Trong những đợt tấn công này, quân Anh đốt phá hai vùng Ouluvà Raahevà bị
thếgiới lên tiếng phản đối. Tin lan vềđến Anh và nghịsĩ quốc hội Thomas Gibson
đòi Hạviện Anh hạch trách các đềđốc hải quân đang tham chiến vềnhững hành 
động tàn phá tài sản của người dân vô tội.
ỞNga, kinh tếtừtừbịsuy yếu vì buôn bán theo đường biển bịbếtắc, và quân 
Nga cũng do đó mà giảm sút tinh nhuệ.
Mùa thu năm này, hạm đội Anh do chiến hạm Miranda dẫn đầu kéo từbiển Ban 
Tích ra biển Trắngvà pháo kích hai tỉnh Kolavà Solovki. Kola bịtàn phá hoàn 
toàn. Quân Anh tấn công Arkhangelsknhưng thất bại. 
Năm 1855, hơn 1.000 đại bác của hải quân đồng minh Anh-Pháp bắn hơn 20 
nghìn viên pháo vào đồn phòng thủ Sveaborgcủa Nga gần Helsinki. Nhưng chỉ
huy trưởng Nga Viktor Poplonsky đem tàu chiến Rossiyachặn giữcửa biển, 
không cho quân Anh-Pháp vào. Trong khi đó quân Anh-Pháp phá mãi không xong, 
phải huy động thêm lực lượng đểtấn công lần nữa nhưng chưa kịp thì chiến tranh 
chấm dứt.
              
                                            
                                
            
 
            
                 18 trang
18 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Bài thảo luận Chiến tranh vùng Krym, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chiến tranh vùng Krym 
Tranh của Franz Roubaud 
Cuộc bao vây Sevastopol. 
. 
Thời gian 1854–1856 
Địa điểm Bán đảo Krym, 
Balkan, 
Biển Đen, 
Biển Ban Tích, 
Thái Bình Dương 
Kết quả Đồng minh chiến thắng, Hoà 
ước Paris (1856) 
Tham chiến 
Đồng Minh: 
Pháp 
Đế quốc Ottoman 
Đế quốc Anh 
Vương quốc 
Sardinia 
Đế quốc Nga 
Chỉ huy 
Napoléon III 
Armand Jacques 
Leroy de Saint-
Arnaud † 
François Certain 
th Canrobert 
Abdul Mejid I 
Abdülkerim 
Nadir Pasha 
Omar Pasha 
James Brudenell, 
Nikolai I † 
Aleksandr II 
Mikhail 
Gortchakov 
Ivan Paskevich † 
Pavel 
Nakhimov † 
Eduard Totleben 
Mikhail 
Semyonovich 
Vorontsov 
Bá tước Cardigan 
thứ 7 
FitzRoy 
Somerset, Nam tước 
Ragdan thứ nhất † 
Edmund Lyons, 
Nam tước Lyons thứ 
nhất 
Alfonso La 
Marmora 
Aleksandr 
Sergeyeich 
Menshikov 
Vasily Zavoyko 
Lực lượng 
300.000 lính Thổ 
400.000 lính Pháp 
250.000 lính Anh 
10.000 lính Sardinia 
700.000 lính Nga[1] 
4.000 lính Bulgaria 
Tổn thất 
Tổng số 252.000 tử 
vong, trong đó 
70.000 thương vong 
trong trận chiến[2] 
Pháp: Tổng số tử 
vong khoảng 
Khoảng 522.000[7] [8] 
bị chết trận, bị 
thương và chết bệnh 
[9], trong đó chết 
60.000[10] tới 
100.000[3] 
trong đó 10.240 chết 
trận; 20.000 chết vì 
bị thương; khoảng 
75.000 chết bệnh 
Anh: 2.755 chết 
trận; 2.019 chết vì bị 
thương; 16.323 chết 
bệnh 
Sardinia: 2.050 chết 
vì nhiều nguyên 
nhân[4] 
Thổ Nhĩ Kỳ: Tổng 
số chết và bị thương 
ước khoảng 
200.000.[5] Tổng số 
chết ước 50.000[6] 
110.000[11][12] 
. 
[hiện] 
x • t • s 
Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ 
Chiến tranh Krym bắt đầu từ năm 1853 và chấm dứt năm 1856, giữa hai lực 
lượng quân sự châu Âu, phe đồng minh gồm Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế 
quốc Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia chống lại Đế quốc Nga. Cuộc chiến tranh này còn 
được người đương thời gọi là Chiến tranh nước Nga.[13] Phần lớn các trận chiến 
xảy ra trên bán đảo Krym, những trận nhỏ hơn tại miền tây Thổ Nhĩ Kỳ và vùng 
biển Ban Tích. Một trong những lý do gây ra cuộc chiến là việc chính phủ Nga 
hoàng bảo hộ cho các thần dân Chính Thống giáo nằm dưới ách thống trị của Đế 
quốc Thổ Nhĩ Kỳ.[14] Cuộc chiến tranh tàn khốc này mở đầu với việc Thổ Nhĩ Kỳ 
tuyên chiến với Nga vào năm 1853, với trận đánh tại Oltenitza cùng năm đó, khi 
một cuộc tiến công của quân Nga bị quân Thổ Nhĩ Kỳ đập cho tan nát. Nhưng sau 
đó, trong trận thủy chiến Sinope, khi thủy binh Nga đập tan nát thủy binh Thổ Nhĩ 
Kỳ. Tuy nhiên, quân Thổ Nhĩ Kỳ cũng phá tan tành được vòng vây của quân Nga 
ở Silistria. Vả lại, Anh và Pháp cũng lần lượt tuyên chiến với Nga. [15][16][17] 
Chiến tranh vùng Krym được xem là chiến tranh hiện đại đầu tiên trong lịch sử, 
trong đó kỹ thuật quân sự có phần tân tiến hơn những cuộc chiến tranh trước và 
thay đổi hình thức của các cuộc chiến tranh sau đó[18]. Cuộc công kích anh dũng 
của Tiểu Lữ đoàn Anh Quốc nhằm vào quân Nga vào năm 1854 tuy thất bại, 
nhưng trở thành biểu tượng của tinh thần trách nhiệm cũng như kỷ cương cao.[13] 
Cuộc đấu tranh bảo vệ Sevastopol (1855) của quân Nga trước liên quân Anh - Thổ 
- pháp cũng vậy, tuy là thất bại của Quân đội Nga nhưng được xem là một chiến 
thắng về tinh thần của họ.[19] Vào năm 1856, các nước Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và 
Sardinia đã giành được chiến thắng.[17] Quân đội Nga - đội quân tinh nhuệ nhất 
của châu Âu trong con mắt của Nga hoàng Nikolai I - đã đại bại.[14] Nước Nga bị 
mất chủ quyền ở biển Đen - một thành quả của Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế năm 
xưa. [20] 
Mục lục 
 [ẩn] 
 1 Bối cảnh 
o 1.1 Tranh chấp vùng Đất Thánh 
o 1.2 Những vụ xung đột đầu tiên 
o 1.3 Cơ hội hòa giải 
 2 Chiến cuộc vùng Crimea 
o 2.1 Bao vây Sevastopol 
o 2.2 Chiến trường biển Ban Tích 
o 2.3 Thái Bình Dương 
o 2.4 Ý ủng hộ Đồng minh 
o 2.5 Chiến tranh kết thúc 
 3 Hậu quả 
 4 Thiệt hại của đôi bên trong chiến tranh 
 5 Chú thích 
[ ] Bối cảnh 
[ ] Tranh chấp vùng Đất Thánh 
Hoàng đế Nga Nikolai I (1825-1855) 
Sau các cuộc Cách mạng 1848 tại các nước Châu Âu, hoàng đế Nga âm mưu đeo 
đuổi một chính sách hung hăng hơn tại vùng Balkan. Nước Nga hy vọng trục lợi 
trên sự suy yếu của Đế quốc Ottoman, một cường quốc đã bị hoàng đế Nikolai I 
của Nga mệnh danh là "thực thể ốm yếu ở châu Âu", nhưng bị Anh và Pháp phản 
đối quyết liệt. 
Năm 1854, quân Nga vượt sông Danube tràn vào xâm chiếm lãnh thổ của Đế quốc 
Ottoman. Anh và Pháp tuyên chiến với Nga và gửi quân tới để bảo vệ Thổ.[21] 
Napoléon III - Hoàng đế Pháp (1852 - 1870) 
Tuy Anh và Pháp tuyên chiến với Nga vào ngày 28 tháng 3 năm 1854, xích mích 
giữa hai phe xảy ra từ cuộc đảo chính năm 1851 tại Pháp. Hoàng đế nước Pháp là 
Napoléon III lên ngôi và yêu cầu Đế quốc Ottoman phải công nhận Pháp có chủ 
quyền đối với vùng đất thánh (xứ Do Thái hay Israel ngày nay)[22]. 
Nga buộc Ottoman phải khước từ điều kiện của Pháp, đồng thời công nhận Nga là 
thế lực bảo vệ Công giáo tại Ottoman. Napoléon III lập tức đưa chiến hạm 
Charlemagne vào biển Ban Tích, coi thường hiệp ước hàng hải khu vực[23]. Sultan 
Ottoman là Abdul Mejid I theo Pháp, công nhận Pháp và Giáo hội Công giáo 
Rôma có quyền lực cao nhất của Công giáo trong vùng đất thánh, và là nước bảo 
hộ cho giáo dân khắp nơi. Quyền hành này trước đó thuộc Giáo hội Chính thống 
giáo Hy Lạp[24]. Hoàng đế Nikolai I đưa quân đoàn bộ binh số 4 và 5 ra sông 
Danube diễn binh dằn mặt và cho bộ trưởng ngoại giao là Công tước Karl 
Nesselrode sang điều đình với triều đình Ottoman. Tuy nhiên Nga cũng muốn hòa 
hoãn với Anh và Pháp, chủ ý rằng cuộc tranh cãi chỉ là giữa Nga và Ottoman, 
không liên hệ gì đến Anh và Pháp. Nga muốn ngầm tránh tạo cơ hội cho Anh và 
Pháp hợp binh nhau chống lại mình. 
Nikolai tiếp tục trấn an Tây Âu rằng Nga đã ngưng bành trướng, và vụ lộn xộn tại 
Đế quốc Ottoman chỉ là chuyện tôn giáo địa phương mà thôi. Kế đến, hoàng đế 
Nga gửi sứ giả Aleksandr Sergeyevich Menshikov sang Ottoman đòi ký hiệp ước 
riêng rằng nếu Sultan Abdul Mejid không đủ khả năng bảo vệ giáo hội và giáo dân 
Công giáo thì Nga có quyền vào giúp. Menshikov đi tàu lớn vào cảng Porte và lập 
tức kết tội Abdul Mejid là thông đồng với Pháp, và đòi thay đổi các nhân viên cao 
cấp trong chính quyền Ottoman. 
Lúc bấy giờ cố vấn ngoại giao Anh là Hugh Rose đang có mặt tại tòa đại sứ Anh 
tại kinh đô Constantinopolis. Ông thu nhận tin tình báo về quân Nga đang tụ tập 
dọc sông Danube và vấn đề Menshikov đặt ra ở cảng Porte. Rose liền truyền lệnh 
cho hạm đội Anh từ miền đông Địa Trung Hải kéo về hướng Constantinopolis. 
Tuy nhiên mệnh lệnh này bị đề đốc hạm đội Anh từ chối, do ông cho Rose không 
được lạm quyền. Chỉ có hải quân Pháp kéo đến giúp Ottoman. 
[ ] Những vụ xung đột đầu tiên 
Chiến hạm Nga bắn chìm tầu của quân Thổ Ottoman tại Sinope - Tranh Ivan 
Aivazovsky 
Thủ tướng Anh George Hamilton-Gordon gửi Stratford Canning sang khuyên 
sultan Abdul Mejid I của Ottoman bác bỏ hiệp ước với Nga. Khi hoàng đế Nga 
hay tin Menshikov làm hỏng chuyện liền viện cớ thay mặt sultan Ottoman để giải 
quyết vấn để tôn giáo, kéo quân vào vùng Moldavia và Wallachia thuộc miền 
đông châu Âu. Khu vực này tuy thuộc Ottoman nhưng với nhiều giáo dân Chính 
Thống giáo, lâu nay vẫn nằm dưới quyền bảo hộ của Nga. Hoàng đế Nga hy vọng 
những cường quốc châu Âu, nhất là Đế quốc Áo là nước láng giềng, sẽ không 
phản đối việc Nga xâm chiếm các lãnh thổ thuộc Ottoman này. Chính phủ Anh 
phản ứng đưa hạm đội tiếp ứng cho hải quân Pháp tại eo biển Dardanelles (đường 
biển nối biển Đen và Địa Trung Hải phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ). Thế lực quân sự châu 
Âu lúc này cũng đang mong hòa giải, chỉ biểu dương quân lực chứ chưa muốn gây 
chiến. Đại diện chính phủ 4 nước lớn Anh, Pháp, Áo và Phổ sau đó họp mặt tại 
Viên viết thư giảng hòa giữa Nga và Ottoman. Nga chấp thuận các điều kiện trong 
thư nhưng Ottoman từ chối. Khi Anh, Pháp và Áo đề nghị lại các điền kiện thì 
Nga lại phản đối. Tuy Áo và Phổ muốn tiếp tục thương lượng, Anh và Pháp cho 
rằng Nga ngoan cố. Sultan Abdul Mejid I, khi thấy thương lượng không xong bèn 
kéo quân ra đánh quân Nga đang đóng tại sông Danube. 
Ngày 30 tháng 11 năm 1853 hoàng đế Nikolai trả miếng đem chiến hạm đến bắn 
tan tành đoàn tàu chiến của Ottoman đang neo tại cảng Sinope (Thổ Nhĩ Kỳ). 
Hoàng đế Nga cũng không chịu rút quân ra khỏi hai lãnh thổ khu vực sông 
Danube. Pháp và Anh chính thức tuyên chiến với Nga để ủng hộ Ottoman. 
[ ] Cơ hội hòa giải 
Hoàng đế Nga nghĩ rằng Áo sẽ theo phe Nga, vì Nga đã từng giúp Áo đánh dẹp 
cuộc nổi dậy năm 1848. Nhưng Áo lại sợ Nga lợi dụng lấn quyền nên từ chối 
không theo, và cũng không hứa sẽ giữ thế trung lập. 
Anh và Pháp đưa ra 4 điều kiện hòa giải với Nga: 
1. Nga phải bỏ chủ quyền ở các lãnh thổ vùng sông Danube mà họ mới cưỡng 
chiếm. 
2. Nga phải bỏ các quyền bảo hộ với giáo dân Chính thống giáo trong 
Ottoman; 
3. Luật quy ước hàng hải năm 1841 phải được xem lại và đổi; 
4. Quốc gia nào cũng được quyền sử dụng sông Danube. 
Khi hoàng đế Nikolai I từ chối các điều kiện này, chiến tranh vùng Crimea bắt đầu. 
[ ] Chiến cuộc vùng Crimea 
[ ] Bao vây Sevastopol 
Sevastopol thất thủ 
Quân Pháp và Nga đánh giáp lá cà 
Ngày 17 tháng 10 năm 1854, quân Anh-Pháp đổ bộ lên bán đảo Crimea bao vây 
thủ phủ Sevastopol là căn cứ chính của hạm đội Đế quốc Nga tại Biển Đen với 
mục tiêu là ngăn chặn không cho chiến hạm Nga vào Địa Trung Hải. Trên đường 
tới Sevastopol liên quân gặp một đạo quân Nga đang đóng trên các điểm cao tại 
Alma và mau chóng đánh tan đạo quân này. Dù vậy chiến thắng ở Alma cho thấy 
Liên quân có ưu thế vượt trội về kỹ thuật hơn là kỷ luật hay tài thao lược.[25] 
Binh sĩ người Scotland của Anh đánh bại cuộc tấn công của kỵ binh Nga 
Trong nỗ lực giải vây cho Sevastopol, quân Nga mở cuộc tiến công lớn vào Liên 
quân tại Inkerman nhưng thất bại. Quân Nga chết và bị thương lên tới 12.000 so 
với 3.000 người của Liên quân.[26] Quân Nga phải huy động chiến thuyền, dùng 
pháo hải quân và cho thủy thủ chiến đấu như lính thủy đánh bộ. Quân đội Nga 
thiệt hại 4 chiến hạm lớn (3 tầng, 110 súng), 12 chiến hạm trung (2 tầng, 60 súng) 
và nhiều chiến thuyền nhỏ. Đề đốc Nga là Pavel Stepanovich Nakhimov bị bắn 
trúng đầu và chết ngày 30 tháng 6 năm 1855. Sevastopol thất thủ vào ngày 11 
tháng 9 năm 1855, sau gần 11 tháng bị bao vây. 
Cùng năm, quân Nga bao vây và chiếm đồn Kars của Ottoman. 
[ ] Chiến trường biển Ban Tích 
Những trận đánh ở Crimea được nói đến nhiều, trong khi chiến cuộc trên biển Ban 
Tích thường ít được nhắc tới mặc dầu xảy ra gần thủ đô Nga Sankt Peterburg. Lúc 
đầu các phe tham chiến bị lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Hải quân Nga tuy kém 
lực lượng nhưng lại đóng trú quanh những khu phòng thủ kiên cố như đồn 
Kronstadt. Bên kia thì Đề đốc Anh là Charles Napier và Đề đốc Pháp là Parseval-
Deschènes lại ngại tấn công, và chỉ có thể ngăn chặn các tàu buôn Nga và công 
kích các đồn phòng thủ nhỏ của Nga dọc bờ biển Phần Lan. Anh-Pháp tấn công và 
tiêu diệt đồn Bomarsund và Slava nhưng ở các đồn khác lại bị đánh bật ra. 
Bomarsund bị dội bom 
Trong những đợt tấn công này, quân Anh đốt phá hai vùng Oulu và Raahe và bị 
thế giới lên tiếng phản đối. Tin lan về đến Anh và nghị sĩ quốc hội Thomas Gibson 
đòi Hạ viện Anh hạch trách các đề đốc hải quân đang tham chiến về những hành 
động tàn phá tài sản của người dân vô tội. 
Ở Nga, kinh tế từ từ bị suy yếu vì buôn bán theo đường biển bị bế tắc, và quân 
Nga cũng do đó mà giảm sút tinh nhuệ. 
Mùa thu năm này, hạm đội Anh do chiến hạm Miranda dẫn đầu kéo từ biển Ban 
Tích ra biển Trắng và pháo kích hai tỉnh Kola và Solovki. Kola bị tàn phá hoàn 
toàn. Quân Anh tấn công Arkhangelsk nhưng thất bại. 
Năm 1855, hơn 1.000 đại bác của hải quân đồng minh Anh-Pháp bắn hơn 20 
nghìn viên pháo vào đồn phòng thủ Sveaborg của Nga gần Helsinki. Nhưng chỉ 
huy trưởng Nga Viktor Poplonsky đem tàu chiến Rossiya chặn giữ cửa biển, 
không cho quân Anh-Pháp vào. Trong khi đó quân Anh-Pháp phá mãi không xong, 
phải huy động thêm lực lượng để tấn công lần nữa nhưng chưa kịp thì chiến tranh 
chấm dứt. 
"Tu viện Solovetsky ở biển Trắng 
bị hải quân Hoàng gia Anh tấn công" 
Sức kháng cự của quân Nga phần lớn do khả năng sử dụng mìn ngầm trên biển tại 
Kronstadt và Sevastopol. Thủy lôi trong chiến thuật hải quân ngày nay có lẽ bắt 
đầu từ chiến tranh vùng Crimea[27]. 
[ ] Thái Bình Dương 
Tranh chấp giữa các đế quốc châu Âu cũng diễn ra ở Thái Bình Dương. Hạm đội 
Anh-Pháp do Đề đốc David Price và Febrier-Despointes chỉ huy bao vây đoàn tàu 
chiến Nga do Đề đốc Yevfimy Vasilyevich Putyatin chỉ huy tại Petropavlovsk 
thuộc bán đảo Kamchatka. Tháng 9 năm 1854, sau khi dùng súng từ chiếm hạm 
bắn nát thành phố, hơn 800 quân lính Anh-Pháp đổ bộ nhưng bị phản kích mãnh 
liệt và phải rút lui, chịu thiệt hại nặng nề. Đến mùa xuân năm 1855, quân Nga rút 
lui khi quân đồng mình đem tiếp viện đến tấn công lần nữa. 
[ ] Ý ủng hộ Đồng minh 
Trong khi hô hào phong trào thống nhất nước Ý, Camillo Benso nghe lời Victor 
Emmanuel II gởi quân lính theo ủng hộ Anh-Pháp. Mục đích của Camillo Benso là 
vuốt ve Pháp để tăng thế lực cho khu vực Piedmont của Ý, và qua đó có thể 
Piedmont được hội nhập vào nước Ý thống nhất. 
[ ] Chiến tranh kết thúc 
Đế quốc Ottoman mất phần lớn lãnh thổ (mầu vàng) sau các cuộc phân tranh 
1856-78 
Sau khi nhận được tin về thảm bại tại Sevastopol, Nga hoàng Nikolai I uống thuốc 
độc tự tử ngày 2 tháng 3 năm 1855, con trai là Aleksandr II lên thay. Sau khi 
Sevastopol thất thủ, Nga bắt đầu thương lượng hòa bình với phe đồng minh và ký 
hòa ước tại Paris năm 1856. Quy ước hàng hải giữa Nga và Ottoman định lại ranh 
giới chủ quyền vùng biển Đen. Nga phải chịu thiệt thòi vì hải quân Nga sẽ không 
còn khả năng kiểm soát khu biển như trước đó. Ngoài ra, theo hòa ước Paris Đế 
quốc Ottoman được các cường quốc châu Âu công nhận. 
[ ] Hậu quả 
Hóa ước Paris được tôn trọng đến năm 1871 thì Pháp bị Đế quốc Đức đánh bại 
(Chiến tranh Pháp-Phổ (1870-1871)), hoàng đế Pháp là Napoléon III bị truất phế 
và chính phủ Đệ tam Cộng hòa Pháp ra đời. 
Nga lợi dụng tình thế và dựa theo ủng hộ của thủ tướng Đức Otto von Bismarck 
tái thiết căn cứ hải quân Nga tại biển Đen, không tuân theo quy ước hàng hải đã ký 
tại Paris. 
Đế quốc Áo không theo Nga khi trước nay lại bị cô lập. Áo thua Phổ trong cuộc 
phân tranh Áo-Phổ năm 1866 và mất chủ quyền các lãnh thổ nói tiếng Đức. Áo 
sau đó phải phụ thuộc vào Phổ và trở thành một khu vực hành chính của Đức - tạo 
rắc rối sau này đưa đến Chiến tranh thế giới thứ nhất. 
[ ] Thiệt hại của đôi bên trong chiến tranh 
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm 
chứng thông tin. 
Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. 
Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài 
viết. 
Quốc gia 
Dân số 
năm 1853 
Quân 
đội 
Chết 
trận 
Bị 
thương 
Tử 
thương 
Chết 
bệnh 
Lý do 
khác 
Anh 21 350 000 97 864 2 755 18 253 1 847 17 225 775 
Pháp 36 070 000 
309 
268 
10 240 39 818 11 750 75 375 
Vương quốc 
Sardinia 
4 350 000 21 000 12 167 16 2 166 
Đế quốc 
Ottoman 
35 000 000 
165 
000 
10 000 10 800 24 500 
Tổng số 96 770 000 
593 
132 
23 007 24 413 119 266 
Nga 70 400 000 
888 
000 
24 731 81 247 15 971 88 775 13 225 
Tổng số 
167 170 
000 
1 481 
132 
47 738 40 384 208 041 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ls_phap_10__4424.pdf ls_phap_10__4424.pdf