức thông qua các tổ chức quốc tế (ACCA, ICAEW...), Hiệp hội nghề nghiệp trong nước (VACPA, VAA), Phòng thương mại công nghiệp Việt nam (VCCI), các Công ty tư vấn, dịch vụ kế toán – kiểm toán, các cơ sở đào tạo là các trường Đại học, Cao đẳng có chuyên ngành kế toán – kiểm toán Hai là, Tổ chức dịch thuật các Chuẩn mực quốc tế sang tiếng Việt trên nguyên tắc đảm bảo sát với nguyên gốc và đồng thời Chú trọng đào tạo đội ngũ lao động kế toán trẻ chuyên nghiệp, có kiến thức chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và thành thạo ngoại ngữ để có thể chủ động tham gia vào thị trường kế toán – kiểm toán sôi động trong khu vực, nắm bắt kịp thời các cơ hội khi hội nhập thế giới Ba là, Nâng cao nhận thức cho các nhà quản lý DN về vai trò của Chuẩn mực kế toán quốc tế trong quá trình hội nhập, các đòi hỏi của Chuẩn mực kế toán quốc tế đối với sự thay đổi trong quản trị cho phù hợp với chuẩn quốc tế Bên cạnh việc thực hiện tốt các biện pháp ngắn hạn trên, trong dài hạn nên chuyển giao chức năng soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán – kiểm toán Việt nam sang cho Hội nghề nghiệp (VAA, VACPA) hoặc thành lập và giao cho Hội đồng Chuẩn mực kế toán – kiểm toán (độc lập với cơ quan quản lý Nhà nước) như hầu hết các nước để đảm bảo sự độc lập chuyên môn, cập nhật kịp thời các yêu cầu của thị trường trong các Chuẩn mực kế toán – kiểm toán; thúc đẩy nhanh chóng hơn nữa quá trình hội nhập với IFRS/IAS bắt kịp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng của Việt nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bộ Tài chính, 2005b. Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt nam. Nhà xuất bản Tài chính, Hà nội. 2. A. Adam và Đỗ Thùy Linh, 2005. Hội nhập các nguyên tắc kế toán và kiểm toán quốc tế. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 3. Đặng Thái Hùng, 2008. Hệ thống CMKT Việt nam: sự cần thiết, nội dung và lộ trình của việc cập nhật và ban hành mới. Tạp chí Kế toán. < muc- ke-toan-viet-nam-su-can-thiet-noi-dung-va-lo-trinh-cua-viec-cap-nhat-va-ban- hanh.html?>. [ngày truy cập: 19 tháng 11 năm 2011]. 4. Đoàn Xuân Tiên, 2008. Hệ thống CMKT Việt nam: Những vấn đề cần tiếp tục hoàn 337 thiện. Tạp chí Kiểm toán. Số 6 (91), tháng 6. 5. Nguyễn Phúc Sinh, 2008. Nâng cao tính hữu ích của BCTC doanh nghiệp Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Luận án tiến sỹ. Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh 6. Nguyễn Thị Kim Cúc, 2009. Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp nhằm phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế của Việt nam. Luận án tiến sỹ. Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh 7. Phạm Thị Thanh Hà, 2009. Một số định hướng cho kế toán Việt Nam trong tiến trình hội nhập kế toán quốc tế. Luận văn thạc sỹ. Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh 8. Phạm Hoài Hương, 2010. Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5(40). 9. Vũ Hữu Đức và Trình Quốc Việt, 2008. Tìm kiếm một chiến lược cho quá trình hội nhập quốc tế về kế toán tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 218. 10. Trần Quốc Thịnh, 2012, Thách thức của quá trình hội tụ kế toán quốc tế và những kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí kiểm toán số 3/2012 11. Baker, C.R. & Barbu, E.M., 2007. Trends in research on international accounting harmonization. The International Journal of Accounting, 42(3). [on line] Available at:[Accessed August 12, 2011] 12. Nguyen Cong Phuong & Jacques Richard, 2011. Economic Transition and Accounting System Reform in Vietnam. European Accounting Review. 13. Nguyen Cong Phuong & Tran dinh Khoi Nguyen, 2012. International harmonization and national particularities of accounting - Recent accounting development in Vietnam. Journal of Accounting & Organizational Change, Vol. 8 No. 3, pp. 431-451 14. Lasmin, D., 2011a. Empirical Evidence on Formal and Material Harmonization of National Accounting Standards. Journal of International Business Review, Forthcoming. [on line] Available at: [Accessed Oct 2, 2011] 15. Laili, N., 2008. IFRS Adoption and Organisational Change-Evidence from Malaysia. Journal of Law and Financial Management, 7(2). [on line] Available at: [Accessed Sep 12, 2012] 16. Cairns, D. et al., 2011, IFRS fairvalue measurement and accounting policy choice in the United Kingdom and Australia, The British Accounting Review, 43(1). [on line] Available at: [Accessed August 12, 2012] 17. World Bank, 2006. Report On The Observance Of Standards And Codes – 338 Accounting and Auditing Update -The Philippines. . [Accessed October 24, 2012]. 18. IFRS, 2012a. Access the unaccompanied standards and their technical summaries.[online] Available at: [Accessed Oct 2, 2012] 19. IFRS, 2012b. The IFRS Foundation and its translation policies. [on line] Available at: < translations.aspx> [Accessed Oct 2, 2012], IFRS, 2012c. The move towards global standards. [on line] Available at: around-the-world.aspx [Accessed Oct 2, 2012] 20. IFRS Foundation, 2012a. Due Process Handbook for the IASB, IFRS Foundation, 2012b. Report to the Trustees of the IFRS Foundation: IFRS Foundation staff analysis of the SEC Final Staff Report - Work Plan for the consideration of incorporating IFRS into the financial reporting system for US issuers. <www.ifrs.org/Use...US.../Analysis- of-SEC-Final-Staff-Report.pdf>. [Accessed Oct 2, 2012] 21. Duc Hong Thi Phan, B.M (2014). Optimal approach and timeline for IFRS adoption in Viet Nam: Perceptions from accoungting professional. Elsevier.doi: 22. Duc Hong Thi Phan, B.M; Meropy Barut (2014). International financial reporting standards (IFRS) adoption in Viet Nam: If, when and how? Coporate Ownership&Control, 11(4) 23. Daske, H, Hail, L, Luez, C & Verdi, R 2013. Adoping a Label: Heterogeneity in the Economic Consequences Around IAS/IFRS Adoptions. Journal of Accounting research, vol 51, no 3, pp 495-547 24. Mahesh Joshi Prem W.Senarath Yapa Diane Kraal (2016), IFRS adoption in Asean countries perception of professional accountants from Singapore, Malaysia and Indonesia, internaltional journal of managerial finance, vol 12 iss 2, pp 211-240 25. Merve Kilic Ali Uyar Basak Ataman (2016), preparedness of the entities for the IFRS for SMEs: an emerging country case, journal of accoungting in Emerging Economies, vol 6 iss 2, pp 156 - 178

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfap_dung_chuan_muc_bao_cao_tai_chinh_quoc_te_vao_viet_nam_tro.pdf