Các tác giả báo cáo 20 trường hợp cắt thận bán phần để điều trị ung 
thư thận khu trú để điều trị ung thư thận khu trú tại bệnh viện Chợ Rẫy và 
bệnh viện Đại học Y Dược. 
Kết qủa: 9 bệnh nhân nam và 11 bệnh nhân nữ. Có 6 trường hợp 
bướu phát hiện tình cờ qua kiểm tra sức khỏe định kỳ, 5 trường hợp tiểu 
máu. 3 trường hợp tiểu máu kèm đau hông lưng, 2 trường hợp đau và sờ 
được khối u hông lưng, 4 trường hợp chỉ có đau hông lưng đơn thuần. 
Đường kính trung bình của bướu là 4,2±1,2 cm (3,4-5,8 cm). Vị trí bướu ở 
thận: 8 trường hợp bướu ở cực dưới, 6 trường hợp bướu giữa thận, 6 trường 
hợp bướu ở cực trên. Giải phẫu bệnh lý: 16 trường hợp carcinoma tế bào 
sáng, 3 trường hợp carcinoma dạng nhú, 1 trường hợp carcinoma không xếp 
loại. Theo dõi được 16 trường hợp, thời gian theo dõi trung bình 28 tháng 
(2-46 tháng). Biến chứng chu phẫu: 1 trường hợp rò động mạch-tĩnh mạch 
trong chủ mô thận. 1 trường hợp tái phát tại chỗ, 1 trường hợp có dicăn xa. 
Kết luận: nếu đánh giá chính xác giai đoạn của bướu thận còn khu 
ttrú trước mổ, cắt thận bán phần là phẫu thuật an tòan, hiệu quả để điều trị 
ung thư thận khu trú.
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Báo cáo Kết quả bước đầu cắt thận bán phần để điều trị ung thư thận khu trú, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CẮT THẬN BÁN PHẦN 
ĐỂ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THẬN KHU TRÚ 
TÓM TẮT 
Các tác giả báo cáo 20 trường hợp cắt thận bán phần để điều trị ung 
thư thận khu trú để điều trị ung thư thận khu trú tại bệnh viện Chợ Rẫy và 
bệnh viện Đại học Y Dược. 
Kết qủa: 9 bệnh nhân nam và 11 bệnh nhân nữ. Có 6 trường hợp 
bướu phát hiện tình cờ qua kiểm tra sức khỏe định kỳ, 5 trường hợp tiểu 
máu. 3 trường hợp tiểu máu kèm đau hông lưng, 2 trường hợp đau và sờ 
được khối u hông lưng, 4 trường hợp chỉ có đau hông lưng đơn thuần. 
Đường kính trung bình của bướu là 4,2±1,2 cm (3,4- 5,8 cm). Vị trí bướu ở 
thận: 8 trường hợp bướu ở cực dưới, 6 trường hợp bướu giữa thận, 6 trường 
hợp bướu ở cực trên. Giải phẫu bệnh lý: 16 trường hợp carcinoma tế bào 
sáng, 3 trường hợp carcinoma dạng nhú, 1 trường hợp carcinoma không xếp 
loại. Theo dõi được 16 trường hợp, thời gian theo dõi trung bình 28 tháng 
(2- 46 tháng). Biến chứng chu phẫu: 1 trường hợp rò động mạch- tĩnh mạch 
trong chủ mô thận. 1 trường hợp tái phát tại chỗ, 1 trường hợp có di căn xa. 
Kết luận: nếu đánh giá chính xác giai đoạn của bướu thận còn khu 
ttrú trước mổ, cắt thận bán phần là phẫu thuật an tòan, hiệu quả để điều trị 
ung thư thận khu trú. 
ABSTRACT 
Objective: Nephron Sparing Surgery is becoming more widely 
accepted as alternative treatment for small renal cell carcinoma. To analyze 
its value in tumor control and its complication rate a prospective study was 
done. 
Materials and Methodes: A total of 20 patients underwent nephron 
sparing surgery which the presence of a normal contralateral kidney. The 
patients were followed every 3 months, 6 months. Mean fowllowup is 28 
months. 
Results: 20 patients, 9 male and 11 female. Mean size of the tumors is 
4,2 ±1,2cm (3,4- 5,8 cm). One patients had FAV intrparenchymatous. One 
patient had local reccurence, one patient had metastasis. 
Conclusions: nephron sparing surgery is more challenging than 
radical nephrectomy and, therefore, can be more complicated. The selection 
of suitable candidates is the key to success. Many patients can benefit from 
nephronsparing surgery for small easily resectable renal cell carcinoma even 
in presence of a normal contralateral kidney. 
MỞ ĐẦU 
Cắt thận bán phần để điều trị ung thư thận khu trú được Czermy thực 
hiệu lần đầu năm 1887, đến nay đã trở nên phương thức điều trị được chọn 
lựa đối với các tường hợp ung thư thận còn khu trú (0). Lúc đầu, phẫu thuật 
này chỉ thực hiện ở những trường hợp cần bảo tồn tối đa chức năng thận như 
ung thư thận hai bên, ung thư trên thận độc nhất, ung thư mà thận còn lại 
kém chứ năng hoặc có bệnh đe dọa chức năng thận, Về sau, nhờ vào các 
thành công về mặt kỹ thuật và kết quả lâu dài mà dần cắt thận bán phần 
được thực hiện ở các trường hợp ung thư thận còn khu trú ngay cả khi chức 
năng thận đối bên hòan tòan bình thường (0). Nhờ các tiến bộ của hình ảnh 
học y khoa, ung thư thận ngày càng được phát hiện sớm ở giai đoạn bướu 
còn khu trú. Các trường hợp này cắt thận bán phần có nhiều ưu điểm vì phẫu 
thuật vừa đảm bảo được các nguyên tắc phẫu thuật trong ung thư, vừa bảo 
tồn được một phần chức năng của thận mang bướu (0). Trên cơ sở những lý 
luận vừa nêu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để đánh giá tính khả thi 
của phẫu thuật về mức độ an toàn trong kỹ thuật cũng như về theo dõi ung 
thư lâu dài. 
BỆNH NHÂN - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tại khoa Niệu bệnh viện Chợ Rẫy 
và bệnh viện Đại học Y Dược từ 2/2003 đến 12/ 2006. 
Các bệnh nhân được chẩn đóan bướu thận khu trú, đường kính nhỏ 
hơn 6cm, không có dấu hiệu xâm lấn hoặc di căn, qua các xét nghiệm hình 
ảnh học như siêu âm, UIV, CT scan, chụp động mạch chọn lọc xóa nền 
(DSA) 
Các phẫu thuật được thực hiện tùy theo vị trí của bướu bao gồm: cắt 
một cực thận, cắt thận hình chêm có hoặc không kèm theo kẹp động mạch 
thận. không có trường hợp nào làm lạnh thận trong khi phẫu thuật. 
Trong lúc phẫu thuật, sinh thiết lạnh phần thận còn lại trong 10 trường 
hợp. 
Sau phẫu thuật, bệnh nhân được chụp UIV, trước khi xuất viện hoặc 3 
tháng sau. Theo dõi bằng cách ghi nhận tình trạng thận đã mổ, thận đối bên, 
hạch sau phúc mạc qua siêu âm bụng, tổng phân tích nước tiểu mỗi 3 tháng, 
6 tháng. Chụp X quang phổi mỗi 6 tháng. Trường hợp nghi ngờ có tái phát 
tại chỗ, chúng tôi kiểm tra bằng chụp CT scan. 
KẾT QUẢ 
Từ 2/2003 đến tháng 12/2006, có 20 bệnh nhân được cắt thận bán 
phần với chẩn đoán ung thư thận khu trú tại khoa Niệu bệnh viện Chợ Rẫy 
và bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. Các yếu tố liên quan đến 
bệnh nhân được mô tả trong bảng 1. Các yếu tố về chẩn đóan, điều trị và kết 
quả điều trị được mô tả trong bảng 2, 3: 
Bảng 1: Các yếu tố về bệnh nhân 
Nam 9 trường hợp, nữ 11 trường hợp. Tuổi trung bình 47 ± 11 (thay 
đổi từ 28- 62 tuổi) 
Tuổi 
 20- 40 
 41- 60 
 >60 
8 trường 
hợp 
9 trường 
hợp 
3 trường 
hợp 
Bảng 2: Các yếu tố về chẩn đoán 
Lâm sàng 
 Phát hiện tình 
cờ 
6 trường 
hợp 
 Tiểu máu 
 Tiểu máu kèm 
đau hông lưng 
 Khối u hông 
lưng 
 Đau hông lưng 
đơn thuần 
 Tam chứng cổ 
điển 
5 trường 
hợp 
3 trường 
hợp 
2 trường 
hợp 
4 trường 
hợp 
Không có 
Siêu âm bụng 
 Khối écho kém 
 Khối écho dày 
 Khối écho hỗn 
hợp 
2 trường 
hợp 
10 trường 
hợp 
8 trường 
hợp 
UIV 
 Không biến 
dạng đài bể thận 
 Khối chóan chỗ 
cực dưới thận 
 Khối chóan chỗ 
cực trên thận 
 Khối choán chỗ 
giữa thận 
8 trường 
hợp 
6 trường 
hợp 
4 trường 
hợp 
2 trường 
hợp 
CT scan 
 Đường kính 
bướu trung bình 
 Đường viền rõ 
 Đậm độ bướu 
đồng nhất 
 Đậm độ bướu 
không đồng nhất 
 Mức độ tăng cản 
quang mạnh 
4,2± 
1,2cm (3,4- 
5,8cm) 
20 trường 
hợp 
1 trường 
hợp 
19 trường 
hợp 
 Mức độ tăng cản 
quang vừa 
 Bướu không 
tăng cản quang 
7 trường 
hợp 
8 trường 
hợp 
5 trường 
hợp 
Kết quả giải 
phẫu bệnh 
 Carcinoma tế 
bào sáng 
 Carcinoma tế 
bào thận dạng nhú 
 Carcinoma 
không xếp loại 
16 trường 
hợp 
3 trường 
hợp 
1 trường 
hợp 
Bảng 3: Các yếu tố về phẫu thuật và theo dõi bệnh nhân 
Phẫu thuật 
 Cắt cực dưới thận 
8 
 Cắt cực trên thận 
 Cắt thận hình chêm 
trường hợp 
6 
trường hợp 
6 
trường hợp 
Thời gian mổ 
 < 60 phút 
 60- 90 phút 
 >90 phút 
11 
trường hợp 
7 
trường hợp 
2 
trường hợp 
Lượng máu mát 
tromg khi mổ 
 < 100 ml 
 100- 300ml 
 >300 ml 
2 
trường hợp 
17 
trường hợp 
1 
trường hợp 
Thời gian hậu phẫu 
 < 5 ngày 
 5- 7 ngày 
 8 ngày 
2 
trường hợp 
6 
trường hợp 
8 
trường hợp 
Thời gian theo dõi 
 2- 12 tháng 
 12- 24 tháng 
 > 24 tháng 
6 
trường hợp 
4 
trường hợp 
2 
trường hợp 
Tái phát tại chỗ (16 1 
tháng sau mổ) trường hợp 
Di căn xa (18 tháng 
sau mổ) 
1 
trường hợp 
BÀN LUẬN 
Phát hiện bướu thận ở giai đoạn còn khu trú 
Nhờ các tiến bộ về hình ảnh học, bướu thận ngày càng được phát hiện 
sớm, ở giai đoạn còn khu trú. Trong năm 2002, tại bệnh viện Chợ Rẫy có 62 
trường hợp bướu thận nhập viện chỉ có 28 trường hợp còn chỉ định phẫu 
thuật (45%). Trong năm 2003, có 75 trường hợp nhập viện, có 40 trường 
hợp còn chỉ định phẫu thuật (51%), trong đó có 10 trường hợp bướu còn khu 
trú (12,8%) 
Trong số 20 bệnh nhân của chúng tôi, có 6 trường hợp hòan toàn 
không có triệu chứng, chỉ phát hiện tình cờ qua siêu âm kiểm tra sức khỏe 
định kỳ (33%). Không trường hợp nào có đủ tam chứng cổ điển của bướu 
thận. Các tình huống phát hiện bệnh thường là tiểu máu hoặc tiểu máu kết 
hợp với đau lưng. Xét nghiện hình ảnh được sử dụng ban đầu như một 
phương tiện tầm soát là siêu âm bụng. Để quyết định và lựa chọn phương 
pháp phẫuu thuật các xét nghiệm hình ảnh học khác như chụp điện tóan cắt 
lớp (CT scan), chụp điện tóan cắt lớp đa mặt cắt, cộng hưởng tù, chụp động 
mạch chọn lọc xóa nền(0). Chụp điện tóan cát lớp cho phép phân biệt rõ các 
tổn thương ở thận, nhất là khi sử dụng chụp điện tóan cắt lớp đa mặt cắt(0). 
So sánh kích thước của bướu khi mổ cắt thận bán phần với kích thước của 
bướu đo trên chụp cắt lớp điện tóan, Herr nhận xét đối với các bướu thận có 
đường kính 3,5- 6 cm, kích thước thật của bướu thường nhỏ hơn kích thứớc 
đo được trên cắt lớp điện tóan, sự chênh lệch này không quá 0,63 cm(0). 
Theo Herr cắt lớp điện tóan là phương tiện rất tốt để tiên lượng được các 
trường hợp còn có khả năng cắt thận bán phần(0) 
Kỹ thuật cắt thận bán phần 
Pahernik cho rằng phẫu thuật cắt thận bán phần để điều trị ung thư 
thận có thể thực hiện có hoặc không có kèm theo kẹp các mạch máu cuống 
thận(0). Bệnh nhân được đặt nằm nghiêng có kê billot ở bụng như các trường 
hợp mổ thận thông thường. Có thể sử dụng đường mổ dưới sườn, đường cổ 
điển hoặc đường mổ trước bên ngòai phúc mạc. Cắt thận bán phần còn có 
thể thực hiện qua nội soi ổ bụng hoặc nội soi sau phúc mạc(0). Pahernik sử 
dụng polyglactin (Vicryl®) hoặc polycolic acid coated (Safil®) 4/0 để khâu 
cầm máu điểm, 6/0 để khâu lại hệ thống đài bể thận (nếu có tổn thương), 
polydioxanone (PDS®)4/0 hoa#c 3/0 để khâu lại vỏ bao thận(0). Nếu bướu ở 
giữa thận, cắt bướu theo hình chêm (hình 1,2). 
Đường rạch chủ mô thận cách ranh giới bướu nhìn thấy 4-6 mmm 
theo hình tròn hoặc hình ellipse (hình 3,4). Trong trường hợp có kẹp cuống 
thận thì trước kẹp cuống thận 20 phút tiêm tĩnh mạch 20 mg Furosemide(0). 
Nếu có thương tổn hệ thống đài bể thận thì khâu lại. Sau khi khâu cầm máu 
điểm khâu chủ mô và vỏ bao thận ép lại (hình 5,6). Safarik áp dụng hình 
thức khâu thận hình túi để cầm máu, kết quả rất tốt (hình 6)(0). 
Trườn hợp bướu ở một cực của thận, phẫu thuật dễ dàng hơn và ít khi 
làm thương tổn hệ thống đài bể thận. Có thể thực hiện cắt thận mà không cần 
kẹp các mạch máu thận (hình 7,8). ho# la#m no#ng (hình 5,6). Sau khi khâu 
cầm máu điểm, khâu ép lại chủ mô thận bằng cách đặt mô mỡ quanh thận dưới 
vỏ bao thận. Trường hợp bị mất vỉ bao thận nhiều khôn thể khâu ép lại có thể 
dùng một mesh bằng polyglycolic acid khâu xung quanh thận thành hình túi để 
cầm máu (hình 9, 10). 
Hình 1, 2: Cắt thận bán phần khi bướu ở giữa thận 
Hình 3, 4: đường rạch chủ mô thận hình tròn hoặc hình ellipse 
Hình 5: khâu lại chủ mô thận sau khi khâu cầm máu điểm 
Hình 6:khâu lại chủ mô thận sau khi khâu cầm máu điểm 
Hình 7: Cắt thận bán phần 
trường hợp bướu ở một cực của thận 
Hình 8: cắt thận bán phần trường hợp bướu ở một cực của thận 
Hình 9, 10: khâu lại chủ mô thận cực dưới sau khi cầm máu điểm và 
khâu mssh hình túi quanh thận trong trường hợp thận bị mất vỏ bao nặng 
Chúng tôi có 8 trường hợp bướu ở cực dưới thận, 6 trường hợp bướu 
ở giữ thận và 6 trường hợp bướu ở cực trên thận. Có 10 trường hợp không 
kẹp cuống thận, 6 trường hợp bướu ở cực dưới, 2 trường hợp bướu giữa 
thận, 2 trường hợp bướu cực trên. Các trường hợp có kẹp động mạch thận 
tạm thời, thời gian thiếu máu nóng trung bình 10 phút. Trường hợp bướu 
thận ở cực trên và giữa thận, nên kẹp cuống thận vì bướu nằm ở sâu, cao, có 
kẹp cuống sẽ hạn chế chảy máu, thao tác dễ dàng hơn. 
Chỉ định cắt thận bán phần ở những trường hợp chức năng thận 
đối bên bình thường 
Novick nghiên cứu 315 trường hợp cắt thận bán phần do bướu thận 
khu trú mà chức năng thận đối bên có chức năng bình thường ghi nhận tỷ lệ 
sống sau 3 năm theo dõi là 95% và tỷ lệ tái phát tại chỗ là 0,63%(0), Lerner(0) 
và Hafer(0) so sánh ngẫu nhiên đồng nhất giữa hai nhóm cắt thận rộng và cắt 
thận bán phần theo dõi trong 5 năm thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về tỷ lệ sống đặc hiệu của ung thư (100 so với 97%), về tỷ lệ tái 
phát tại chỗ (5,7% so với 4,5%), về chức năng thận, creatinin trung bình là 
4,3mg/L cho cả 2 nhóm). Kết quả trên được ghi nhận ở nhóm bệnh nhân 
được lựa chọn như sau 
-Bướu khu trú ở giai đoạn T1,T2, N0, M0, bất kể vị trí bướu 
-Độ biệt hóa tế bào tốt đến trung bình 
Biến chứng trong, sau mổ và theo dõi bệnh nhân 
Corman nhận thấy tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ cắt thận bán 
phần do ung thư thận khu trú không khác với tỷ lệ của cắt thận rộng(0). So 
sánh giữa 373 trường hợp cắt thận rộng và 512 trườn hợp cắt thận bán phần, 
Corman ghi nhận tỷ lệ tử vong trong phẫu thuật cắt thận rộng là 2%, trong 
cắt thận bán phần là 1,6%. Tỷ lệ biến chứng cú cắt thận rộng: 15%, cắt thận 
bán phần 16,2%. Cácc biến chứng ghi nhận bao gồm: suy thận tiến triển, suy 
thận cấp, rối lọan đông máu, chảy máu vết mổ, thuyên tắc tĩnh mạch sâu, liệt 
ruột kéo dài.... Nhóm bệnh nhân của chúng tôi không có trường hợp nào tử 
vong. Có 1 trường hợp rò động mạch- tĩnh mạch trong chủ mô thận gây tiểu 
máu sau mổ 2 tuần, phải mổ lại cắt thận. 
Theo dõi 114 bệnh nhân cắt thận bán phần do ung thư trong vòng 80 
tháng, Zigeneur kết luận cắt thận bán phần cho kết quả điều trị ung thư thận 
rất tốt. Việc theo dõi lâu dài bao gồm siêu âm thận và tổng phân tích nước 
tiểu mỗi 6 tháng, chụp X quang tim phổi, CT scan bụng, phổi mỗi năm một 
lần để phát hiện sớm các trường hợp tái phát tại chỗ hoặc có di căn(0). Thời 
gian theo dõi trung bình của chúng tôi là 28 tháng (2- 46 tháng), có 1 bệnh 
nhân tái phát tại chỗ (sau 16 tháng) và 1 trường hợp có di căn hạch ổ bụng 
và di căn phổi sau 18 tháng. 
KẾT LUẬN 
Cắt thận bán phần là phẫu thuật có thể thực hiện được an tòan, hiệu quả 
để điều trị ung thư thận còn khu trú. Tỷ lệ biến chứng và tỷ lệ tái phát tại chỗ 
thấp. Tuy nhiên muốn đạt được kết quả tốt cần chọn lựa bệnh nhân cẩn thận, 
đánh giá chính xác giai đoạn bướu. Chỉ thực hiện cắt thận bán phần ở những 
trường hợp bướu thận có đường kính nhỏ hơn 6 cm, còn khu trú trong vỏ bọc, 
không có chồi trong tĩnh mạch thận, không có di căn hạch hoặc di căn xa. 
Trong lúc phẫu thuật phải lấy hết bướu, phần chủ mô thận quanh bướu 4-6mm. 
có sinh thiết biên chắn phẫu thuật để bảo đảm biên chắn phẫu thuật không còn 
tế bào ung thư. Nhiều tác giả đề cập đến cắt thận bán để điều trị ung thư thận 
qua nội soi ổ bụng hoặc nội soi sau phúc mạc cho kết quả đáng khích lệ(0) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 272_3222.pdf 272_3222.pdf