Tìm hiểu về hình dung xã hội về một cá nhân được cho là phát triển “tốt/ổn”
về mặt cảm xúc là một hướng nghiên cứu quan trọng trong việc kết nối vấn
đề cảm xúc và văn hóa. Tuy nhiên, do hướng tiếp cận này vẫn còn rất mới
mẻ ở Việt Nam, nghiên cứu bước đầu này được xây dựng để tìm hiểu hình
dung xã hội về đặc điểm của trẻ vị thành niên được cho là phát triển “tốt/
ổn” về mặt cảm xúc tại một số địa phương ở Việt Nam. Đây là một nghiên
cứu định tính được triển khai dựa trên những cuộc phỏng vấn bán cấu trúc
với 44 người trưởng thành ở ba địa phương (TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và
Cần Thơ). Người tham gia được mời gọi mô tả một trẻ vị thành niên (12-18
tuổi) mà họ từng quen biết được chính họ đánh giá là “ổn về mặt cảm xúc”.
Kết quả cho thấy năng lực trong mối quan hệ, khả năng điều chỉnh cảm xúc
và khả năng thiết lập ranh giới trong-ngoài là những yếu tố trung tâm trong
hình dung về trẻ vị thành niên “ổn về mặt cảm xúc” tại Việt Nam. Các yếu
tố gia đình, nhất là phong cách nuôi dạy của cha mẹ, được nhắc đến thường
xuyên nhất đối với quá trình xây dựng năng lực cảm xúc của vị thành niên.
Những kết quả thu được cũng như những tồn tại về phương pháp nghiên
cứu trong nghiên cứu bước đầu này giúp đưa ra những gợi ý quan trọng cho
những đề tài về hình dung xã hội về cảm xúc có quy mô lớn hơn tại Việt
Nam sau này.
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: Thục Anh | Lượt xem: 609 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Bước đầu phác họa hình dung xã hội của người trưởng thành về trẻ vị thành niên “Ổn về mặt cảm xúc” tại một số địa phương ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n 
trong một số mô hình năng lực của xúc hiện đại, ví dụ như mô hình của 
Mikolajczak và cộng sự (2009). Điều này có thể cho thấy một trẻ vị thành 
niên, dù là người Việt Nam hay phương Tây, có khả năng điều chỉnh cảm 
xúc hiệu quả và thể hiện bản thân hòa hợp trong các mối quan hệ xã hội 
đều có thể có nhiều khả năng được những người xung quanh đánh giá là 
“ổn về mặt cảm xúc”. Bên cạnh đó, một số tiêu chí/đặc điểm về mặt cảm 
xúc ở trẻ vị thành niên vốn không hoặc chưa được ghi nhận trong các mô 
hình tư liệu về năng lực hoặc trí tuệ cảm xúc trước đây được ghi nhận 
trong dữ liệu thu thập được trong nghiên cứu bước đầu này tại Việt Nam, 
ví dụ như đặc điểm về “ranh giới giữa bên trong và bên ngoài”. Giới hạn 
này bao gồm cả cấp độ mối quan hệ (những người có quan hệ thân thiết 
và những người xa lạ) và nội tâm (nhận thức về giới hạn của sự thân thiết). 
Trên bình diện lý thuyết, việc tranh luận về bản chất xã hội và/hoặc cảm 
xúc của đặc điểm này có thể được tiếp diễn. Dù vậy đây là một điểm cần 
lưu ý trong những nghiên cứu tiếp theo có quy mô lớn hơn để kiểm chứng 
liệu đây có phải là một nét đặc trưng trong hình dung xã hội về chân dung 
cảm xúc ở trẻ vị thành niên tại Việt Nam và/hoặc các nước Á Đông khác 
hay không. Giả thuyết này cũng có thể giải thích cho sự xuất hiện của các 
năng lực trí tuệ trong hình dung về trẻ vị thành niên có năng lực cảm xúc 
tốt. Thoạt nhìn, sự xuất hiện này là đáng ngạc nhiên vì cảm xúc và trí tuệ 
rất khác nhau về bản chất và không liên kết với nhau một cách có hệ thống 
(Brasseur, 2013). Tuy nhiên, dựa vào nguyên tắc đặc trưng của việc xây 
dựng hình dung xã hội (Jodelet, 2003; Moscovici, 2000), mối liên hệ giữa 
các năng lực trí tuệ và hình dung về trẻ vị thành niên “ổn về mặt cảm xúc” 
có thể được hiểu như sau: năng lực trí tuệ có thể được xem như một thuộc 
tính thường xuyên gắn liền với hình ảnh về một người có năng lực cảm xúc 
tốt chứ không hẳn là một thành phần của hình dung về các năng lực cảm 
xúc. Nói cách khác, trong hình dung của người trưởng thành ở Việt Nam, 
trẻ vị thành niên được cho là “ổn về mặt cảm xúc” có thể cũng là là trẻ có 
năng lực trí tuệ cao, nhưng những năng lực trí tuệ này không thể giải thích 
được các năng lực cảm xúc mà trẻ đang có.
Kết quả thu được về hình dung của người trưởng thành về trẻ vị thành 
niên “ổn về mặt cảm xúc” trong nghiên cứu này cũng có thể được làm sáng 
393
tỏ bằng góc nhìn tâm lý phát triển cảm xúc. Đã trải qua quá trình nội tâm 
hóa các chiến lược điều chỉnh cảm xúc và kinh qua nhiều trải nghiệm cảm 
xúc trong những giai đoạn trước đó, trẻ vị thành niên dần phân biệt rõ hơn 
ranh giới giữa việc biểu hiện cảm xúc chân thực trong những môi trường 
thân mật và những cảm xúc mang tính quy ước trong những liên kết xã hội 
ít thân thiết hơn. Điều này phù hợp với giả thuyết của một số tác giả trước 
đây (Holodynski, & Friedlmeier, 2006; Denham, 2006). Từ góc nhìn này, 
sự ưu tiên của giới hạn bên trong-bên ngoài, khả năng điều chỉnh cảm xúc 
và các năng lực trong mối quan hệ có thể được hiểu rõ hơn. Cuối cùng, kết 
quả nghiên cứu bước đầu cũng cho thấy rằng đa số người trưởng thành 
được phỏng vấn đề cao tầm quan trọng của các yếu tố giáo dục gia đình và 
vòng kết nối bạn bè của trẻ vị thành niên trong sự phát triển, xây dựng đời 
sống cảm xúc nói chung.
Nghiên cứu sơ bộ này cũng có những hạn chế nhất định. Thứ nhất, 
nguyên tắc chọn mẫu không ngẫu nhiên và sử dụng hình thức trực tuyến 
để thực hiện phỏng vấn nghiên cứu có thể ảnh hưởng đến chất lượng của 
dữ liệu thu thập được. Cụ thể, tầng lớp trí thức và/hoặc trung lưu thành thị 
dễ tiếp cận với thông tin nghiên cứu so với những người trưởng thành làm 
việc trong các lĩnh vực khác hoặc có trình độ văn hóa khác, từ đó khiến cho 
mẫu tham gia không thể mang tính đại diện cho dân số Việt Nam trưởng 
thành. Ngoài ra, quy mô cỡ mẫu trong nghiên cứu này hiện chưa lớn và 
còn có nhiều chênh lệch đáng kể về các biến nhân khẩu học như tỷ lệ giới 
tính (nữ nhiều hơn nam) hoặc trình độ văn hóa (đa số đều đã tốt nghiệp 
trung học phổ thông). Vì thế, trong những nghiên cứu xa hơn trong tương 
lai, việc lưu ý đến quy mô cỡ mẫu lớn hơn và đa dạng hơn về thành phần 
nhân khẩu học (đối tượng nam giới, đa dạng vùng miền, nghề nghiệp, 
trình độ văn hóa) là điều rất cần thiết để có thể xây dựng được hình 
dung chung của người trưởng thành tại Việt Nam về hình ảnh trẻ vị thành 
niên lý tưởng về mặt cảm xúc.
V. KẾT LUẬN
Những kết quả trong nghiên cứu sơ bộ này bước đầu cho thấy cách 
hình dung của một số người trưởng thành tại Việt Nam về một trẻ vị thành 
niên được đánh giá là “ổn về mặt cảm xúc” trong môi trường sống xung 
394
quanh họ. Theo đó, năng lực trong mối quan hệ, khả năng điều chỉnh cảm 
xúc và khả năng thiết lập ranh giới trong-ngoài là những yếu tố trung tâm 
trong hình dung xã hội về trẻ vị thành niên “ổn về mặt cảm xúc” tại Việt 
Nam. Bên cạnh đó, các yếu tố gia đình, nhất là phong cách nuôi dạy của 
cha mẹ, được nhắc đến thường xuyên nhất đối với quá trình xây dựng 
năng lực cảm xúc của vị thành niên. Những ghi nhận về kết quả cũng như 
những hạn chế (nhất là cỡ mẫu và thành phần mẫu) từ nghiên cứu này sẽ 
là bước đầu để những nghiên cứu cùng chủ đề sau này đạt được sự thông 
hiểu sâu rộng hơn về hình dung đặc trưng của người Việt Nam về đời sống 
cảm xúc của trẻ vị thành niên nói riêng và những độ tuổi khác nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abric, J. C. (1994). Pratiques sociales et représentations. Presses Universitaires de 
France.
Brasseur, S. (2013). “Étude du fonctionnement des compétences émotionnelles chez 
les jeunes à haut potentiel intellectuel” (Doctoral dissertation, Université 
Catholique de Louvain).
Denham, S. A. (2005). Assessing social‐emotional development in children from 
a longitudinal perspective for the National Children’s Study. Battelle 
Memorial Institute.
Degenne, A., & Vergès, P. (1973). Introduction à l’analyse de similitude. Revue 
française de sociologie, 14(4), 471-511. 
Durbrow, E., Alampay, L., Masten, A., Sesma, A., & Williamson, I. (2001). 
Mothers’ conceptions of child competence in contexts of poverty: The 
Philippines, St Vincent, and the United States. International Journal of 
Behavioral Development, 25, 438-443. 
Ekman, P., & Friesen, W. V. (1971). Constants across cultures in the face and 
emotion. Journal of Personality and Social Psychology, 17, 124-129.
Esnard, C. (1998). Les représentations sociales du handicap mental chez les 
professionnels médico-sociaux. Revue européenne du Handicap mental, 
5(19). 10-23.
Friedlmeier, W., Corapci, F., & Cole, P. M. (2011). Emotion Socialization in 
Cross‐Cultural Perspective. Social and Personality Psychology Compass, 5, 
410-427. 
Halberstadt, A, & Lozada, F. (2011). Emotion Development in Infancy through 
the Lens of Culture. Emotion Review, 3(2), 158-168. 
395
Holodynski, M., & Friedlmeier, W. (2006). Development of emotions and emotion 
regulation. Springer.
Jodelet, D. (2003). Représentations sociales: un domaine en expansion. In Les 
représentations sociales. Presses Universitaires de France.
Mikolajczak, M. (2009). Going beyond the ability-trait debate: The three-level 
model of emotional intelligence. E-Journal of Applied Psychology, 5(2), 
25-31.
Miyake, K., Chen, S.-J., & Campos, J. J. (1985). Infant temperament, mother’s mode 
of interaction, and attachment in Japan: An interim report. Monographs of 
the Society for Research in Child Development, 50(1-2), 276-297. 
Moscovici, S. (2000). Social Representations. Polity Press.
Trommsdorff, G., Cole, P. M., & Heikamp, T. (2012). Cultural Variations in 
Mothers’ Intuitive Theories: A Preliminary Report on Interviewing Mothers 
from Five Nations about Their Socialization of Children’s Emotions. Global 
Studies of Childhood, 2(2), 158-169. 
Trương, T. K. H., & Nguyễn, T. T. V. (2015). Trí tuệ cảm xúc và các mối quan hệ. 
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Khoa học xã hội và nhân văn, 
1(31).
Vergès, P., & Bouriche, B. (2001). L’analyse des données par les graphes de 
similitude. Tham khảo ngày 13/06/2021, https://www.scienceshumaines.
com/textesInedits/Bouriche.pdf
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 buoc_dau_phac_hoa_hinh_dung_xa_hoi_cua_nguoi_truong_thanh_ve.pdf buoc_dau_phac_hoa_hinh_dung_xa_hoi_cua_nguoi_truong_thanh_ve.pdf