Trận Lens, 1648
Giai đoạn 1635-1648
Nước Pháp, mặc dù là "Cô con gái cảcủa Giáo hội Thiên Chúa giáo"
[2]
, cũng lại là 
kình địch của Đếquốc La Mã thần thánh và Tây Ban Nha, bước vào cuộc chiến 
trong tư cách đứng vềphía phe Tin lành. Quan Thượng thư đầu triều Pháp là Hồng 
y Richelieucảm thấy quân nhà Habsburg vẫn quá mạnh, chiếm giữnhiều lãnh địa 
ởngay biên giới phía đông nước Pháp, bao gồm nhiều phần của Hà Lan.
Trước đó, trong một thời gian dài, Pháp đã liên minh với Hà Lan, rồi sau đó là 
Đan Mạch và Thụy Điển, đểbảo trợcho cuộc chiến của người Tin lành chống lại 
Đếquốc La Mã thần thánh. Hòa ước Praha, được dàn xếp dựa do sựép buộc của 
Ferdinand II, khiến người Pháp và phe Tin lành không hài lòng. Thụy Điển muốn 
được nhiều đất đai hơn nữa đểtrang trải cho phí tổn mà họphải gánh chịu trong 
suốt cuộc chiến. Tháng 4-1635, Pháp và Thụy Điển ký một hiệp ước liên minh, 
hiệp ước Compiegne. Cho tới thời điểm đó của cuộc chiến, nước Pháp vẫn chưa bị 
tổn thất gì và chỉtham dựmột cách hạn chếbằng cách bỏtiền trang trải chiến phí, 
thay vì trực tiếp chiến đấu.
Vào những tháng đầu của năm 1635, Pháp bắt đầu tỏra tích cực hơn trong các 
hoạt động quân sự. Tháng 2-1635, Richelieu đã gửi cho Hà Lan 2 vạn quân tiếp 
viện. Tuy nhiên, Pháp không thểcứđứng ngoài cuộc chiến. Tây Ban Nha tấn công 
Trier, một xứbảo hộcủa Pháp từ1631, vào đầu năm 1635 và tháng 5-1635, Pháp 
tuyên chiến với Tây Ban Nha. Vào lúc đầu, triển vọng quân sựcủa Pháp là không 
tốt. Quân đội Pháp không có nhiều kinh nghiệm chiến đấu so với những địch thủ
đã trải qua cuộc chiến được gần 20 năm. Họbèn tìm kiếm những liên minh với các 
thành bang Tin lành, Savoie, Parma, Màntovavà những người Tin lành ở Thụy Sĩ.
              
                                            
                                
            
 
            
                 35 trang
35 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1577 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài thảo luận Chiến tranh Ba mươi năm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 vào nước Pháp, một theo hướng dãy 
Picardy do Hồng y Ferdinand nước Áo chỉ huy và một theo đường Vosges, do 
Gallas chỉ huy, trong khi vua Felipe IV của Tây Ban Nha đích thân chỉ huy một 
đạo quân dự định tấn công miền nam Pháp. Đạo quân của Hồng y Ferdinand giành 
những thắng lợi liên tiếp và đã có lúc uy hiếp Paris. Tuy nhiên, quân Pháp chống 
trả quyết liệt và dưới sự kêu gọi của Louis XIII và Hồng y Richelieu, Paris đã 
không thất thủ, quân Pháp sau đó dần đẩy lui được đạo quân của Hồng y 
Ferdinand. Đạo quân của Gallas cũng bị công tước Bernard xứ Weimar chặn đứng, 
còn cuộc tấn công của Felipe IV không thể thực hiện được. Chiến thắng này có ý 
nghĩa đặc biệt quan trọng với nước Pháp trong cuộc chiến. 
Tháng 2 năm 1637, Hoàng đế La Mã thần thánh Ferdinand II băng hà, con trai ông, 
Ferdinand III (Đế quốc La Mã thần thánh), kế vị cha. Ferdinand III ngay lập tức 
đứng trước những thử thách hết sức khắc nghiệt. Trước đó, tháng 10-1636, quân 
Thụy Điển đánh bại quân của Đế chế trong một trận đánh lớn tại Wittstock, 
Brandenburg, qua đó giành quyền kiểm soát phần lớn miền bắc Đức. Gallas đã 
phải bỏ dở chiến dịch của ông ở Pháp để quay về đối phó. Trận Torgau diễn ra sau 
đó, với thắng lợi của Đế chế, buộc quân Thụy Điển phải lùi về Pomerania, nhưng 
vẫn còn đủ mạnh để uy hiếp miền bắc Đế chế. 
Trong khi đó, Pháp bắt đầu tổ chức phản công và giành được những chiến thắng 
đáng kể ở miền bắc Ý khi công tước Bernard xứ Weimar đánh bại quân Đế chế ở 
Rheindelfen rồi chiếm được Alsace và Breisach. Sau khi Bernard qua đời năm 
1639, quân đội của ông được đặt hoàn toàn dưới sự kiểm soát của nước Pháp. Lúc 
này, quân đội Pháp cũng bắt đầu có những chỉ huy tài năng: Turenne và Louis II 
de Bourbon, hoàng thân xứ Conde. 
Trên biển, liên quân Tin lành cũng giành được những thắng lợi quyết định. Tháng 
10-1639, hải quân Hà Lan đánh bại một hạm đội hải quân của Tây Ban Nha trong 
trận Downs. Tháng 1-1640, một hạm đội hải quân của Tây Ban Nha và Bồ Đào 
Nha lại bị hải quân Hà Lan đánh bại trong trận Pernambuco. Kể từ sau đó, quân 
đội của Đế chế không còn nhận được sự tiếp viện của Tây Ban Nha từ đường biển 
nữa. Tháng 11-1641, Hồng y Ferdinand qua đời, thêm một tổn thất nữa cho phe 
Đế chế. 
Về phần Tây Ban Nha, họ gặp phải nhiều vấn đề quốc nội hết sức phức tạp. Trong 
hai năm 1640-1641, Bồ Đào Nha, trước giờ vẫn là một xứ bảo hộ của Tây Ban 
Nha, nổi dậy đòi quyền độc lập. Xứ Catalan cũng nổi loạn, tham gia một hiệp ước 
chống Tây Ban Nha với nước Pháp, thành lập liên minh Pháp – Catalan và lật đổ 
nền cai trị của Tây Ban Nha ở Barcelona, thủ phủ xứ Catalan, vào năm 1641. Tây 
Ban Nha trở nên hết sức hỗn loạn và vua Felipe IV không còn tâm trí đâu cho cuộc 
chiến nữa. Tuy nhiên, Pháp đã không tận dụng được cục diện xoay chuyển có lợi 
cho họ đó bởi cái chết của Hồng y Richelieu vào tháng 12-1642. Louis XIII cũng 
băng hà chỉ sau đó không đầy một năm, tháng 5-1643. Tự quân của nước Pháp, 
Louis XIV của Pháp, chỉ mới bốn tuổi và những người cầm quyền nhiếp chính, 
Hoàng hậu Anne, một người Áo và Thủ tướng Mazarin, một người Ý, đều không 
muốn tiếp tục cuộc chiến. Cùng năm đó, Tướng quan xứ Bayern là Franz von 
Mercy đánh tan tác quân Pháp. [3] 
Vào năm 1645, Tướng quan Pháp Turenne bị Tướng quan Franz von Mercy tấn 
công bất ngờ trong trận Mergentheim, và Turenne thất bại nặng nề.[4] Tuy nhiên, 
Tổng chỉ huy Quân đội Thụy Điển, Lennart Torstensson đánh bại quân của Đế chế 
trong trận Jankau gần Praha và Louis II de Bourbon - nhận lệnh Hồng y Mazarin 
đến cứu vãn Quân đội Pháp sau chiến bại tại Mergentheim - đánh tan tác Quân đội 
Bayern trong trận Nordlingen lần thứ hai. Vị tướng tài năng cuối cùng của phe 
Thiên chúa giáo, Franz von Mercy, đã hy sĩnh trong trận đánh này. 
Vào ngày 14 tháng 3 năm 1647, Bayern, Cologne, Pháp và Thụy Điển ký thỏa ước 
ngừng bắn Ulm. Sau đó, quân Pháp chiếm đóng pháo đài Philipsburg của Đế quốc 
La Mã Thần thánh.[3] Năm 1648, liên quân Pháp Thụy Điển do Thống chế Carl 
Gustaf Wrangel cùng Tướng quan Turenne và Louis II de Bourbon chỉ huy đánh 
bại Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh trong những trận đánh lớn cuối cùng của 
cuộc chiến, trận Zurmarshausen và trận Lens. Sau hai thất bại đó, vương triều 
Habsburg rộng lớn giờ chỉ còn làm chủ mỗi vùng lãnh địa nước Áo mà thôi. Vào 
năm 1648, quân Thụy Điển thực hiện cuộc tiến công cuối cùng vào thành Praha. [2] 
[ ] Hòa ước Westphalia 
Bài chi tiết: Hòa ước Westphalia 
Sau khi Louis II de Bourbon đánh bại quân Tây Ban Nha trong trận Rocroi năm 
1643, những cuộc thương thuyết hòa bình được bắt đầu. Cuộc thương thảo kéo dài 
năm năm đã dẫn đến Hòa ước Westphalia. Hòa ước Westphalia gồm hai phần cơ 
bản: Hiệp ước Osnabruck và Hiệp ước Munster, lần lượt được ký vào các ngày 15 
và 24-10-1648. Các hiệp ước nói trên về danh nghĩa, là điểm chấm dứt hai cuộc 
chiến lớn: Chiến tranh Ba mươi năm và chiến tranh Tám mươi năm.[5][6] [7] Các 
cuộc thương thuyết diễn ra tại hai thành phố Osnabruck và Munster, lần lượt thuộc 
các bang North Rhine-Westphalia và Hạ Sachsen trên lãnh thổ nước Đức ngày nay, 
bao gồm các bên: Hoàng đế La Mã thần thánh, Ferdinand III dòng họ Habsburg, 
các tuyển hầu ở các lãnh địa thuộc Đức, Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Điển, và các 
đại diện của Hà Lan. 
[ ] Hậu quả của chiến tranh 
Những tổn thất do cuộc chiến gây ra từ lâu đã là một đề tài gây nhiều tranh cãi 
giữa các sử gia. Số liệu trước đây ước tính 30% dân số Đức đã thiệt mạng trong 
cuộc chiến đang được xem xét lại. Tỷ lệ thương vong có lẽ không cao đến mức đó 
mà vào khoảng từ 15% đến 20%. Những nguyên nhân chủ yếu là chiến tranh, nạn 
đói và bệnh dịch. Trong đó lực lượng lính đánh thuê gây ra nhiều tổn thất về nhân 
mạng cho thường dân và tài sản. Cuộc chiến đã gây ra những xáo trộn nghiêm 
trọng cả về kinh tế và dân số ở trung Âu. 
Bệnh dịch hạch, hoành hành cả trong quân đội và thường dân ở Đức và những 
vùng đất lân cận từ 1618 đến 1648, cũng là một nguyên nhân gây ra nhiều thiệt hại 
về nhân mạng. Việc các đội quân di chuyển liên tục đã góp phần khiến bệnh dịch 
hạch ngày càng lan rộng. Thêm vào đó, những đoàn thường dân chạy loạn và di cư 
tập trung đông đúc ở các thành phố càng làm bệnh dịch và nạn đói trầm trọng 
thêm. Thông tin về thiệt hại nhân mạng do bệnh dịch thường được tìm thấy trong 
các biên niên sử địa phương, như những tài liệu đăng ký giáo dân và đăng ký thuế. 
Tuy nhiên, những thông tin này thường không đầy đủ, hoặc đôi khi phóng đại con 
số thực tế. Cũng phải nói thêm rằng dịch bệnh không phải là một hệ quả trực tiếp 
của chiến tranh. Nhiều thập kỷ trước năm 1618, trên nhiều vùng đất nay là nước 
Đức cũng thường xuyên phát sinh dịch bệnh. 
Tuy nhiên, khi quân đội Đan Mạch và quân đội của Đế chế giao tranh tại Sachsen 
và Thuringia trong những năm 1625 và 1626, bệnh dịch đặc biệt gia tăng. Các 
cuốn biên niên sử của từng địa phương thường xuyên nhắc đến “những bệnh ở 
đầu”, “bệnh lây truyền từ Hungary” hay “bệnh nổi chấm đỏ”. Sau cuộc chiến ở 
Màntova giữa Pháp và vương triều Habsburg cai trị Ý, phần phía bắc bán đảo Ý 
phải hứng chịu một đợt dịch hạch khủng khiếp. Trong cuộc vây hãm không thành 
công Nuremberg vào năm 1632, cả thường dân lẫn binh lính của quân đội Thụy 
Điển và Đế chế đều mắc bệnh sốt phát ban và sco-bút. Hai năm sau, khi quân đội 
Đế chế truy đuổi quân Thụy Điển ở miền tây nam nước Đức, dịch bệnh lại hoành 
hành ở vùng dọc theo sông Rhine. Bệnh dịch hạch đóng một vai trò quan trọng 
trong cuộc chiến. Đầu năm 1634, Dresden, München và nhiều thành phố nhỏ hơn 
khác ở Đức như Oberammergau đều xảy ra dịch bệnh. Trong những năm cuối 
cùng của cuộc chiến, bệnh sốt phát ban và kiết lỵ đã phát triển thành dịch ở nhiều 
vùng trên khắp đất Đức. 
[ ] Hệ quả chính trị của cuộc chiến 
Hệ quả đầu tiên của cuộc chiến là việc chia cắt nước Đức thành nhiều vùng khác 
nhau. Mỗi vùng, dù vẫn là thành viên của Đế chế, trên thực tế có chủ quyền riêng 
biệt. Điều này làm suy giảm nghiêm trọng sức mạnh của Đế chế La Mã Thần 
thánh và phi tập trung hóa quyền lực ở Đức. Đây cũng được xem là nguyên nhân 
sâu xa cội rễ của chủ nghĩa quân phiệt Đức và chủ nghĩa dân tộc ở Đức sau này. 
Chiến tranh Ba mươi năm đã sắp xếp lại cấu trúc quyền lực trước đó ở châu Âu. 
Sau khi các xứ Sachsen và Brandenburg về với Đế quốc La Mã Thần thánh, việc 
quân Pháp nhảy vô tham chiến đã đưa bản chất của cuộc chiến dần trở thành một 
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Đức.[2] Ảnh hưởng của Tây Ban 
Nha, cả về quân sự và chính trị, suy giảm nghiêm trọng. Trong khi Tây Ban Nha 
đang mắc kẹt trong cuộc chiến với Pháp, Bồ Đào Nha, là một quốc gia nằm dưới 
quyền bảo hộ của Tây Ban Nha trong 60 năm trước đó (từ 1580), đã có vị vua 
riêng của họ là João IV, vào năm 1640, và triều đại Braganza được thiết lập ở Bồ 
Đào Nha. Ngoài ra, Đế quốc Tây Ban Nha cuối cùng phải thừa nhận nền độc lập 
của Hà Lan vào năm 1648, kết thúc cuộc chiến tranh Tám mươi năm. Cùng với sự 
suy yếu của Tây Ban Nha, Pháp nổi lên là quốc gia hùng mạnh bậc nhất ở châu Âu, 
được khẳng định bằng chiến thắng trong cuộc chiến tranh Pháp–Tây Ban Nha diễn 
ra không lâu sau đó. 
Thất bại của Tây Ban Nha và các lực lượng ủng hộ đế chế còn đánh dấu sự suy 
sụp của triều đại Habsburg và sự nổi lên của Vương triều nhà Bourbon nước Pháp. 
Trong suốt cuộc chiến tranh tàn khốc, xứ Brandenburg bị cả quân Thụy Điển lẫn 
Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh tàn phá dữ dội. Trong khi đó, Tuyển hầu 
tước xứ Brandenburg thường thực hiên những chính sách thiếu quyết đoán đối với 
cả hai phía. Trong thế kỷ thứ 18 sau này, một vị vua lớn của nước Phổ-
Brandenburg là Friedrich II Đại Đế (trị vì: 1740 - 1786) có chép sử, theo đó Tuyển 
hầu tước Georg Wilhelm thật không có tài năng trị vì lãnh địa.[8] Vua Friedrich II 
cũng ghi nhận về hậu quả của cuộc Chiến tranh Ba mươi năm đối với lãnh địa 
Brandenburg: [9] 
“ ...bị tàn phá trong cuộc Chiến tranh Ba mươi năm, cái ảnh hưởng ghê 
tởm của cuộc tàn phá này nó sâu đậm đến mức mà từng chi tiết nhỏ 
của nó có thể được nhận thức rõ - như Trẫm viết. ” 
—Vua Phổ Friedrich II 
Từ 1643 đến 1645, những năm cuối cùng của cuộc chiến, chiến tranh Tortenson 
diễn ra giữa Đan Mạch và Thụy Điển. Kết quả của cuộc chiến đó và của cuộc 
chiến lớn diễn ra trên toàn châu Âu cùng với hòa ước Westphalia năm 1648 đã 
khẳng định vị thế một cường quốc ở châu Âu của Thụy Điển sau khi chiến tranh 
kết thúc. Nhưng rồi, tân Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm I xứ Brandenburg 
trung hưng, xây dựng lực lượng Quân đội tinh nhuệ, và rồi đại phá tan tác được 
hùng binh Thụy Điển (1675). Xứ Brandenburg vươn lên phát triển cường thịnh, 
thế là họ thiết lập Vương quốc Phổ-Brandenburg vào năm 1701. Vua Friedrich II 
sau này đã đánh giá rất cao về vị Tuyển hầu tước lớn Friedrich Wilhelm I thành 
tựu này. [10][11] 
Những điều khoản được thỏa thuận trong suốt quá trình thương lượng dẫn đến ký 
kết hòa ước Westphalia đã đặt nền móng cho những nguyên tắc ứng xử trong quan 
hệ quốc tế sau này và thậm chí được xem là những nguyên lý cơ bản của định 
nghĩa chủ quyền với các quốc gia độc lập. Ngoài việc xác định biên giới lãnh thổ 
rõ ràng cho nhiều quốc gia liên quan (cũng giống như các quốc gia mới được 
thành lập sau này), hòa ước Westphalia đã thay đổi mối quan hệ giữa các thần dân 
và những người cai trị. Lúc đầu, người dân thường có xu hướng tuân theo cả các 
quyền lực chính trị và tôn giáo. Sau hòa ước Westphalia, các công dân của một 
quốc gia có chủ quyền trên nguyên tắc trước hết phải tuân theo luật lệ của chính 
quyền đang cai quản quốc gia đó, dù cho chính quyền đó là tôn giáo hay là thế tục. 
Ngoài ra, chiến tranh còn mang tới một số hệ quả quan trọng khác: 
 Chiến tranh Ba mươi năm là cuộc chiến tranh vì tôn giáo lớn cuối cuối cùng 
ở châu Âu lục địa, kết thúc thời kỳ dài của những cuộc đổ máu vì lý do tín 
ngưỡng. Vẫn còn tồn tại xung đột về tôn giáo đây đó ở châu Âu, nhưng 
không xảy ra những cuộc chiến tranh lớn. [12] 
 Những tàn phá do các đội quân lính đánh thuê gây ra là cực kỳ lớn. Cuộc 
chiến tranh Ba mươi năm đã góp phần dẫn đến việc thời kỳ các quốc gia sử 
dụng lính đánh thuê. Những quốc gia châu Âu bắt đầu xây dựng cho mình 
những đội quân riêng, có kỷ luật và chiến đấu trước hết vì đất nước. Ví dụ, 
sau khi lên nối ngôi vào năm 1640, Tuyển hầu tước lớn của xứ 
Brandenburg là Friedrich Wilhelm I đã tìm cách chấm dứt chiến tranh, và 
xây dựng một lực lượng Quân đội tinh nhệ và có trình độ kỷ luật cao để bảo 
vệ nền độc lập của lãnh địa mình. Nhờ đó, nền độc lập của xứ Brandenburg 
được duy trì và bảo vệ bởi một lực lượng vũ trang hùng hậu, thay vì việc 
tham gia các liên minh mà đã mang lại ảnh hưởng xấu của xứ Brandenburg 
trong cuộc Chiến tranh Ba mươi năm.[13] Cuối cùng, trong chiến dịch phạt 
Brandenburg của quân Thụy Điển hùng mạnh vào năm 1675, Quân đội tinh 
nhuệ Brandenburg đã đại phá tan nát quân Thụy Điển trong trận đánh lịch 
sử tại Fehrbellin. [10] 
[ ] Biểu đồ các nước tham chiến 
 Trực tiếp chống Đế quốc La Mã Thần thánh 
 Gián tiếp chống Đế quốc La Mã Thần thánh 
 Trực tiếp thân Đế quốc La Mã Thần thánh 
 Gián tiếp thân Đế quốc La Mã Thần thánh 
[ ] Chú thích 
1. ^ Christopher Duffy, Siege Warfare: The fortress in the early modern 
world, 1494-1660, trang 177 
2. ^ a b c Christopher Duffy, Siege Warfare: The fortress in the early modern 
world, 1494-1660, trang 181 
3. ^ a b Christopher Duffy, Siege Warfare: The fortress in the early modern 
world, 1494-1660, trang 129 
4. ^ Richard Bonney, The Thirty Years' War 1618-1648, trang 64 
5. ^ “::The Thirty Years War::”. Chris Atkinson. Truy cập 23 tháng 5 năm 
2008. 
6. ^ End of the Eighty Years War “The Thirty Years War: The Peace of 
Westphalia”. www.pipeline.com. Truy cập 23 tháng 5 năm 2008. 
7. ^ “Germany History Timeline”. www.countryreports.org. Truy cập 24 
tháng 5 năm 2008. 
8. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 
1600-1947, trang 26 
9. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 
1600-1947, trang 19 
10. ^ a b Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 
1600-1947, các trang 42-45. 
11. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 
1600-1947, trang 64 
12. ^ “Lecture 6: Europe in the Age of Religious Wars, 1560-1715”. 
www.historyguide.org. Truy cập 27 tháng 5 năm 2008. 
13. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang XVI 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ls_phap_3__5214.pdf ls_phap_3__5214.pdf