ĐếchếLa Mã cai trịmột vùng lãnh thổto lớn, cùng với một lượng khổng lồvềtài 
nguyên thiên và con người. Vốn dĩ, nền kinhtếcủa La Mã chủyếu dựtrên nền 
tảng là nông nghiệpvà thương mại. Nông nghiệp phát triển kéo theo thương mại 
phát triển đã làm thay đổi bán đảoÝ, vào khoảng thếkỷthứnhất trước Công 
Nguyên, những người tiểu điền chủcó thểsởhữu những điền trang nho và ôliu 
rộng lớn. Những tiểu điền chủkhông đủkhảnăng gây bất ổn vềgiá cảbởi, Đếchế
La Mãđã sát nhập thêm Ai Cập, Siciliavà Tunisiatrởthành các chư hầu cung cấp 
sản vật. Hàng hóa xuất trởlại từ Romalà dầu ôliu và rượu vang.
Kỹnghệvà chếtạo đồdùng với mức hoạt động khá nhỏ, nhưng khá nhộn nhịp là
các công việc khai mỏvà khai thác đá xây dựng, tùy theo mức độxây dựng vào 
mỗi triều đại khác nhau. Mức độsản xuất chỉcó các xi nghiệp nhỏvới vài chục 
lao động. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất gạch xây dựng cũng có những xí 
nghiệp lên đến hàng trăm người.
Một sốnhà viết sử, như Peter Temin, mô tảsựphát triển kinh tếcủa thời kỳkhởi 
đầu của La Mã đã thúc đẩy các kỹnghệkhác và nghệthuật phát triển, đặc biệt ảnh 
hưởng mạnh mẽlên kinh tếthời Phục Hưngvà vềsau này của châu Âu.
              
                                            
                                
            
 
            
                 25 trang
25 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài thảo luận La Mã cổ đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
La Mã cổ đại 
Đế chế La Mã cổ đại thời Trajan (98-117) 
La Mã cổ đại hay Roma cổ đại là nền văn minh đã từng tồn tại ở châu Âu, Bắc 
Phi, và Trung Đông từ năm 753 TCN do người La Mã kiểm soát và sụp đổ vào 
năm 476. Trong nhiều thế kỉ, nó bao gồm toàn bộ Tây Âu và tất cả vùng lãnh thổ 
bao quanh biển Địa Trung Hải và một số vùng đất bao quanh Biển Đen. 
Mục lục 
 1 Lịch sử 
o 1.1 Thời kì Quân chủ 
o 1.2 Thời kì Cộng hoà 
o 1.3 Thời kì Đế quốc 
o 1.4 Sụp đổ 
 2 Xã hội 
o 2.1 Chính phủ 
o 2.2 Luật pháp 
o 2.3 Kinh tế 
o 2.4 Gia đình 
o 2.5 Các tầng lớp 
o 2.6 Cưới xin 
o 2.7 Giáo dục 
o 2.8 Sức khỏe 
 3 Kinh tế 
o 3.1 Tài chính 
o 3.2 Buôn bán 
 4 Văn hóa 
 5 Kĩ thuật 
 6 Nhân khẩu học 
 7 Chú thích 
 8 Tham khảo 
 9 Đọc thêm 
 10 Xem thêm 
 11 Liên kết ngoài 
[ ] Lịch sử 
[ ] Thời kì Quân chủ 
Thành phố Roma phát triển từ những khu định cư trên và xung quanh đồi Palatine, 
xấp xỉ mười tám dặm từ biển Tyrrhenia (một phần của biển Địa Trung Hải) trên 
dòng sông Tiber. Tại vị trí này sông Tiber có một hòn đảo mà ở đó có thể lội qua 
sông. Do dòng sông và chỗ cạn, Roma ở vị trí quyết định đối với giao thông và 
buôn bán. 
Trong truyền thuyết của người La Mã, Roma được xây dựng bởi Romulus vào 
ngày 21 tháng 4 năm 753 TCN. Romulus, người mà tên đã được coi là sinh ra tên 
của thành Roma, là người đầu tiên trong 7 vị vua của Roma mà người cuối cùng là 
Tarquin Kiêu hãnh bị phế truất vào năm 510 hay 509 TCN khi La Mã Cộng hoà 
được thiết lập. Những vị vua thần thoại hay bán thần thoại là (theo thứ tự thời 
gian): Romulus, Numa Pompilius (Vua hiền Numa), Tullus Hostilius, Ancus 
Marcius, Tarquinius Priscus, Servius Tullius, và Tarquinius Superbus (Tarquin 
Kiêu hãnh). 
[ ] Thời kì Cộng hoà 
Bài chi tiết: Cộng hòa La Mã 
Cộng hòa La Mã được thành lập vào năm 509 TCN, theo những tác giả về sau như 
Livy, khi nhà vua bị hạ bệ, và một hệ thống dựa trên những quan chức hành chính 
địa phương được bầu ra hằng năm. Quan trọng nhất là hai quan chấp chính tối cao, 
những người cùng nhau áp dụng quyền hành pháp, nhưng phải đấu tranh với Hội 
đồng Nguyên lão cứ lớn lên về qui mô và quyền lực cùng với lực lượng của nền 
Cộng hoà. Các chức vị quan toà lúc đầu chỉ được giới hạn cho quí tộc nhưng sau 
này được mở rộng cho cả người bình dân. 
Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý, chủ yếu liên 
quan đến những bộ tộc Ý khác (thuộc dòng Ấn-Âu) như người Samnite và Sabine, 
nhưng cũng có cả người Etrusca. Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã đến khi 
Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy Lạp, nhận được sự giúp đỡ của vua xứ Ipiros 
là Pyrros vào năm 282 TCN. 
Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc 
Chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc 
Macedonia và Đế chế Seleucid vào thế kỉ thứ 2 TCN, người La Mã trở thành 
những người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải. 
Xung đột nội bộ giờ đây trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội 
đồng Nguyên lão, khư khư giữ lấy quyền lực cho mình, liên tục phản đối những 
cải cách đất đai quan trọng. Một hậu quả không lường trước được từ cải cách quân 
sự của Gaius Marius là quân lính thường có lòng trung thành với người chỉ huy 
của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh như Marius, hay 
đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố và 
Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ. 
Vào giữa thế kỉ 1 TCN ba người, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus 
(Pompey) và Marcus Licinius Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức 
của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp ước bí mật được biết đến như là Chế 
độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ Pompey và 
Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp 
thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp 
chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền 
của Gaule để tự mình có được danh tiếng quân sự. 
Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt giữa 
Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực 
lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời 
sau khi từ chối tước hiệu quốc vương. Tuy nhiên, ông ta chiếm lấy quá nhiều 
quyền lực quá nhanh đối với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám sát trong một âm 
mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN. 
Một chế độ Tam hùng thứ hai, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định của 
Augustus và những cựu trợ thần Marcus Antonius và Marcus Aemilius Lepidus, 
lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu 
tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà, 
Augustus đánh bại Antonius tại trận chiến Actium vào năm 31 TCN và thôn tính 
những vùng lãnh thổ của Cleopatra, người vợ phương Đông của Antonius. 
Augustus giữ lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm 
một thu nhập để lấy lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực 
gần như tuyệt đối với tư cách là thống soái quân sư, người bảo vệ duy nhất của 
quần chúng, và quyền lực tối cao trên lãnh thổ La Mã, và lấy tên Augustus. Những 
xác lập hiến pháp trên (đã biến Roma từ một nước cộng hoà thành một đế quốc). 
Người kế vị được chỉ định của Augustus, Tiberius, lên nắm quyền mà không có 
cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự kháng cự), và như vậy đã hoàn 
thành công trình của ông. 
[ ] Thời kì Đế quốc 
Bài chi tiết: Đế quốc La Mã 
Xem thêm: Lịch sử đế chế La Mã 
Trong thời kì Đế quốc, biên giới đế chế tương đối ổn định vì người La Mã đã chế 
ngự được các cuộc nổi dậy, những kẻ lăm le quyền lợi đế quốc, những cuộc xâm 
lược của những "người man rợ" (barbarian) và những khó khăn khác. Để đối phó 
tốt hơn với nhiệm vụ giữ cả đế chế lại với nhau, các hoàng đế bắt đầu chỉ định các 
vị đồng hoàng đế (co-emperor), mặc dù điều này thường dẫn đến nội chiến. Sau 
năm 395 đế chế đã bắt đầu tách thành hai phần đông và tây. 
[ ] Sụp đổ 
Theo Edward Gibbon, Đế quốc La Mã đã không chống cự được cuộc xâm lược 
của người man rợ (barbarian) do sự mất lòng tin đối với các cư dân. Họ đã trở nên 
lười biếng và uỷ mị, giao phó nghĩa vụ bảo vệ Đế chế của họ cho bọn lính đánh 
thuê người dã man. Vai trò của lực lượng quân đội người dã man trở nên dày đặc 
và ăn sâu đến nỗi họ có thể dễ dàng vượt mặt Đế chế. Những người La Mã, 
Gibbon nói, đã trở thành ẻo lả như phụ nữ và không muốn sống theo kiểu quân sự. 
Thêm vào đó, Gibbon cũng ám chỉ vai trò của Thiên chúa giáo trong sự sụp đổ của 
Roma. Thiên chúa giáo, ông nói, đã tạo ra niềm tin vào một thế giới khác và gợi ý 
rằng có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau cái chết. Điều này cổ vũ sự thờ ơ giữa 
những công dân La Mã tin rằng họ sẽ có một cuộc sống tốt hơn sau khi họ chết, do 
đó huỷ hoại ý muốn của họ về việc duy trì và hi sinh cho đế chế. Thêm nữa, sự nổi 
lên của Thiên chúa giáo cũng tạo ra một sự xác định tư hữu quan trọng hơn nhà 
nước, làm thu nhỏ hơn mong muốn đưa những nhu cầu của nhà nước lên trên của 
bản thân. Giải thích này được nhìn nhận với thái độ hoài nghi bởi đế chế chỉ bị tan 
rã ở phía Tây, trong khi ở phía Đông, Đế chế vẫn tiếp tục như là Đế chế Byzantine 
ở Phương Đông. Tuy nhiên, mọi người điều đồng ý rằng sự suy tàn và sụp đổ của 
Đế chế La Mã rất phức tạp không chỉ có một nguyên nhân. 
Các nhà sử học ngày nay đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau cho sự sụp đổ của 
đế chế phía tây: việc nhiễm độc chì các thùng rượu, bệnh dịch, sự mục nát chính 
trị, văn hóa đô thị không còn sức sáng tạo, và việc dịch chuyển dịch vụ quân sự 
cho người nước ngoài và người ở ven đế quốc. 
Trong Đế quốc La Mã, từ "người dã man" chỉ bất cứ ai không phải là một công 
dân La Mã, và được áp dụng chủ yếu cho những bộ tộc Bắc Âu ngoài tầm ảnh 
hưởng của nền văn hoá Roma. 
[ ] Xã hội 
Hệ thống dẫn nước đế chế La Mã 
Cuộc sống của các cư dân La Mã cổ đại được xác định quanh các thành phố như 
thành phố Roma. Thành phố có một số lượng khổng lồ các công trình xây dựng 
như là Colosseum, quảng trường của hoàng đế Trajan và đền thờ các vị thần 
(Pantheon). Trên thành phố Roma cổ có các vòi nước uống tươi mát được cung 
cấp thường xuyên bởi những hệ thống dẫn nước dài hàng trăm dặm, các rạp hát, 
khu thể thao lớn, tổ hợp các phòng tắm phức hợp với thư viện và khu mua sắm, 
khu chợ lớn, cùng với các khu vực sản xuất hàng hóa. Trên lãnh thổ của La Mã, 
các kiến trúc về nhà ở rất đa dạng, từ những căn nhà đơn giản cho đến các biệt thự 
quý tộc. Bên trong thủ đô Roma của La Mã cổ đại, là nơi ở của hoàng đế nằm ở 
trên ngọn đồi thoáng mát, Palatene, có lẽ từ palace bắt nguồn từ đây. Các tầng lớp 
cư dân từ trung xuống thấp, sống trong thành phố thì sống trong những căn hộ 
nhiều người, trông giống như nhiều khu dân cư thời hiện nay. 
[ ] Chính phủ 
Thời kỳ đầu, Roma được điều hành bởi các vị vua được bầu chọn. Các yêu cầu về 
năng lực của vua chưa được rõ ràng; ông ta có thể nắm giữ quyền lực gần như độc 
đoán, hoặc chỉ đơn thuần như một thủ tướng của nghị viện và dân tộc. Ít nhất trong 
lực lượng quân đội, quyền uy của nhà vua là tuyệt đối. Hơn nữa, vua cũng là lãnh 
tụ tôn giáo. Để tăng thêm quyền lực của vua, có ba bộ phận hành chính: Nghị viện 
là nơi tham vấn chính cho vua; Hội đồng Curiata có thể ủng hộ và phê chuẩn các 
luật lệ mà vua đề xuất; Hội đồng Calata là tập hợp các lãnh đạo tôn giáo của dân 
chúng nhằm chứng thực hành động đúng, lắng nghe thông cáo và biểu thị sự hăng 
hái và lên kế hoạch cho ngày hội của tháng tiếp theo. 
Phòng họp của Nghị viện La Mã 
Sự cạnh tranh quyền lực của nền cộng hòa La Mã thể hiện một cách cai trị đặc sắc 
của một thể chế chính trị dân chủ. Truyền thống pháp luật La Mã chỉ được thông 
qua bởi sự bỏ phiếu tín nhiệm của nhân dân (Hội đồng Tributa). Tương tự vậy, 
ứng cử viên cho chức vụ công thì phải thực hiện bầu cử của dân chúng. Tuy nhiên, 
Nghị viện La Mã được xem như là nơi tập trung cao nhất của quyền lực, tập hợp 
các cố vấn chính. Nền Cộng hòa La Mã nắm giữ quyền lực to lớn (auctoritas), 
nhưng thực tế lại không có quyền làm luật; nó được hiểu như là một nhóm cố vấn. 
Tuy nhiên, giống Nghị viện, bản thân các nghị viên là những cá nhân rất có thế lực, 
gây khó khăn rất lớn cho các quyết định chung của Nghị viện. Một nghị viên mới 
phải được chọn trong rất nhiều gia đình quyền thế bởi nhân viên kiểm duyệt 
(censura), người mà có quyền loại bỏ một nghị viên khỏi Nghị viện, nếu phát hiện 
thấy nghị viên nào có biểu hiện "mất phẩm chất"; lý do để thay đổi có thể bao gồm 
cả tội hối lộ (đút lót), hay theo như luật dưới thời Cato Già thì một nghị sĩ bị buộc 
phải sa thải khi ôm vợ người khác ở chốn công đường. 
[ ] Luật pháp 
Bài chi tiết: Luật pháp La Mã 
Nguồn gốc của điều cơ bản luật pháp và thực tiễn của La Mã có thể chỉ ra luật của 
12 chương mục (từ 449 TCN) cho đến những luật lệ của Hoàng dế Justinian I 
(khoảng 530). Luật pháp của La Mã như là các luật lệ của Justinian, bởi vì nó là cơ 
sở lý luận và thực tiễn trong thời kỳ Đế chế Byzantine và trong lục địa Tây Âu, và 
được tiếp tục ở các thời kỳ về sau, cho đến tận thời kỳ thế kỷ 18 của rất nhiều 
quốc gia. 
Luật pháp của La Mã gồm 3 phần chính: 
 Ius Civile, hay "công luật", áp dụng cho tất cả công dân La Mã và chức vị 
Praetor Urbanus có trách nhiệm áp dụng luật này, 
 Ius Gentium, hay "luật quốc tế", áp dụng cho tất cả các người ngoại quốc 
trong các trường hợp họ tiếp xúc với các công dân La Mã và chức vị 
Praetor Peregrinus có trách nhiệm áp dụng luật này, và 
 Ius Naturale, hay "luật tự nhiên", bao gồm tất cả các luật trong tự nhiên và 
được xem như áp dụng cho tất cả mọi người. 
[ ] Kinh tế 
Đồng tiền bằng bạc của Roma 
Đế chế La Mã cai trị một vùng lãnh thổ to lớn, cùng với một lượng khổng lồ về tài 
nguyên thiên và con người. Vốn dĩ, nền kinh tế của La Mã chủ yếu dự trên nền 
tảng là nông nghiệp và thương mại. Nông nghiệp phát triển kéo theo thương mại 
phát triển đã làm thay đổi bán đảo Ý, vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công 
Nguyên, những người tiểu điền chủ có thể sở hữu những điền trang nho và ôliu 
rộng lớn. Những tiểu điền chủ không đủ khả năng gây bất ổn về giá cả bởi, Đế chế 
La Mã đã sát nhập thêm Ai Cập, Sicilia và Tunisia trở thành các chư hầu cung cấp 
sản vật. Hàng hóa xuất trở lại từ Roma là dầu ôliu và rượu vang. 
Kỹ nghệ và chế tạo đồ dùng với mức hoạt động khá nhỏ, nhưng khá nhộn nhịp là 
các công việc khai mỏ và khai thác đá xây dựng, tùy theo mức độ xây dựng vào 
mỗi triều đại khác nhau. Mức độ sản xuất chỉ có các xi nghiệp nhỏ với vài chục 
lao động. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất gạch xây dựng cũng có những xí 
nghiệp lên đến hàng trăm người. 
Một số nhà viết sử, như Peter Temin, mô tả sự phát triển kinh tế của thời kỳ khởi 
đầu của La Mã đã thúc đẩy các kỹ nghệ khác và nghệ thuật phát triển, đặc biệt ảnh 
hưởng mạnh mẽ lên kinh tế thời Phục Hưng và về sau này của châu Âu. 
[ ] Gia đình 
Một người đàn ông La Mã trong trang phục đặc trưng toga 
Đơn vị cơ bản của xã hội La Mã là các "tiểu lâu đài" (household) và gia đình 
(familiy). Tiểu lâu đài bao gồm người đứng đầu, cha (người bố của gia đình), mẹ, 
các trẻ em, và những người có quan hệ khác. Ở tầng lớp cao hơn, thì nô lệ và đầy 
tớ luôn luôn là bộ phận của "tiểu lâu đài". Người đứng đầu tiểu lâu đài có một 
quyền lực rất lớn với những người sống cùng với ông ta: ông ta có thể quyết định 
cưới hay tách ly (ly hôn), bán trẻ làm nô lệ, yêu sách về tài sản, có quyền định đoạt 
cuộc sống của thành viên dưới quyền[1]. 
Patria potestas là một khái niệm mở rộng với những người đàn ông (con trai 
trưởng thành) đối với lâu đài của ông ta sinh sống. Người con gái, bắt buộc phải 
chịu sự điều hành và cai quản của gia đình bên chồng mình[2]. 
Tập hợp của các tiểu lâu đài có liên hệ tạo nên một gia đình (gens)[3]. Gia đình 
luôn là nền tảng trên quan hệ huyết thống (hoặc con nuôi được thừa nhận), nhưng 
thực chất chính là liên minh về quản trị và kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ Cộng 
Hòa Roman, có một số gia đình siêu quyền thế, thường tham gia vào công việc 
chính trị của đế chế. 
Dưới thời La Mã việc sử dụng các đám cưới được xem trọng như một hình thức 
củng cố hoặc tìm kiếm mối liên kết về đồng minh hơn là sự lãng mạn của tình yêu, 
đặc biệt đối với gia cấp quyền thế. Người cha luôn có ý tìm chồng cho con gái của 
mình khi cô con gái bước vào tuổi từ 12 đến 14 tuổi. Người chồng luôn được gặp 
gỡ thường xuyên với cô dâu trước ngày cưới. Trong khi, những người con gái của 
gia đình quyền thế có xu hướng lấy chồng sớm, thì con gái của tầng lớp dưới 
thường kết hôn muộn hơn[4]. 
[ ] Các tầng lớp 
Những cư dân La Mã tự do được chia thành 2 tầng lớp: quí tộc và người bình dân. 
Quí tộc là tầng lớp thống trị. Ban đầu, chỉ có họ mới có thể được bầu vào các chức 
vị. Việc lấy nhau giữa các tầng lớp bị cấm và danh hiệu quí tộc chỉ có thể được 
thừa kế chứ không được nhận. Dưới nền Cộng hoà La Mã, một loạt những đấu 
tranh dẫn tới việc người bình dân được hưởng những quyền bình đẳng hoặc gần 
như bình đẳng. 
Cuối thời kì Cộng hoà, sự phân biệt giữa quí tộc và người bình dân bắt đầu mất đi 
ý nghĩa của nó. Một tầng lớp cai trị mới, gọi là quý nhân, là những gia đình, quý 
tộc hay người bình dân, đã sản ra một quan chấp chính tối cao. Trong thời kì Đế 
quốc, sự phân chia giai cấp bị bỏ và bị hầu hết mọi người quên lãng. 
Đầu thời kì Cộng hoà, những công dân còn bị chia thành các tầng lớp dựa vào vũ 
khí mà họ có thể mua được cho nghĩa vụ quân sự. Tầng lớp giàu nhất là những 
người cưỡi ngựa hoặc kị sĩ, những người có thể mua được một con ngựa chiến. Có 
cả người cưỡi ngựa là quí tộc và người bình dân. Sau này nước Cộng hoà đã cố 
định lượng tài sản được thay bằng quân trang như cơ sở của sự phân chia giai cấp. 
Những tầng lớp trên có nhiều quyền lực và uy tín chính trị hơn những tầng lớp 
dưới. Hệ thống này cũng mất đi ý nghĩa của nó sau sự bãi bỏ của nền Cộng hoà. 
[ ] Cưới xin 
Đối với tầng lớp thượng lưu La Mã, người cha thường bắt đầu tìm người chồng 
cho con gái của mình khi con gái họ vào khoảng 12-14 tuổi. Người chồng có thể 
lớn hơn cô dâu khoảng hai tuổi hay thậm chí gấp ba lần tuổi cô ta. Thường là các 
cô không hoặc ít phản đối - mặc dù có bằng chứng rằng một số cô gái có quyền 
chọn chồng cho mình (con gái và vợ Cicero tự ý tìm chồng cho cô). Trong khi 
tầng lớp thượng lưu cưới lúc còn rất trẻ, có bằng chứng cho thấy phụ nữ thuộc 
tầng lớp hạ lưu - thường cưới muộn hơn vào vào khoảng độ tuổi mười mấy, đầu 
hai mươi. Cưới xin đối với họ không mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và chính trị 
trong thế giới chính trị La Mã cắt cổ, vì thế không việc gì phải vội. Bạn bè và gia 
đình tham dự lễ dạm hỏi trước lễ cưới. Tại buổi lễ này người cha được hỏi liệu 
ông có hứa gả con gái mình ("cô dâu") và thường thì phải trả lời là có. Cô dâu 
tương lai sau đó sẽ được nhận các món quà cười trong đó có một chiếc nhẫn để 
đeo vào ngón giữa, mà nhiều người tin rằng tại đấy có dây thần kinh nối thẳng với 
tim. 
[ ] Giáo dục 
Mục tiêu của nền giáo dục ở Roma là làm cho các học sinh trở thành những nhà 
hùng biện có ảnh hưởng lớn. Trường học khai giảng vào ngày 24 tháng 3 hằng 
năm. Mỗi ngày học bắt đầu vào sáng sớm và kéo dài đến hết buổi chiều. Thông 
thường, những đứa trẻ được dạy đọc và viết bởi cha của chúng. Về sau, khoảng 
200 năm TCN, những đứa bé trai và gái được gửi đến trường khi chúng được 
khoảng 6 tuổi. Nền giáo dục cơ bản của Roma bao gồm đọc, viết, và đếm, và 
những vật dụng bao gồm những cuộn giấy da và sách. Ở tuổi 13, học sinh học về 
văn học Hi Lạp và La Mã và cả phần ngữ pháp. Ở tuổi 16, một số học sinh vào 
học ở trường hùng biện. Những người nghèo hơn thương được dạy ở nhà bởi 
người cha bởi vì trường học không phải là miễn phí. 
[ ] Sức khỏe 
Đa số người La Mã tắm tại các nhà tắm công cộng hay nhà tắm tư hằng ngày, 
không chỉ vì sạch sẽ mà còn vì lí do xã hội. 
[ ] Kinh tế 
Nền kinh tế thời kì đầu phụ thuộc vào lực lượng lao động nô lệ, và nô lệ chiếm 
khoảng 20 phần trăm dân số. Giá của 1 nô lệ phụ thuộc vào kĩ năng của họ, và một 
nô lệ có huấn luyện y khoa tương đương với 50 nô lệ làm nông nghiệp. Vào các 
thời kỳ sau, việc thuê sức lao động trở nên kinh tế hơn là sở hữu nô lệ. 
[ ] Tài chính 
Mặc dù việc đổi hàng lấy hàng là thông dụng (và thường được sử dụng trong việc 
thu thuế) hệ thống tiền tệ đã phát triển ở mức độ cao, với tiền xu bằng đồng thau, 
đồng thiếc và kim loại quý được lưu thông xuyên suốt đế chế và ra ngoài biên giới 
(một vài đồng đã được phát hiện ở Ấn Độ). 
[ ] Buôn bán 
Ngựa thì quá đắt, và những súc vật thồ khác thì quá chậm cho buôn bán lớn trên 
những con đường của người La Mã dùng để nối giữa những bốt quân sự hơn là 
chợ và hiếm khi được thiết kế để dùng bánh xe. Do đó có rất ít vận chuyển hàng 
hoá giữa các vùng của La Mã, cho đến sự nổi lên của nền buôn bán bằng đường 
thuỷ của người La Mã vào thế kỉ thứ 2 TCN. Nền buôn bán nông nghiệp tự do đã 
thay đổi cảnh quan của của Ý, và đến thế kỉ 1 TCN những điền trang nho và oliu 
rộng lớn đã thế chỗ những nông dân tiểu canh, những người đã không thể địch 
được với giá ngũ cốc nhập khẩu. Khối lượng buôn bán lớn đến nỗi chỉ một đụn 
những đồ chứa bằng gốm chưa hoàn tất đã cao tới hơn 40 mét và có chu vi tới 1 
kilômét. 
[ ] Văn hóa 
Bài chi tiết: Văn minh La Mã cổ đại 
Roma đã sản sinh ra nhiều nhà văn và nhà viết kịch. Rất nhiều tác phẩm văn học 
viết bởi các tác giả Roma trong thời kì đầu của nền Cộng hoà có tính chất chính trị 
hoặc trào phúng. Đặc biệt những kết cấu tu từ của Cicero rất được ưa chuộng. Một 
vài trong số những vở kịch được ưa thích nhất ở thời kì đầu của nền Cộng hoà là 
những vở hài kịch, đặc biệt là những vở của Terence, một nô lệ La Mã đã được trả 
tự do bị bắt trong cuộc chiến Punic thứ nhất. 
[ ] Kĩ thuật 
Thời kì này La Mã cũng đã có những đóng góp quan trọng về kĩ thuật cho sự phát 
triển của nền văn minh thế giới: 
1.CHế tạo thủy tinh(khoảng thế kỉ đầu trước công nguyên) 
2.Sử dụng chì 
3.Khai thác than 
4.Chế tạo xi-măng. 
-Họ cũng là những người đầu tiên biết đặt các thiết bị như guồng ước nhằm lợi 
dụng thủy năng và chế tạo ra thuyền buồm. 
[ ] Nhân khẩu học 
Dân số từ thế kỷ 6 TCN đến thế kỷ 1 CN . 
Bản đồ đế quốc Roma năm 400 
Điều tra Dân số Khủng hoảng kinh tế Chiến tranh Dịch bệnh 
508 TCN 130.000 
 505-504 TCN 
503 TCN 120.000 
 499 or 496 TCN 
498 TCN 150.700 
493 TCN 110.000 
 492-491 TCN 
 486 TCN 
474 TCN 103.000 474 TCN 474 TCN 
465 TCN 104.714 
459 TCN 117.319 
 456 TCN 
 454 TCN 454 TCN 
 440-439 TCN 
 433 TCN 433 TCN 
 428 TCN 428 TCN 
 412 TCN 412 TCN 
 400 TCN 
 396 TCN 
392 TCN 152.573 392 TCN 392 TCN 
 390 TCN 390 TCN 
 386 TCN 
 383 TCN 383 TCN 
 343-341 TCN 
340 TCN 165.000 340-338 TCN 
 326-304 TCN 
323 TCN 150.000 
 299 TCN 
 298-290 TCN 
294 TCN 262.321 
 293/292 TCN 
289 TCN 27.200 
 281 TCN 
280 TCN 287.222 280-275 TCN 
276 TCN 271.224 276 TCN? 
265 TCN 292.234 
 264-241 TCN 
252 TCN 297.797 
 250 TCN 250 TCN 
247 TCN 241.712 
241 TCN 260.000 
234 TCN 270.713 
 216 TCN 216 TCN 
 211-210 TCN 211-210 TCN 
209 TCN 137.108 
204 TCN 214.000 204 TCN 
 203 TCN 
 201 TCN 
 200 TCN 200-195 TCN 
194 TCN 143.704 
 192-188 TCN 
189 TCN 258.318 
 187 TCN 
 182-180 TCN 
179 TCN 258.318 
 176-175 TCN 
174 TCN 269.015 
 171-167 TCN 
169 TCN 312.805 
 165 TCN 
164 TCN 337.022 
159 TCN 328.316 
154 TCN 324.000 
 153 TCN 
147 TCN 322.000 
142 TCN 322.442 142 TCN 
 138 TCN 
136 TCN 317.933 
131 TCN 318.823 
125 TCN 394.736 
 123 TCN 
115 TCN 394.336 
 104 TCN 
 87 TCN 
86 TCN 463.000 
 75 TCN 
70 TCN 910.000 
 67 TCN 
 65 TCN 
 54 TCN 
 49-46 TCN 
 43 TCN 
28 4.063.000 
 23-22 23-22 
8 4.233.000 
 5-6 
 10 
14 4.937.000 
[ ] Chú thích 
1. ^ tuy nhiên gần đây vẫn còn bàn cãi về điều này 
2. ^ Đôi khi vẫn có ngoại lệ, do quyền thế của gia đình mình mà được đối xử 
tương đối tốt 
3. ^ Ở Á Đông gọi là một họ 
4. ^ Scullard 1982, chapters I-IV 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 lich_su_52__9187.pdf lich_su_52__9187.pdf