Bài giảng Đánh giá trẻ khuyết tật trong giáo dục đặc biệt (Phần 1)

Kiến thức: Người học nắm được những kiến thức cơ bản về đánh giá, đặc

điểm của đánh giá trong giáo dục đặc biệt, mục đích của đánh giá trong giáo dục

đặc biệt. Hiểu rõ, biết cách lựa chọn và sử dụng các phương pháp đánh giá phù

hợp với từng giai đoạn. Nắm vững các lĩnh vực cần đánh giá. Hiểu rõ về các loại

đánh giá để lập kế hoạch can thiệp, đánh giá tiến bộ, đánh giá cuối kì.

Kĩ năng: Người học có được những kĩ năng trong việc lựa chọn và sử dụng các

phương pháp và công cụ khám sàng lọc, chẩn đoán một cách phù hợp.

Thái độ: Có thái độ nghiêm túc, cẩn thận khi đánh giá. Trân trọng khả năng và

nhu cầu của trẻ, tôn trọng, khích lệ trẻ học tập; yêu nghề, tận tâm với giáo dục trẻ

khuyết tật; tích cực, chủ động tìm kiếm và áp dụng kiến thức, kỹ năng vào việc thu

thập thông tin, đánh giá trẻ một cách khách quan từ đó góp phần can thiệp sớm và

có hiệu quả.

pdf35 trang | Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Đánh giá trẻ khuyết tật trong giáo dục đặc biệt (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nữa về cách thức học sinh giải quyết những khó khăn về mặt toán học, tổ chức viết các bài luận hoặc nghiên cứu các chương trong sách giáo khoa. Phỏng vấn lâm sàng tập trung vào qui trình mà học sinh tuân thủ để hoàn thành một nhiệm vụ. Sản phẩm của công cụ này có lợi ích thứ cấp. Một số chiến lược hoàn toàn có thể quan sát. Do đó trong quá trình tthực hiện phỏng vấn lâm sàng, nhà chuyên môn cần cẩn thận lưu ý tới các hành vi của học sinh. Tuy nhiên, các chiến lược mang tính nhận thức lại không thể quan sát được và báo cáo của học sinh trở thành cơ sở thông tin đối với khía cạnh thực hiện nhiệm vụ này. Giáo viên ghi lại lưu ý đối với những gì mà học sinh làm, sau đó yêu cầu học sinh miêu tả qui trình tư duy đi kèm với những hành động đó. Phỏng vấn lâm sàng thường diễn ra trong lúc học sinh đang thực hiện nhiệm vụ của mình. Ví dụ nếu yêu cầu của nhiệm vụ là giải quyết những khó khăn đối với các từ về toán học, học sinh sẽ được cung cấp một số vấn đề ở mức độ khó phù hợp. Sau đó để tìm ra những chiến lược không thể quan sát, các nhà chuyên môn phải hướng dẫn học sinh phải “nghĩ ra trong lúc giải quyết các vấn đề đó”. Sau đó nhà chuyên môn có thể quan sát, lắng nghe báo - 25 - cáo của học sinh và đặt ra những câu hỏi nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa hoặc để tìm hiểu những khía cạnh chưa được thảo luận. Trong một số trường hợp, các nội dung phỏng vấn được tiến hành ngay lập tức sau khi học sinh đã kết thúc nhiệm vụ của mình. Việc đánh giá kỹ năng viết là một ví dụ. Hoàn toàn không can thiệp vào hành động tập trung của học sinh. Buổi phỏng vấn cần diễn ra ngay sau khi học sinh đã kết thúc kỹ năng viết. Không nên có sự chậm trễ giữa việc hoàn thành công việc với việc tiến hành phỏng vấn, nếu không học sinh có thể không kể lại chính xác một loạt các bước đã thực hiện đối với nhiệm vụ. Phỏng vấn lâm sàng là một kỹ thuật đánh giá tinh vi. Nó đòi hỏi phải có chuyên môn trong quá trình quan sát và sử dụng kỹ thuật phỏng vấn, đòi hỏi kiến thức đối với khía cạnh giáo trình đang được đánh giá và kiến thức đối với những kiểu chiến lược nhận thức khác nhau mà học sinh có thể áp dụng để hoàn thành một loạt công việc khác nhau. Kết quả dữ liệu mang tính chủ quan ở chỗ dữ liệu đó là báo cáo về những hành vi không thể quan sát được của người thông tin. Tuy nhiên, phỏng vấn lâm sàng là phương thức trực tiếp nhất để thu thập dữ liệu liên quan tới các chiến lược nhận thức và có thể cung cấp những hướng dẫn quan trọng để xây dựng cấu trúc của quá trình giảng dạy. 4.4. Nhóm đánh giá (Các thành viên tham gia chẩn đoán và đánh giá): c Các thành viên của nhà trường: Các giáo viên phổ thông và giáo viên chuyên biệt, những người trực tiếp làm việc hàng ngày với trẻ khuyết tật, là các thành viên không thể thiếu của nhóm. Các giáo viên có thể cung cấp thông tin trên mọi khía cạnh của sự phát triển của học sinh, đặc biệt là sự thể hiện khả năng học tập, tình trạnh về xã hội và tình cảm. Các giáo viên phổ thông đóng góp các thông tin có giá trị về các kỹ năng xã hội của học sinh trong tiếp xúc với bạn bè của chúng. Họ cũng mang đến những thông tin chính xác về qui trình và chương trình dạy học trên lớp và có được những hiểu biết trực tiếp về sự đáp ứng của học sinh đối với các qui trình cà chương trình đó. Các thủ tục đánh giá của họ thường bao gồm các trắc nghiệm nhóm về kết quả học tập, các phép đo không chính thức và những kiểm tra, quan sát lớp học và các hồ sơ. Họ có thể mô tả sự tiến bộ của học sinh khuyết tật theo chương trình giáo dục phổ thông, so sánh với các học sinh khác trong lớp. Những loại thông tin này có tác dụng riêng trong việc xác định những sự thích ứng và điều chỉnh mà học sinh cần có để có thể học được trong mục tiêu lớp học hoà nhập. Các nhà giáo dục đặc biệt cung cấp những thông tin về sự thể hiện khả năng của học sinh từ một góc nhìn khác hơn. Các thủ tục giáo dục của họ nhìn chung được cá nhân hoá hơn; họ tập hợp những dữ liệu chính thức và không chính thức không chỉ về kỹ năng học vấn mà cả những biểu hiện trên - 26 - các lĩnh vực như ngôn ngữ và hành vi. Thông tin này cùng với những thông tin có được từ giáo viên phổ thông sẽ giúp nhóm ra được các quyết định về các loại dịch vụ cần thiết đối với học sinh khuyết tật. Các giáo viên giáo dục đặc biệt thường là các thành viên của các nhóm theo trường nhằm hợp tác và tư vấn cho các giáo viên đứng lớp. Ở vai trò này, các nhà giáo dục đặc biệt có thể trình bày các quan sát lớp học và làm việc với nhóm nhằm phát triển các chiến lược khả thi, nhằm giải quyết các vấn đề về hành vi và học tập của trẻ trong trường phổ thông. Khi học sinh cần đến các dịch vụ giáo dục đặc biệt, các nhà giáo dục đặc biệt đóng vai trò chính yếu trong quá trình đánh giá, với trách nhiệm tập hợp những thông tin về mức độ hiện thời của trẻ trong một số các lĩnh vực khác. Ban giám hiệu chỉ đạo giáo dục trong nhóm ra quyết định có thể bao gồm hiệu trưởng, giám đốc phụ trách giáo dục đặc biệt khu vực và những thành viên khác có chức năng giám sát. Các hiệu trưởng hoặc hiệu phó thường được ghi danh vào nhóm nhằm chia sẻ trách nhiệm hợp tác trong giáo dục trẻ khuyết tật, khuyến khích họ ủng hộ các chương trình giáo dục hoà nhập và giáo dục đặc biệt. Ban chỉ đạo giáo dục đặc biệt và những người giám sát khác có thể chia sẻ những hiểu biết của họ về sự lựa chọn chương trình giáo dục đặc biệt phù hợp ở cấp huyện hoặc xã. d Phụ huynh và học sinh. Cha mẹ học sinh và các thành viên khác trong gia đình có rất nhiều đóng góp cho nhóm vì họ hiểu về hành vi của con em họ và hành động như là thầy giáo của trẻ trong thời gian chăm sóc - giáo dục tại gia đình. Phụ huynh đã cung cấp những thông tin về nhiều khía cạnh về khả năng hiện thời của trẻ. Tuy nhiên, cha mẹ trẻ và các thành viên khác trong gia đình có một góc nhìn khác vì sự quan sát của họ diễn ra ở nhà, xóm giềng và cộng đồng. Sự đóng góp quan trọng khác của phụ huynh là thông tin về những trải nghiệm giáo dục trong quá khứ của trẻ, tiền sử về sức khoẻ và những tiến bộ qua các giai đoạn phát triển. Phụ huynh cóa thể hoàn thành các bảng hỏi về con em họ hoặc được các cán bộ giáo dục phỏng vấn. Họ có thể quan sát khi tiếp xúc với trẻ ở nhà hoặc họ có thể được hỏi để tập hợp những dữ liệu quan sát không chính thức về đứa trẻ trong môi trường gia đình. Khi cha mẹ tham gia đầy đủ trong quá trình nhóm xử lý thông tin của nhóm, họ đóng góp cho các quyết định giáo dục trở nên tốt hơn và có tinh thần ủng hộ nhiều hơn đối với chương trình giáo dục trẻ. Bản thân học sinh của một số nhóm giáo dục, đặc biệt là ở các lớp trên. Học sinh có thể đóng góp thông tin về các khía cạnh thể hiện khả năng học tập ở trường cũng như những cảm nhận, thái độ, mục đich và nguyện vọng tương lai. Học sinh hợp tác trong quá trình thu thập dữ liệu bằng nhiều cách. Cùng với việc tham gia vào các thủ tục đánh giá như trắc nghiệm chính thức và kiểm tra không chính thức, các em có thể trả lời các câu hỏi - 27 - phỏng vấn, hoàn thành các thang đo, hoặc trả lời những câu hỏi trong bảng hỏi. e Những người hỗ trợ học đường Các nhà tâm lí học, tật học, ngôn ngữ - lời nói và các chuyên gia về các phương tiện trợ giúp đặc biệt thường hỗ trợ các giáo viên phổ thông và các nhà giáo dục đặc biệt. Họ thường xuyên là các thành viên của các nhóm đánh giá. Trong quá trình đánh giá, các nhà tâm lí giáo dục tập hợp các dữ liệu giúp cho việc xác định một học sinh có đủ điều kiện thụ hưởng các dịch vụ đặc biệt hay không. Trong vai trò này, các nhà tâm lí giáo dục luôn là nhà chuyên môn có trách nhiệm đối với quá trình tổ chức đánh giá chính thức và giải thích kết quả đánh giá đó nhằm xác định mức độ trí tuệ chung. Báo cáo đánh giá từ phía nhà tâm lí cho biết mức độ trí tuệ của đứa trẻ, hiện trạng các kỹ năng cần cho việc học và về hành vi cũng như xúc cảm. Khi kết hợp với báo cáo của giáo viên về kết quả học tập của trẻ, các báo cáo tâm lí học cho phép nhóm đánh giá so sánh mức độ thể hiện khả năng học tập ở lớp của một học sinh với kết quả học tập mong đợi. Trong việc lập kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục, các nhà tâm lí có thể trợ giúp xây dựng các mục tiêu hợp lí và cung cấp các thông tin về những khả năng học tập riêng của học sinh đó. Các nhà tật học, ngôn ngữ tham gia trong quá trình đánh giá và dạy học đối với những học sinh có rối loạn về ngôn ngữ và hoạt động lời nói. Họ có trách nhiệm giáo dục các kỹ năng giao tiếp của trẻ, giới thiệu học sinh đến các chuyên gia khác nếu cần thiết, cung cấp các dịch vụ hướng dẫn trực tiếp, và tư vấn cho các nhà chuyên môn khác khi làm việc với những trẻ này. Các thủ tục đánh giá được các nhà tật học ngôn ngữ sử dụng gồm cả chính thức và không chính thức; họ thường lấy thông tin ban đầu tà các nhà giáo dục về khả năng ngôn ngữ và hoạt động lời nói ở lớp của học sinh. Các nhà giáo dục đặc biệt cũng có thể sàng lọc các học sinh có vấn đề về ngôn ngữ và hoạt động lời nói, sau đó giới thiệu các học sinh này đễn các nhà tật học ngôn ngữ để có sự đánh giá sâu hơn. Hơn nữa thức trạng về giao tiếp và hiểu biết của mỗi học sinh giúp nhóm đánh giá hiểu các vấn đề về hành vi và học tập trong đó ngôn ngữ và hoạt động lời nói là một phần. Trong kế hoạch giáo dục cá nhân, các nhà tật học ngôn ngữ đặt ra các mục tiêu riêng đối với học sinh và chỉ ra cách để người khác có thể hỗ trợ cho việc đạt được mục tiêu này. Đối với một số học sinh khuyết tật, việc dạy ngôn ngữ nói là một dịch vụ đặc biệt duy nhất mà trẻ nhận được; đối với những trẻ khác, đó chỉ là một trong một số cácdịch vụ đặc biệt cần cho trẻ mà thôi. Các chuyên gia về công nghệ trợ giúp là những thành viên mới trong nhóm đánh giá. Vai trò của họ bao gồm việc sử dụng các công nghệ trợ giúp nhằm làm tăng khả năng tham gia của học sinh vào chương trình học. f Các chuyên gia y tế - 28 - Thông tin y tế về học sinh do các chuyên gia sinh lí học, y tế học đường và các chuyên gia y tế khác thu thập. Loại thông tin này có thể bao gồm các kết quả khám sàng lọc về thị lực, thính lực, tiền sử về sức khoẻ cũng như trạng thái cơ thể hiện tại của trẻ. Tất cả học sinh cần được kiểm tra thính lực và thị lực. Việc khám sang lọc có thể do y tá trong trường thực hiện, và những người này sẽ giới thiệu trẻ đến các chuyên gia phù hợp. Các kết quả khám sang lọc và bất cứ đánh giá nào sau đó đều được y tế học đường chuyển đến nhóm đánh giá. Trong đó đặc biệt chú ý với nhóm đánh giá về vấn đề nghe nhìn ảnh hưởng đến kết quả đánh giá khả năng của trẻ và những chương trình sau đó. Các nhà sinh lí và y tế học đường cũng có thể thông báo về bất cứ thông tin gì có liên quan đến các vấn đề, điều kiện sức khoẻ hay bệnh tật. Các bác sĩ nhi khoa, nhà thần kinh học,nhà tâm bệnh học và các nhà sinh lí học khác cũng cần tham gia vào. Cần chú ý xem trẻ có cần phải điều trị bằng thuốc hay không. Mọi thông tin về mặt y tế cần được thông báo với dụng ý giáo dục rõ rang. Các dữ kiện từ đánh giá khả năng thể hiện trên lớp và các lĩnh vực chức năng khác phải được nhóm đánh giá quan tâm đến trong mối liên quan với đánh giá y tế. g Cán bộ làm công tác xã hội và các nhà tư vấn. Các cán bộ xã hội và các nhà tư vấn học đường cung cấp các thông tin về hiện trạng mặt xã hội và xúc cảm của trẻ. Trong các nhà trường, cán bộ xã hội hỗ trợ bằng cách chuẩn bị các thông tin về tiểu sử sự phát triển về mặt xã hội cua học sinh, thực hiện sự tư vấn nhóm hoặc cá nhân cho trẻ và gia đình trẻ, giải quyết các vấn đề trong hoàn cảnh sống của trẻ có ảnh hưởng đến việc điều chỉnh dạy học và huy động các nguồn lực trong nhà trường và cộng đồng. Các thủ tục đánh giá được các cán bộ xã hội sử dụng bao gồm các phỏng vấn và gặp gỡ gia đình. Các dữ liệu được thu thập lien quan đến nền tảng của trẻ và môi trường gia đình có thể giúp nhóm đánh giá giải thích các dữ liệu đánh giá khác. Các cán bộ xã hội cũng có thể hỗ trợ các thành viên nhóm, đặc biệt là phụ huynh trong việc xác định các mục tiêu và chiến lược hành động ở gia đình và cộng đồng. Các nhà tư vấn giúp sử dụng cả các thủ tục đánh giá chính thức và không chính thức để tập hợp thông tin về sự phát triển xã hội và cảm xúc của học sinh, đôi khi cả những vấn đề đó ở các thành viên trong gia đình trẻ. Các nhà tư vấn bổ sung các thông tin quan trọng vào hồ sơ học sinh. Chẳng hạn các dữ liệu từ quá trình tư vấn có thể chỉ ra nhu cầu về các mục tiêu riêng hoặc định hướng các quyết định về chiến lược và môi trường giáo dục và chăm sóc. h Các chuyên gia về phát triển kỹ năng vận động. Có thể thu được những thông tin về sự phát triển vận động của học sinh nhờ các giáo viên thể dục thích nghi, các nhà vật lí trị liệu và các nhà - 29 - châm cứu. Thêm vào đó, nhà sinh lí học hoặc cán bộ y tế học đường cũng có thể cung cấp thông tin về các kỹ năng vận động của trẻ. Giáo viên thể dục thích nghi tham gia với vai trò hướng dẫn học sinh theo các chương trình luyện tập được thiết kế một cách đặc biệt, và chính các giáo viên nà có thể cung cấp thông tin về khả năng vận động hiện thời của trẻ. Giáo viên nhà tâm lí và những người khác cũng có thể có các thông tin ban đầu về kỹ năng vận động thô và vận động tinh của trẻ. Trong một số trường hợp, các vấn đề về kỹ năng đưa đến những khó khăn khác, ví dụ như viết tay. Giáo viên thể dục thích nghi đặt ra các mục tiêu luyện tập riêng cho trẻ và giúp các thành viên nhóm trong các chương trình đáp ứng nhu cầu vận động. Các nhà châm cứu và vật lí trị liệu cũng góp thông tin. Một số tác giả phân biệt giữa các nhà vật lí trị liệu - những người quan tâm đén lĩnh vực phát triển vận động thô, và những nhà châm cứu quan tâm đến lĩnh vực phát triển vận động tinh. Cả 2 loại chuyên gia này sử dụng các thủ tục đánh giá mang tính chuyên môn để thu thập thông tin cần thiết cà cung cấp cho các thành viên khác của nhóm qua phỏng vấn hoặc trải nghiệm. Giáo viên có thể báo cáo về những đòi hỏi ở lớp về các kỹ năng vận động và các quan sát về những thế mạnh cũng như điểm yếu của học sinh. Cha mẹ trẻ cũng có thể có những thông tin hữu ích. Chương trình giáo dục cá nhân chứa đựng các mục tiêu về sự phát triển vận động nếu cần thiết và cho phép các nhà trị liệu đề xuất các chiến lược phù hợp để thúc đẩy tốt hơn sự phát triển vận động phối hợp hoặc các mục tiêu chuyển tiếp khả thi. i Những người khác Một số những thông tin quan trọng về đứa trẻ đôi khi lại được cung cấp bởi các thành viên nhóm không thuộc các thành phần đã mô tả ở trên. Ví dụ như các gia sư hoặc các trợ lí chuyên môn thường xuyên làm việc với trẻ có khả năng hiểu trẻ dựa trên trải nghiệm trực tiếp. Các thành viên khác trong cộng đồng (các chủ doanh nghiệp, đốc công) cũng có thể giúp nhóm hiểu được rõ hơn về các mục tiêu nghề nghiệp khả thi và các dịch vụ chuyển tiếp cần thiết. Những người khác trong gia đình (ông bà nội, ngoại) đôi khi cũng bổ sung thêm thông tin cho cha mẹ và đứa trẻ. Mục đích của việc tiếp cận nhóm Mục đích của việc tiếp cận nhóm là nhằm tập hợp được mọi thông tin cần thiết cho việc ra quyết định về giáo dục nhờ sự kết hợp thông thạo, kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng của các thành viên. Nhóm được xem là khách quan hơn các cá nhân riêng lẻ vì đưa ra được quan điểm liên môn. - 30 - Các loại thông tin và các bộ phận (người) có thể cung cấp thông tin. Loại thông tin. Nguồn Sức khỏe Tình trạng cảm xúc và xã hội. Khả năng chung Học lực Tình trạng giao tiếp Kĩ năng vận động Các yếu tố chuyển tiếp. Giáo viên * * * * Phụ huynh * * * * * Nhà tâm lý * * * Nhà bệnh học, ngôn ngữ - lời nói. * Chuyên gia y tế. * * Nhà tư vân và cán bộ xã hội * * Các chuyên gia về chuyển tiếp * Các chuyên gia về kĩ năng vận động * * 4.5. Lưu trữ hồ sơ. Việc đánh giá trẻ khuyết tật cần thiết phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, việc tập hợp mọi thông tin cần thiết cho việc ra quyết định về giáo dục. Các quyết định giáo dục quan trọng đối với trẻ khuyết tật được đưa ra bởi một nhóm hơn là bởi một cá nhân. Tiếp cận nhóm đòi hỏi các cá nhân từ các góc nhìn khác nhau làm việc cùng nhau để đóng góp hiểu biết chuyên môn cho quá trình ra quyết định. Nhóm này có thể bao gồm cha mẹ của trẻ và các nhà chuyên môn đại diện cho giáo dục phổ thông, giáo dục đặc biệt, tâm lý học, trị liệu ngôn ngữ và lời nói, thầy thuốc, và các lĩnh vực khác khi cần thiết. Mỗi thành viên của nhóm tập hợp dữ liệu về học sinh và giải thích các dữ liệu đó theo quan điểm của mình, và chia sẻ điều đó với các thành viên khác của nhóm. Sau đó nhóm sẽ phân tích tất cả những ý kiến đóng góp, gồm cả ý kiến của phụ huynh của trẻ, trong một nỗ lực tạo ra quyết định thích hợp nhất. Tiếp cận nhóm không phải là mới mẻ trong giáo dục đặc biệt, mặc dù nó chỉ đạt được những bước tiến trong những năm gần đây. Các nhóm phải đưa ra các quyết định sau: - Các tiêu chuẩn của học sinh được hưởng giáo dục đặc biệt và các dịch vụ khác có liên quan - Xây dựng các chương trình giáo dục cá nhân. - Đánh giá và điều chỉnh chương trình giáo dục cá nhân; - Kiểm tra định kỳ nhu cầu giáo dục đặc biệt và các dịch vụ có liên quan. - 31 - Các thành viên trong nhóm đưa ra quyết định giáo dục là khác nhau. Những mục đích khác nhau đòi hỏi số lượng thành viên trong nhóm khác nhau và đại diện của những chuyên môn khác nhau. Chẳng hạn, với cùng một học sinh, nhóm đánh giá về sự đủ tiêu chuẩn được hưởng các dịch vụ đặc biệt hầu như có nhiều thành viên hơn so với nhóm có trách nhiệm xây dựng chương trình giáo dục cá nhân cho học sinh đó. Các nhu cầu của học sinh cũng ảnh hưởng đến cơ cấu thành viên của nhóm. Một học sinh khuyết tật nặng dường như đòi hỏi nhóm có đông thành viên đại diện cho nhiều chuyên môn hơn so với ở một học sinh khuyết tật nhẹ. Nhiều các cá nhân khác cũng tham gia trong nhóm giáo dục. Những người này có đóng góp quan trọng cho đánh giá và lập kế hoạch cũng như giám sát chương trình dạy học. Các nhà giáo dục đặc biệt đóng vai trò hết sức có ý nghĩa trong việc tổng hợp kết quả của toàn nhóm và đưa vào hồ sơ thống nhất về những nhu cầu của học sinh. Chúng ta có thể tập hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, phù hợp với chuyên môn của họ. Thành lập hồ sơ cá nhân. Hồ sơ cá nhân bao gồm: - Đơn xin vào học (do cha mẹ hoặc người đỡ đầu ghi theo mẫu); - Tiền sử của trẻ (do cha mẹ hoặc người đỡ đầu ghi theo mẫu); - Nhận xét về quá trình học tập của học sinh (do giáo viên phụ trách lớp ghi); - Kết luận về y học do các bác sĩ chuyên ngành ghi; - Biên bản kiểm tra trí tuệ và trạng thái ngôn ngữ do cán bộ chuyên ngành sư phạm ghi; - Giấy khai sinh. 5. MỘT SỐ LƯU Ý KHI ĐÁNH GIÁ TRẺ KHUYẾT TẬT. 5.1. Nắm vững qui trình đánh giá Việc đánh giá cần được diễn ra theo một qui trình bao gồm các bước: - Xác định nhiệm vụ, mục tiêu cần đánh giá: Đánh giá cái gì? Đánh giá để làm gì? Kết quả đánh giá sẽ được sử dụng như thế nào? - Xác định đối tượng, phạm vi và lĩnh vực đánh giá: Đối tượng, phạm vi và lĩnh vực đánh giá cần được mô tả kỹ để tránh nhầm lẫn, thu hẹp hoặc mở rộng phạm vi đánh giá. Ví dụ: Đối tượng đánh giá là nhóm khuyết tật nào? (thính giác, thị giác, ngôn ngữ, vận động hay chậm phát triển trí tuệ). Đánh giá kết quả về lĩnh vực nào? (lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng, thái độ hay phục hồi chức năng. Trong thời gian bao lâu? - Xác định loại hình và kĩ thuật đánh giá: Trong quá trình giáo dục trẻ khuyết tật cần tiến hành tốt hai cấp độ của đánh giá. Đó là đánh giá sơ bộ khi trẻ nhập học và đánh giá thường xuyên trong quá trình dạy học để xác định trình độ, khả năng của trẻ để giúp - 32 - trẻ học tốt hơn. Đánh giá tổng kết sau một tháng, một học kỳ hay một năm học nhằm xác định kết quả học tập và sự tiến bộ của trẻ. Kết quả đánh giá cả về định lượng và định tính đều được ghi lại vào sổ theo dõi của học sinh. Việc lựa chọn loại hình và kĩ thuật đánh giá phù hợp giúp cho việc thu thập được những thông tin cần thiết một cách chính xác, khoa học. - Phân tích định tính, định lượng. Những thông tin thu được qua đánh giá cần được phân tích theo định lượng, định tính và phải phụ thuộc vào mục đích yêu cầu và mục tiêu giáo dục. Phải đảm bảo tính khách quan, độ tin cậy của phương pháp đánh giá. Đặc biệt đối với trẻ khuyết tật, phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm tật nguyền và khả năng còn lại của trẻ và sự tiến bộ của trẻ về các mặt khả năng giao tiếp, ứng xử, hội nhập xã hội. - Nhận xét và kết luận: Từ những kết quả thu được qua đánh giá cần đưa ra nhận xét và kết luận: Theo mục tiêu; Hướng phát triển tiếp theo. Có thể tóm tắt qui trình đánh giá như sau: 5.2. Đảm bảo các nguyên tắc khi đánh giá. Đảm bảo tính khách quan, chính xác. Đảm bảo tính toàn diện về các mặt, các lĩnh vực. Đảm bảo việc đánh giá mang tính hệ thống. 5.3. Đánh giá nhằm phát triển học sinh, hoàn thiện chương trình giáo dục. Việc đánh giá không chỉ để phục vụ tạo điều kiện cho sự phát triển của trẻ mà đánh giá trẻ còn cung cấp cho chúng ta những thông tin thực tiễn, những căn cứ để xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện chương trình giáo dục. Xác định mục đích Đánh giá Mô tả các thông tin cần thiết Mô tả đối tượng đánh giá Xác định loại hình đánh giá. Lựa chọn và sắp xếp các thông tin đã có. Phân tích và xử lý thông tin Lựa chọn phương pháp công cụ để thu thập thông tin mới Thu thập thông tin cần thiết Thiết kế công cụ Nhận xét, kết luận, báo cáo. - 33 - 5.4. Lựa chọn và sử dụng công cụ đánh giá phù hợp Đối với từng loại trẻ, từng giai đoạn khác nhau đòi hỏi người đánh giá phải biết lựa chọn những công cụ đánh giá phù hợp. Ví dụ: Với những trẻ cần chẩn đoán sâu để có kế hoạch can thiệp thì không thể sử dụng các loại công cụ để sàng lọc. 6. CÁC LĨNH VỰC PHÁT TRIỂN ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ.. 6.1. Kỹ năng nhận thức: Thực hiện các phương pháp đánh giá, sử dụng các test để đánh giá về các khả năng của học sinh như: - Tri giác nghe nhìn - Khả năng ghi nhớ - Khả năng tư duy - Khả năng học các môn học 6.2. Kỹ năng vận động Quan sát các kỹ năng vận động của trẻ như đi lại, chạy nhảy, nắm bắt, khả năng chịu đựng của cơ thể, phát triển các tố chất nhanh, mạnh, bền, khéo léo, sự phối hợp của các giác quan Có thể sử dụng một số các thang đo đánh giá mức độ phát triển tâm vận động của trẻ. Những kĩ năng vận động thô, vận động tinh 6.3. Kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển tư duy và học tập của trẻ. Tìm hiểu về sự phát triển các loại ngôn ngữ của trẻ kể cả ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ diễn đạt. Giao tiếp là hoạt động rất cần cho trẻ khuyết tật phát triển. Khi giao tiếp trẻ cần có ngôn ngữ để diễn đạt ý nghĩ, tình cảm và thái độ đối với người khác. Vì vậy trong quá trình giáo dục phải đánh giá vốn từ của trẻ nhiều hay ít, cách vận dụng như thế nào trong quá trình giao tiếp với mọi người. Trẻ khuyết tật ngôn ngữ phát triển rất chậm và bị hạn chế rất nhiều. Trẻ chậm phát triển trí tuệ vốn từ rất nghèo nàn và khó vận dụng trong giao tiếp nên trẻ diễn đạt việc làm, ý nghĩ của mình bằng lời nói rất khó khăn. Với trẻ điếc câm thì việc giao tiếp bằng lời cực kì khó khăn, các em phải sử dụng ngôn ngữ cử chỉ và điệu bộ, ngôn ngữ ngón tay và ngôn ngữ viết là chủ yếu. 6.4. Kỹ năng xã hội và tình cảm - Quan hệ với người thân, người quen, người lạ. - Quan hệ với bạn bè, - Quan hệ với tập thể - Khả năng ứng xử - Xúc cảm – tình cảm 6.5. Kỹ năng thích ứng Để trẻ có thể thích ứng với cuộc sống, hoà nhập vào cộng đồng cần chú ý đến một số các thói quen. - 34 - Đối với trẻ khuyết tật, việc hình thành những thói quen trong sinh hoạt cuộc sống và lao động cũng là một trong những mục tiêu quan trọng. Những kiến thức mà trẻ lĩnh hội được trong giáo dục cần được tập luyện thường xuyên để giúp trẻ hình thành các thói quen. Đánh giá việc rèn luyện các thói quen bao gồm thói quen tự phục vụ như biết giữ gì vệ sinh than thể, bíêt đánh răng rửa mặt, biết đi vệ sinh, biết mặc quần áo và gìn giữ sạch đẹp những thói quen lao động giản đơn như làm được một số việc trong gia đình: quét dọn nhà cửa, các công việc nấu nướng đơn giản như nhặt rau, vo gạo, rửa rau Những thói quen trong học tập: ngồi học trật tự, chăm chú nghe giảng, tập trung học tập, tham gia các hoạt động của nhóm, của lớp, giữ gìn sách vở sạch đẹp, những thói quen trong sinh hoạt vui chơi với ban bè cùng tổ, nhóm, lớp, địa phương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_giang_danh_gia_tre_khuyet_tat_trong_giao_duc_dac_biet.pdf
Tài liệu liên quan