Phân loại vỉa và mỏ cần chỉ ra các đặc điểm chính hình thành bẫyliên
quan đến nguồn gốccủa vỉa và mỏ.
- Vỉa dầulà một tích tụ đơn lẻ của dầu khí nằm trong các kênh dẫn có độ
rỗng cao hoặc các nứt nẻ có lỗ rỗng và độ thấm tốt.
- Mỏ dầu là tập hợp các vỉa trong một hoặc vài bẫy tự nhiên phân bố trên
diện tích địa phương.
              
                                            
                                
            
 
            
                 32 trang
32 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Địa chất dầu khí khu vực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI GIẢNG ĐỊA CHẤT DẦU KHÍ KHU 
VỰC 
ĐỊA CHẤT DẦU KHÍ KHU VỰC
Chương 1 – Khái niệm, phân loại các tích tụ dầu khí
- Tích tụ cục bộ: nơi dầu nằm (vùng hẹp) vỉa, mỏ
- Tích tụ khu vực: đới chứa dầu, bồn, tỉnh dầu (vùng rộng) hình thành 
trong cùng điều kiện kiến tạo của khu vực 
Ví dụ: tỉnh dầu Đệ Tam ở Đông Nam Á
Chương 2 - Bồn dầu khí
- Lịch sử nghiên cứu bồn
- Phân loại bồn (theo quá trình hình thành bồn), khả năng về dầu khí .
Theo 2 cách 
• Klemme
• North
- Sự phụ thuộc của kiểu bồn với tuổi địa chất
- Mối liên quan giữa kiểu bồn và tiếm năng dầu khí
Chương 3 - Sự phân bố địa tầng, địa lý của dầu khí theo từng khu vực 
(Địa Trung Hải, Âu, Úc, Á, Mỹ, Canada, ĐNÁ)
Chương 4 - Dầu khí ĐNÁ
- Kiến tạo vùng ĐNÁ
- Các bồn trũng Đệ Tam
- Một số mỏ điển hình
-
Chương 5 - Dầu khí Việt Nam
- Lịch sử nghiên cứu
- Vùng chứa dầu khí
1
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
CHƯƠNG 1 – KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI CÁC TÍCH TỤ DẦU KHÍ
Phân loại :
Phân loại vỉa và mỏ cần chỉ ra các đặc điểm chính hình thành bẫy liên 
quan đến nguồn gốc của vỉa và mỏ.
- Vỉa dầu là một tích tụ đơn lẻ của dầu khí nằm trong các kênh dẫn có độ 
rỗng cao hoặc các nứt nẻ có lỗ rỗng và độ thấm tốt.
- Mỏ dầu là tập hợp các vỉa trong một hoặc vài bẫy tự nhiên phân bố trên 
diện tích địa phương.
Phân loại vỉa và mỏ theo kiểu bẫy
A - Lớp vỉa:
• Theo cấu trúc cấu tạo (kiến trúc)
• Riffogen
• Địa tầng
• Các lớp trầm tích địa phương
1. Bẫy kiến trúc 
• Nếp lồi
• Nếp lõm, treo
• Màn chắn kiến tạo
• Đơn nghiêng – phá hủy kiến tạo
2. Bẫy rift : 
• Ám tiêu san hô
3. Bẫy trầm tích: 
 Giới hạn trầm tích
• Thấu kính cát
• Gờ cát ven bờ
 Màn chắn trầm tích
• Vát mỏng thay đổi độ thấm
• Dầu khí kết đặc tạo những lớp hữu cơ đặc
4. Bẫy địa tầng:
Đá có kênh dẫn bị cắt ngang bởi xói mòn, sau đó bị phủ bởi lớp 
không thấm (bất chỉnh hợp do kiến tạo, bất chỉnh hợp do xói mòn, 
địa hình bị chắn bởi phần lồi của đá móng kết tinh)
2
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
• Vỉa rift
• Vỉa trầm tích (thấu kính cát)
• Vỉa địa tầng bất chỉnh hợp
B - Mỏ: Tập hợp những vỉa hoặc vỉa có trữ lượng lớn
• Mỏ rift
• Mỏ trầm tích
• Mỏ địa tầng
• Mỏ kết hợp trầm tích địa tầng
• Mỏ kiến trúc
1- Mỏ kiến trúc 
• Nếp lồi đơn giản không bị phá hủy
• Nếp lồi kèm theo các phức tạp do đứt gãy
• Nếp lồi phức tạp do cấu tạo muối
• Nếp lồi phức tạp do bùn núi lửa hoặc các thành tạo núi lửa
2- Mỏ rift
• Khối ám tiêu đơn lẻ
• Nhóm khối ám tiêu
3- Mỏ trầm tích 
3
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
- Hình thành tại các khu vực vát mỏng do thay đổi chế độ trầm 
tích hoặc thay đổi hướng đi lên của trầm tích
- Các thành tạo ở ven bờ biển xưa
- Các thành tạo lòng sông cổ
- Các thấu kính
- Thay đổi trầm tích trong cùng một kênh dẫn 
- Bị chắn bởi nút asphal hoặc đá kết tinh 
4- Mỏ địa tầng
Bất chỉnh hợp tại các nếp lồi hoặc đơn nghiêng bào mòn của đới 
lồi trước đó.
5- Mỏ kết hợp 
Xảy ra tại các đới vát mỏng hoặc vỉa, kênh dẫn bị xâm thực, bị 
phủ bởi bất chỉnh hợp hoặc đá không thấm trẻ hơn.
C - Đới chứa dầu
- Đới dầu là sự tích tụ dầu khí theo một điều kiện địa chất nhất định
- Ranh giới dựa vào cấu trúc (ví dụ: miền nền, đới trung tâm)
- Nhân tố chủ yếu để hình thành là trầm tích; yếu tố cấu trúc quyết định 
sự hình thành bẫy dầu.
- Đới dầu còn được phân chia theo ranh giới địa lý
Theo Bakrov (1959): đới dầu là tập hợp những tích tụ có liên quan với 
nhau, có quan hệ về nguồn gốc.
Có các loại đới dạng cấu trúc, dạng rift, trầm tích, địa tầng, hỗn hợp 
trầm tích và địa tầng. Chia mỗi dạng thành những nhóm và phụ nhóm
- Xâm nhập muối: Khi đi lên, các lớp có trước bị vát nhọn
- Xâm nhập Magma : cắt ngang các lớp có trước
 2 loại xâm nhập này đều tạo nên vỉa kiến tạo 
4
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
CHƯƠNG 2 – CÁC BỒN DẦU KHÍ
I – Phân biệt tỉnh dầu, bồn dầu
- Bồn dầu (Oil basin, Petroliferous basin) là một dạng chứa có địa hình 3 chiều 
(dài, rộng, sâu) chứa đựng những mỏ dầu khí.
Một bồn dầu luôn là một bồn trầm tích
- Tỉnh dầu (Petroleum province) là một khu vực địa chất chứa những mỏ dầu 
có cùng đặc tính chung về địa chất. Có thể đồng nghĩa với một bồn dầu hoặc 
bao gồm một số bồn với những đặc tính tương tự rõ ràng về mặt địa chất và 
được tách biệt bởi những vùng không phải là bồn.
Tỉnh dầu gồm những mỏ hoặc bồn giống nhau về cấu trúc địa chất, tuổi 
địa chất, cách hình thành dầu khí. Nghĩa là, có một đặc tính giống nhau về địa 
chất dầu khí
Ví dụ: Tỉnh dầu P3, M3, K3
Tỉnh dầu có cùng đặc tính đá chứa, cấu trúc bẫy, không mang tính 
hành chính, khu vực.
II - Lịch sử nghiên cứu bồn: (North 17.1, 17.2)
III – Phân loại bồn
1. Bồn trũng trầm tích
Các lớp trầm tích nằm trên bề mặt trái đất, nằm trên các đá núi lửa bản 
chất phức tạp thuộc vùng lục địa. Phần đá nền (Núi lửa và biến chất) gọi là đá 
móng. 
Bồn trầm tích là nơi trũng xuất hiện trên bề mặt bị nén ép của đá móng. 
Các nhà địa chất thường dùng từ bồn trũng. Bồn trũng bao gồm phần bị sụt 
lún với những lớp trầm tích nằm trong nó (kích thước dầy, địa hình âm). 
Nền hoặc thềm là những lớp trầm tích mỏng nằm trên đá móng không bị 
trũng.
Cung chỉ phần nâng lên của đá móng trong vùng và nhân tố khách quan 
(chiều dày nhỏ, địa hình dương) nổi lên. Chỗ nước sâu ở đại dương không phải 
là bồn trầm tích do nơi đây chỉ phủ một lớp mỏng trầm tích trên nền đá móng 
5
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Các bồn trũng thường tiến triển theo thời gian trải qua một số giai đoạn 
khác nhau, tiến triển từ bồn trũng này sang bồn trũng khác. Phát triển từ bồn 
trũng sang cung hoặc ngược lại.
1.1- Hình dạng của bồn trầm tích 
• Bồn trũng tiến triển rộng rãi về kích thước và hình dạng, bao phủ 
diện tích tối thiểu 1.000 km2. Một số bồn trũng có diện tích vài triệu 
km2
• Chiều dày trầm tích lớn nhất tại trung tâm tích tụ của bồn trũng 
thường không vượt quá 2-3 km, đôi khi đạt 10 km
• Không phải nơi sâu nhất có bề dày lớn nhất, vật liệu trầm tích lấn 
dần ra theo mặt dốc bị mất cân bằng và trượt xuống
• Một số bồn trũng có dạng tròn, elip. Một số khác hình chữ nhật. Một 
số bắt đầu là vũng, vịnh, sau đó mở rộng ra thành bồn trầm tích lớn 
hơn và không có sự khép kín.
• Một số bồn nhận trầm tích lục địa (ví dụ: Delta châu). Trung tâm thu 
của bồn tiếp cận với rìa bồn, chiều dày trầm tích mỏng dần khi ra tới 
biển. Theo thời gian, trung tâm tích tụ dịch chuyển theo chiều ngang 
và tiến ra xa rìa bồn, tiến đến nơi thấp nhất của bồn (trung tâm thu ≅ 
chỗ sâu nhất)
6
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
• Trung tâm thu của bồn và vị trí có sự sụt lún của đá móng lớn nhất 
có thể không trùng nhau.
Ví dụ: Trong bồn trũng đá cacbonat, đa số trung tâm tích tụ ở rìa bồn 
(Sinh vật vỏ vôi thường sống ở thềm lục địa, biển nông)
• Nhóm trầm tích chứa cacbonat có thể tiến ra biển sâu hơn trong các 
tầng bùn vôi.
1.2- Quá trình lấp đầy trầm tích
Có các loại: trầm tích lục nguyên (mang ra từ lục địa), trầm tích 
biển nông và biển sâu. Tùy thuộc chiều dày và mối quan hệ giữa tốc độ 
trầm tích và tốc độ sụp lún.
Đa số quá trình sụp lún và tích tụ xảy ra cùng lúc. 
o Nếu quá trình trầm tích theo kịp quá trình sụp lún thì không có 
chỗ còn trống không được lấp đầy. Như vậy, bồn trũng được lấp 
đầy theo kiểu trầm tích biển nông. 
o Nếu quá trình sụp lún đầu tiên tạo ra vùng trống sâu, sau đó mới 
được lấp đầy sẽ tạo ra sự sụp lún đẳng tĩnh. Nhiều bồn trũng phát 
triển xa nguồn trầm tích lục nguyên hoặc bị cô lập bởi những kênh 
chắn địa hình tại eo.
1.3- Thời gian và quá trình kiến tạo
Bản chất và thời gian của quá trình kiến tạo là tác nhân quan trọng . Các 
kiểu uốn nếp và đứt gãy phát triển trong bồn trũng do sự biến dạng và thành 
phần đá trầm tích gây ra. Do nén ép tạo ra nếp uốn và đứt gãy chờm nghịch. 
Sự mở rộng dẫn đến sự hình thành đứt gãy khối và thông thường. Còn có sự 
hiện diện chỏm muối (dome muối) kèm theo đứt gãy phụ thuộc vào chiều dày 
trầm tích trong bồn trũng. Khi xem xét quá trình sinh, dịch chuyển và tích tụ 
dầu cần xét thời gian phát triển cấu trúc bồn vì nó rất quan trọng ( lịch sử phát 
triển vùng suy ra lịch sử phát triển bồn). Như vậy, do các tích tụ dầu khí 
thường thích hợp với biến dạng cấu trúc trong suốt quá trình tích tụ dẫn đến sự 
phát triển nhanh về tướng và chiều dày tích tụ. Ví dụ: đá phiến sét giàu vật 
7
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
chất hữu cơ tích tụ ở vùng cấu trúc thấp, trong khi đó tầng chứa có hạt thô hơn, 
sự hình thành bẫy kết hợp phát triển ở vùng cao hơn.
Ranh giới bất chỉnh hợp hoặc đứt gãy thường tạo ra quá trình dịch chuyển. 
Sự biến dạng về cấu trúc xảy ra trong giai đoạn muộn của quá trình tích tụ 
trong bồn trầm tích giúp ích trong việc sinh dầu do tạo ra dòng nhiệt cao hơn 
bình thường.
Giai đoạn sau khi hình thành tích tụ dầu trong bồn, quá trình kiến tạo gây ra 
hiệu ứng ngược, nghĩa là phá hủy. Ví dụ: nâng tầng chứa lên bề mặt, sự xâm 
nhập của nước ngầm hoặc sự bào mòn, sự phá hủy và thất thoát dầu khí có thể 
xảy ra.
Đôi khi kiến tạo tạo ra dòng nhiệt cao, tầng chứa bị chôn vùi sâu, gây ra 
biến chất dầu (dầu có thể chín đối với những loại chưa đủ nhiệt độ)
Theo thời gian, bồn phát triển dẫn đếnlớp trầm tích tiến triển về cấu trúc
1.4- Cơ chế hình thành bồn
Các bồn hình thành là do những quá trình dịch chuyển ngang và đứng theo 
quy mô lớn của những lớp bề mặt trái đất.
Nguyên nhân: kiến tạo mảng
Lớp ngoài của vỏ trái đất là lớp cứng rắn (thạch quyển) gồm lớp vỏ và 
manti trên. Vùng địa hình thấp hình thành trên bề mặt trái đất nơi lớp vỏ mỏng 
là loại đá bazan, tạo thành lớp vỏ đại dương . Vỏ lục địa dày, cấu tạo bởi 
những loại đá nhẹ, hơn ở địa hình cao hơn . Bồn trầm tích hình thành ở ranh 
giới vỏ đại dương và lục địa và nằm trên vỏ lục địa.
Lớp thạch quyển cứng nằm trên quyển mềm ít nhớt hơn, tạo sự dịch 
chuyển. Do các dòng đối lưu trong quyển mềm gây sự gãy vỡ các mảnh cứng.
Có 8 mảng chính và một số mảng nhỏ chia 2 phần: Nội mảng thường ổn 
định và rìa mảng có hoạt động kiến tạo. Phá vỡ mảng ở sống núi đại dương 
làm cho bazan trồi lên, đáy biển tách ra. Các lực liên quan mở rộng và tác 
động lên vỏ lục địa.
Mỗi giai đoạn đánh dấu sự sinh ra, lớn lên và tiêu hủy của bồn.
1.5- Tuổi bồn
Bồn sinh ra khi bắt đầu bị sụt lún, thành tạo trầm tích chưa lớn, chuyển 
động âm lõm xuống sẽ mở rộng diện lân cận theo sự dịch chuyển ly tâm theo 
nếp oằn ven rìa. 
Thời kỳ trưởng thành của bồn: Phần nổi trên bề mặt trước có xu hướng hạ 
thấp, đới trung tâm chìm dưới nước có xu hướng nâng lên, quá trình này diễn 
ra song song làm giảm hoạt động sụp lún làm bồn mở rộng tối đa. Đây là pha 
căng giãn mạnh 
Sau đó, hoạt động sụp lún trở lại với tốc độ nhất định, tăng nhanh ở những 
diện tích nhỏ bằng sự di chuyển hướng tâm của các nếp oằn ven rìa.
Giai đoạn già của bồn: thành tạo trầm tích mạnh mẽ, lấp đầy nhanh.
8
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Các pha thành tạo và tiêu hủy bồn liên quan với các thời kỳ vận động kiến 
tạo tích cực đặc trưng bởi luồng nước mạnh, trầm tích thường thô và không 
đồng nhất.
Các thời kỳ mà môi trường xáo động sẽ kém thuận lợi cho trầm đọng đá 
mẹ, chỉ cho những tầng sét phần lớn có chất lượng xấu.
Các thời kỳ kiến tạo yên tĩnh hơn, có sự dịch chuyển ly tâm của nếp uằn 
ven rìa cùng sự hạ thấp những lớp nổi bên trên mặt nước tạo sự thuận lợi.
Thành tạo những nền rộng lớn như biển và động lực của môi trường yếu sẽ 
sàng lọc dễ dàng những sản phẩm mảnh vụn tạo tầng chứa tốt.
Ở những bồn trũng kín với sự trầm đọng chất mùn, bùn nguồn gốc biển , 
tạo môi trường thuận lợi cho tích tụ, bảo tồn vật chất hữu cơ.
Ở những thời kỳ môi trường có trầm tích yếu, trong giai đoạn trưởng thành 
mà không có kiến tạo lớn sẽ thích hợp cho quá trình tổng hợp trầm tích, từ đó 
thường tạo ra bồn có trầm tích hoá học hoặc sinh hoá. Ví dụ: Tỉnh đá vôi, 
evaporit
Những pha căng dãn và động lực giảm cho phép có sự trùng lặp trầm tích, 
có được các lớp phủ, bảo đảm cho sự khép kín tốt của bồn , đó là thời kỳ đặc 
biệt thuận lợi.
Các chu kỳ trầm tích được kết thúc bằng sự hoạt động trở lại của kiến tạo 
sẽ có nguy cơ tạo sự xói mòn sâu dẫn tới không có được lớp phủ.
Khi dòng đối lưu đi lên tạo ra chỗ lồi, đến lúc lực quá lớn, chỗ lồi nứt ra 
theo chiều toả tia (thường là 3 nhánh).
Dịch chuyển tập trung ở hai cánh của khối nứt, 2 cánh này tiếp tục giãn ra, 
nối liền với 2 cánh của tam giác khác trở thành bồn trũng đại dương nhỏ, cánh 
thứ 3 ngừng quá trình mở trở thành đới tách mà không phát triển. Ví dụ: vùng 
biển Hồng Hải và vịnh Eden. Đây là bồn trũng đại dương hình thành 2 đới nứt 
làm Châu Phi tách ra xa Arập. Thung lũng rift phía Đông Phi là dấu vết cánh 
thứ 3 không phát triển. 
- Khi đáy biển tiếp tục tách giãn, lớp vỏ đại dương mới hình thành ngay tại 
nơi sống núi đại dương. Bồn trũng phát triển dọc theo rìa thụ động của chúng 
(rìa Đại Tây Dương). 
- Khi các mảng hội tụ, lực chủ yếu là nếp ép, từ đó hình thành các bồn 
trũng kế cận cung đảo. Trong trường hợp hội tụ 2 mảng đại dương, bồn trầm 
tích không được hình thành, mảng đại dương sẽ tiêu biến và hình thành dãy 
núi ven biển: Ví dụ: dãy Alps
Khi vỏ đại dương làm hai lục địa tách ra , các lục địa hội tụ sẽ bị va mảng. 
Các đới tuyến tính hẹp trong quá trình va mảng lục địa - lục địa và cung đảo - 
lục địa gọi là đới Sutu. Ở đới này hình thành bồn trũng nhỏ, phức tạp nằm sát 
bên đới nâng tạo núi ở cả hai phía đới Sutu. Ở ranh giới, lớp vỏ không bị tiêu 
biến. (hai mảng trượt bằng đứt gãy chuyển dạng), các bồn trũng sâu nhỏ có thể 
hình thành ở đây. Ví dụ: Bồn trũng California nằm kề đứt gãy chuyển dạng 
San Andreas -> Sống núi giữa đại dương, đới hút chìm, đới Sutu, đứt gãy 
9
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
chuyển dạng. Các bồn trũng được tạo ra dọc rìa thụ động của các lục địa bị xé 
toạc.
- Các bồn dọc rìa hội tụ tích cực do quá trình hút chìm (đới Sutu hoặc đứt 
gãy chuyển dạng)
- Các bồn trong các vùng nội mảng bình yên mà nguồn gốc ít liên quan đến 
quá trình kiến tạo.
2. Phân loại bồn 
Dựa theo tổng hợp biểu đồ Huff (1978-1980) và Klemme (1980), có 10 
kiểu bồn trũng, trong đó có:
- 2 loại liên quan mảng lục địa bình ổn miền nền, trước núi
- 2 loại liên quan mảng phân kỳ dạng rift, kéo toạc
- 4 loại liên quan mảng hội tụ trước cung, sau cung, không cung va mảng
- 2 loại liên quan sự lên xuống của các đại dương nhỏ (sự hình thành và đặc 
trưng dầu khí riêng)
Ngoài ra còn có tam giác châu Đệ Tam phủ lên bồn trầm tích.
2.1- Bồn trũng miền nền (nội mảng)
(* Nội mảng: bình ổn, chu kỳ trầm tích đều đặn, đối xứng hoàn chỉnh.
* Rìa nền: những hoạt động kiến tạo, nâng lên, nén ép, có những chu 
kỳ trầm tích đối xứng tương đối. nhiệt độ và áp suất đủ để vật chất hữu 
cơ bảo tồn và trưởng thành dầu.)
- Vị trí: Nằm trên vỏ lục địa bình ổn, hình thành ở vùng trung tâm của lục 
địa.
Gọi là bồn trũng miền nền, nội mảng hoặc võng hình thành do sự lên 
xuống, nén ép, không có vùng núi cao ở kế cận
- Tính chất
Chúng có dạng tròn, elip (mở rộng theo các chiều), kích thước thay đổi lớn. 
Trong mặt cắt ngang, bồn có tính chất xác định, nông, đôi khi gần giống như 
phẳng.
- Nguồn gốc ít được nghiên cứu
- Đá móng bị đứt gãy khối, trầm tích đều đặn không bị gián đoạn, vỏ bị suy 
giảm, liên quan đến quá trình mở rộng -> chiếu rộng lơn hơn nhiều so với 
chiều sâu.
- Đặc trưng: ở trong vùng có quá trình tạo rift không phát triển, vật liệu 
nặng được đưa vào lớp vỏ nhẹ hơn, làm giảm khả năng nổi của lớp vỏ.
- Một số bồn trũng lớn trên thế giới thuộc loại này. Ví dụ: Bồn Williston 
(Mỹ, Canada), Illinois, Michigan, Paris (Pháp).
+ Ví dụ: Bồn Williston (trung tâm Bắc Mỹ, tiếp giáp Canada): 
* Đường kính 400 km, trầm tích dày 4-5 km. 
* Các đá tuổi Pz lấp đầy bồn trũng, đa phần là đá vôi (môi trường 
biển nông), trên đó là một lượng nhỏ cát kết và phiến sét trong Pz muộn, 
10
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
bồn bị giới hạn bởi ám tiêu chắn, evaporit. Sau Pz, có những trầm tích 
biển xảy ra, lớn nhất là ở Kreta. Các trầm tích Mg và Kz có lớp màu đỏ 
nguồn gốc lục địa và đá cát nguồn gốc sông.
* Bồn Williston khai thác dầu và khí từ nhiều mỏ nhỏ, không được 
xem là tỉnh dầu khí chính. Các tầng sản phẩm chủ yếu là bẫy kết hợp 
đới nâng và cung đảo, các nếp lồi thoải nằm trên đá móng với những 
đặc điểm tướng đá và bất chỉnh hợp trước và sau Kreta. ¾ sản lượng dầu 
có trong đá cacbonat Devon sớm và bảo tồn trong cacbonat Ordovic. 
Tối thiểu có 3 thành hệ cacbonat Cambri-Ordovic.
- Đá mẹ chủ yếu là đá phiến sét, tuổi K giầu vật chất hữu cơ chưa đủ trưởng 
thành để tạo dầu.
- Tầng sản phẩm đặc trưng cho bồn nội mảng, chỉ có 1 chu kỳ đơn không 
lập lại lấp đầy bồn, tích tụ thuộc môi trường biển nông hoặc lục địa hoặc trộn 
lẫn cả hai.
Cát kết và cacbonat có độ chọn lọc tốt, đa số bồn nội mảng có tuổi Pz. Cuối 
Pz các bồn này không có tích tụ hoặc chủ yếu tích tụ không phải nguồn gốc 
biển.
- Bẫy tầng chứa cát kết và cacbonat hình thành do đới nâng hoặc đá móng. 
Bẫy địa tầng có mặt ở ven rìa bồn. Do nằm xa ranh giới mảng , yếu tố gradient 
địa nhiệt quyết định sự trưởng thành (nhiệt độ và thời gian quyết định sự hình 
thành dầu). Bồn trũng nội mảng chưa bao giờ được chôn vùi sâu. 
- Rủi ro trong khai thác không có sự hiện diện của các bẫy hoàn chỉnh và 
đá phiến sét phát không triển đầy đủ dưới dạng đá mẹ và đá chắn. Một số bồn 
nội mảng quá đơn giản, cấu trúc ít thuận lợi để chứa sản phẩm.
- Bồn nội mảng có thể ở 2 dạng: 
+ Tập trung nhiều mỏ nhỏ, nếu kết hợp có thể có đới sản phẩm đáng 
kể (Williston).
+ Có mỏ lớn kết hợp cùng đá móng, dịch chuyển dài, có thể chứa hơn 
phân nửa tổng lượng sản phẩm của bồn (Illinois) dầu tập trung trong 
thấu khính cát kết ở nếp lồi.
2.2- Bồn trũng rìa miền nền (Trước núi – foreland) 
- Vị trí: Phát triển gần rìa lục địa (còn gọi là bồn trũng trước núi)
Phát triển trong 2 giai đoạn từ kiểu bồn trũng nội mảng: Chu kỳ hội tụ đầu 
tiên bị gián đoạn bởi quá trình nâng lên, thường trong Pz muộn hoặc trong Mz. 
Chu kỳ thứ 2 bắt đầu theo hướng khác, được đánh dấu bởi một bất chỉnh hợp.
Bồn trũng được bắt đầu bằng một quá trình mở rộng, nhưng trong chu kỳ thứ 2 
chủ yếu là giai đoạn nén ép liên quan đến việc nâng lên và chuyển động tạo 
núi 
- Tính chất
Thường có dạng elip hoặc kéo dài, có sự thay đổi chiều rộng, trắc diện đối 
xứng 
11
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
- Một số bồn trũng lớn Bồn trũng miền trước núi đang khai thác thuộc vùng 
Bắc Mỹ (bồn Alberta, Anadarko, Permian, Appalachian) và đa số các bồn 
trũng nhỏ thuộc Rocky mount và ở Đông Nam Mỹ, một số bồn thuộc Angieri.
+ Ví dụ: Bồn Permian (Tây Texas) tiêu biểu cho bồn trũng trước núi.
Đường kính khoảng 360 km, trầm tích dày khoảng 6 km (rộng 
>>dày) chiều sâu tối thiểu 2km mới đạt ngưỡng cửa sổ tạo dầu bồn mở 
rộng tương đối đối xứng.
Đây là bồn trũng kín, rộng chia ra làm 2 bồn trũng nhỏ Delaware và 
Midland, cách nhau bởi phần lồi gọi là cung đảo trung tâm. Trong bồn 
trũng Permian, dầu khí đều có trong 2 kỳ: Kỳ 1 là trong Permian sớm 
liên quan địa hình của đá móng tạo bẫy, kỳ 2 nằm trong đá vôi và cát kết 
Pecmi, liên quan nhiều hơn so với kỳ 1, chủ yếu là nếp lồi của các dome 
muối và các tướng liên quan đấn ám tiêu. Trong các đá trầm tích Pz 
giữa, một số tầng chứa không liên tục theo chiều ngang nên đới sản 
phẩm ít.
- Tầng chứa chủ yếu là trầm tích hạt vụn. Tầng sản phẩm Permian có mặt 
trong cả hai chu kỳ tích tụ và liên quan đá móng thời ký đầu và nếp lồi của 
các tướng địa tầng trong chu kỳ 2 
- Gradient địa nhiệt: Bồn trũng trước núi có xu hướng địa nhiệt thấp, tuy 
vẫn cao hơn so với nội mảng. Một số có gradient địa nhiệt cao hơn trung bình 
tạo thuận lợi về nhiệt độ để tạo dầu. Bồn trũng kiểu này sâu hơn, tiềm năng 
dầu khí tốt hơn so với nội mảng.
Các mỏ kích thước nhỏ gom lại hoặc một số mỏ lớn khác thường tạo trữ 
lượng thương mại của bồn.
2.3- Bồn trũng dạng rift
- Vị trí: Thuộc miền rìa vỏ lục địa. 
Miền trũng dạng rift khác trước núi là đứt gãy do kéo toạc, sụp xuống, hẹp 
bề ngang và kéo dài chiều rộng và chiều sâu, 2 bờ vách thẳng đứng.
Miền trũng dạng rift khác miền nền bởi các rift có thể liên kết khép kín theo 
thành bồn trong quá trình phân kỳ (do tách giãn đáy biển), và bồn được hình 
thành ở cánh không phát triển, bị kéo căng và không tách ra hoàn toàn.
- Tính chất
Dạng tuyến nhỏ-vừa, nông vừa-sâu. Các địa hào địa lũy tạo nên trắc diện 
không quy luật .
- Một số bồn trũng lớn Bồn Sirte (Libi), Rhine (Châu Âu), vịnh Siam, Suez 
(Ai Cập), địa hào Vi King (North Sea)
+ Ví dụ: Bồn trũng Suez (Ai Cập)
 * Đường kính 40 km, bề dày trầm tích ~ 5 km
* Tầng chứa chủ yếu là đá cát không có nguồn gốc biển, tuổi C-K bề 
dày mỏng
12
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
* Mz. bắt đầu tạo rift. trong suốt Miocen hỗn hợp cát kết và phiến sét 
giầu vật chất hữu cơ (thấu kính cát) bề dày quan trọng trung bình ~ 2 
km phát triển tướng đá không bị khống chế khép kín do ~ đứt gãy 
khối. Sau đó trầm tích bốc hơi hoặc đá phiến sét sinh dầu Miocen
 Địa hào Vi King (Biển Bắc)
 * Đường kính 200 km, bề dày trầm tích 8 km
* Quá trình đứt gãy chính xảy ra trong suốt Jura muộn, khi mà 2 
nhánh trở thành Đại Tây Dương tách băng đảo ra khỏi phần còn lại 
của Châu Âu -> địa hào trở thành rift không phát triển dày 4 km, chủ 
yếu là cát kết màu đỏ không phiến sét tam giác châu nguồn gốc biển 
tuổi Mz, Trước đó có những khu vực cục bộ tuổi hơn (Pz). Có một 
vài km lấp đầy trầm tích hậu rift bắt đầu là phiến sét giàu vật chất hữu 
cơ tuổi J muộn. Sau đó là đá phấn và cát kết nguồn gốc biển.
* Trong địa hào Vi King, tầng chứa sản phẩm chủ yếu là cát kết J.
- Đặc trưng 
+ Tiền rift: Bẫy tạo lập bởi khối đứt gãy, chắn bởi phiến sét giàu vật 
chất hữu cơ tuổi J muộn, phiến sét này vừa là sinh và chắn. 
+ Hậu rift: một số cát kết và cacbonnat sâu chứa sản phẩm là phát triển 
-> hầu hết bồn trũng dạng rift chủ yếu là đá trầm tích hạt vụn có nguồn gốc 
biển hoặc sông. Tuy nhiên, ở các đại dương ấm rift bị giới hạn, thường 
chứa phù sa cacbonat, bốc hơi, tùy thuộc vào các tướng đá đã phát triển 
hoặc các đá vôi, cát kết thì loại này có thể là tầng chứa.
- Đá mẹ: đá phiến sét nằm trên hoặc xen ngang, khoảng cách di chuyển 
ngắn.
- Bẫy kết hợp tướng biển nông và bất chỉnh hợp, phát triển trên các khối 
đang sụp lún khác nhau. Khối đứt gãy nghiêng và nếp lồi phủ lên trên đá 
phiến. Sự giới hạn bồn trũng tạo ra tầng chắn trầm tích bốc hơi như bồn Suez
- Gradient địa nhiệt cao hơn giá trị trung bình do đó bồn dạng rift giàu dầu 
khí mặc dù kích thước nhỏ.
- Mức độ rủi ro: sự phát triển không hoàn toàn các đá phiến sét giàu vật 
chất hữu cơ; kích thước bẫy chứa không đầy đủ, gradient địa nhiệt cao làm phá 
huỷ sản phẩm
- Sản phẩm: Có cả dầu và khí
Không phải tất cả quá trình phân kỳ đều tạo ra một đới rift không phát triển 
mà số ít phát triển để hình thành loại bồn kéo toạc khi hoạt động tách dãn đáy 
biển tiếp tục để vỏ đại dương sinh ra. Lúc này, bồn trũng đã hình thành ở ven 
rìa sẽ được kéo tách ra về 1 phía.
2.4- Bồn trũng kéo toạc (pull-apart)
13
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
- Tính chất có dạng không đối xứng, thuộc rìa lục địa. Dạng tuyến kéo dài, 
có một phía là nguồn gốc lục địa, mặt chủ yếu ở ngoài khơi, nằm trên lớp vỏ 
chuyển tiếp.
Đa số được định vị ở rìa Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương.
- Một số bồn trũng lớn Bồn trũng Gabon và Angola Cabinda (ngoài khơi 
phía Tây Châu Phi), bồn trũng phía Bắc nước Úc, ngoài khơi Đông Nam 
Newfoundland 
+ Ví dụ: bồn trũng Gabon (Châu phi), Bồn trũng bắt đầu giống rift 
trong suốt giai đoạn P-Mz 
* Đường kính 200km, bề dày trầm tích khoảng 10km. 
* Dòng bùn chảy từ đầm lầy đưa ra tạo thành các thấu kính, chỉ xảy 
ra trong một thời gian nhất định.
* Biển tiến và biển lùi tạo trầm tích xen kẹp J, trầm tích cát môi 
trường lục địa. Cuối J sụp lún và kéo toạc, mở rộng về biển khơi với 
môi trường biển nông tạo ra trầm tích vôi và đá muối. trong K tiếp 
tục sụp lún xuống sâu hơn. 
* Bẫy: gồm bẫy vòm và bẫy phay kết hợp địa tầng
* Đá sinh: đá vôi
* Đá chứa: lớp bất chỉnh hợp
* Đới rift được hình thành 
Đầu tiên, tiền J được lấp đầy bời đá hạt vụn, không phải nguồn 
gốc đại dương. Giai đoạn tách giãn bắt đầu vào K đới rift kéo toạc ra 
tạo thành môi trường trong đó cacbonat và trầm tích bốc hơi được 
phát triển trong điều kiện biển ngày càng mở rộng nhiều hơn, quạt 
trầm tích hạt vụn được tích tụ ngày càng dày. Trầm tích này dẫn đến 
các diapa muối với các sản phẩm nằm trong đá trầm tích bốc hơi.
* Đá mẹ và các tầng sản phẩm chứa dầu được tìm thấy trong hầu hết 
các loại trầm tích như cát kết K sớm hình thành trong quá trình tạo 
rift đầu tiên với sản phẩm trong các bẫy liên quan đến đứt gãy.
* Ở nhịp môi trường biển nông, dầu có mặt trong cát kết và đá vôi K 
muộn. Khi nếp lồi phủ lên ở cao hơn. Đa số đới sản phẩm nằm tro
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dc_dau_khi_8702.pdf dc_dau_khi_8702.pdf