Chuyên đề Tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng

Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước. Ngân hàng là nơi tích tụ, tập trung vốn, khơi dậy và động viên các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế. Vì muốn thực hiện mục tiêu tăng sản lượng quốc dân và tránh được sự giảm sút và tăng trưởng kinh tế thì phải có lượng vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên để huy động được khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế lại là một thách thức lớn đòi hỏi các NHTM phải có cách thức huy động vốn phong phú và linh hoạt.

Xuất phát từ tầm quan trọng của vốn đối với nền kinh tế nói chung và đối với hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng nói riêng vận dụng kiến thức đã được học vào thực tế và sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng em hiểu rõ hơn về hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng, em lựa chọn đề tài “Tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng “để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là để làm rõ vấn đề công tác huy động vốn, trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác huy động vốn để thấy kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác huy động vốn để có giải pháp phù hợp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề tài “Tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng ” được trình bày trong ba chương :

Chương I : Hoạt động huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường.

Chương II : Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng.

Chương III : Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng

 

doc67 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước. Ngân hàng là nơi tích tụ, tập trung vốn, khơi dậy và động viên các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế. Vì muốn thực hiện mục tiêu tăng sản lượng quốc dân và tránh được sự giảm sút và tăng trưởng kinh tế thì phải có lượng vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên để huy động được khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế lại là một thách thức lớn đòi hỏi các NHTM phải có cách thức huy động vốn phong phú và linh hoạt. Xuất phát từ tầm quan trọng của vốn đối với nền kinh tế nói chung và đối với hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng nói riêng vận dụng kiến thức đã được học vào thực tế và sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng em hiểu rõ hơn về hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng, em lựa chọn đề tài “Tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng “để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là để làm rõ vấn đề công tác huy động vốn, trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác huy động vốn để thấy kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác huy động vốn để có giải pháp phù hợp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng. Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề tài “Tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng ” được trình bày trong ba chương : Chương I : Hoạt động huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Chương II : Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng. Chương III : Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng Chương I : HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM. I.Các hoạt động chủ yếu của NHTM 1. Kh¸i niÖm NHTM : Có rất nhiều khái niệm được đưa ra để định nghĩa NHTM - NHTM là một trong các tổ chức tài chính quan trung gian kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu của nó là tiếp nhận những khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với trách nhiệm hoàn trả sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp tư nhân và các nhà xuất khẩu. - NH là một lĩnh vực không thể thiếu của mỗi quốc gia có thể nói ngành Ngân Hàng ra đời là sự kết tinh của nền sản xuất hàng hoá. Chính Ngân Hàng là động lực thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển. - NHTM là loại hình Ngân Hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu. Đối với các doanh nghiệp Ngân Hàng là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho các khoản mua hàng hoá dịch vụ. - Ngân Hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Ngân Hàng đóng vai trò người thủ quỹ của xã hội vì vậy có thể nói Ngân Hàng là một trong những tổ chức tài chính trung gian quan trọng. Ngân Hàng giống các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động với mục đích thu lợi nhuận nhưng nó là tổ chức đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là tiền tệ trong đó hoạt động tín dung là đặc trưng chủ yếu được thực hiện bằng cách thu hút vốn trong xã hội để cho vay . Vậy để đưa ra một định nghĩa về NHTM người ta phải dựa vào tính chất, mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Theo luật Ngân Hàng Pháp năm 1941 thì Ngân Hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu tín dụng hay dịch vụ tài chính. Mặc dù có nhiều cách đưa ra định nghĩa về Ngân Hàng nhưng chúng ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có một đặc điểm chung đó là việc nhận tiền ký thác tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn để phục vụ việc cho vay chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của Ngân Hàng. 2. Các hoạt động cơ bản của NHTM trong nền kinh tế. Từ khi mới đi vào hoạt động đến nay hoạt động chủ yếu của các NHTM là huy động vốn, cho vay - đầu tư, hoạt động tín dụng …là các hoạt động tạo nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng 2.1.Hoạt động huy động vốn: đây là hoạt động khởi đầu của NHTM nhằm tăng lượng vốn cho Ngân hàng mình vì vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt động kinh doanh. Ngoài lượng vốn ban đầu NHTM cần phải chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong quá trình hoạt động của mình. a. Nhận tiền gửi: tiền gửi là số tiền khách hàng gửi tại các tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. - Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán): là các khoản tiền gửi của khách hàng mà thời gian gửi tiền không được xác định. Đây là tài khoản mà người mở được quyền sủ dụng các công cụ thanh toán của Ngân hàng để phục vụ cho hoạt động của mình như UNC, Séc, thư chuyển tiền…đây là những khoản tiền gửi có thể phát Séc, tài khoản tiền gửi có thể thanh toán theo yêu cầu. Người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào để trả cho người thứ ba với mục đích sử dụng chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng nên mức lãi suất Ngân hàng trả cho người gửi tiền rất thấp thậm chí không trả. Nguồn huy động vốn từ tài khoản này nhiều hay ít là do số lượng khách hàng mở tài khoản vào Ngân hàng, quy mô hoạt động của từng khách hàng và lãi suất chất lượng dịch vụ của Ngân hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn: là tiền gửi đầu kỳ của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào Ngân hàng và rút ra sau một khoảng thời gian nhất định. Đây là khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân có thu nhập tạm thời chưa sử dụng trong một khoảng thời gian xác định dưới hình thức ký thác có kỳ hạn. Loại tiền gửi này chỉ rút ra khi đến hạn nếu rút ra trước sẽ được hưởng lãi suất không kỳ hạn. - Tiền gửi tiết kiệm: đây là khoản tiền để dành của các cá nhân dược gửi vào Ngân hàng nhằm mục đích bảo toàn và sinh lời với các khoản tiền gửi và hưởng lãi suất theo định kỳ. Người gửi tiết kiệm có sổ xác định rõ thời gian và thời hạn trả lãi đã thoả thuận. Hiện nay để thu hút được nguồn tiền gửi này Ngân hàng thường đưa ra những hình thức huy động vốn đa dạng như: tiết kiệm bằng VNĐ, bằng vàng, bằng ngoại tệ…với mức lãi suất cạnh tranh và nhiều kỳ hạn để khách hàng lựa chọn. Nguồn tiền gửi tiết kiệm là nguồn có chi phí cao xong lại an toàn cho Ngân hàng khi dem cho vay. Họ biết được kỳ hạn rút ra nên tránh được rủi ro thanh toán và tăng khả năng sinh lời cho Ngân hàng. Đối với nguồn tiền này Ngân hàng nên chú ý đến công cụ lãi suất và cần có mức lãi suất thích hợp cho người gửi. - Tiền gửi của các Ngân hàng khác: đây là nguồn tiền có quy mô nhỏ. Giữa các Ngân hàng thwờng có tiền gửi của nhau với mục đích là để đảm bảo thanh toán thuận tiện phục vụ lợi ích cho khách hàng của mình. b . Phát hành các giấy tờ có giá: khi được thống đốc Ngân Hàng chấp thuận tổ chức tín dụng phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. 2.2. Hoạt động cho vay và đàu tư: là hình thức cấp tín dụng. Theo đó NHNo&PTNT Việt Nam giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sủ dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. NHTM là nơi cho vay, thoả thuận với khách hàng về phương thức cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay và khả năng kiểm tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay. Với phương châm “đi vay để cho vay “ những năm qua NHTM đã thực hiện và triển khai mở rộng tín dụng đạt tốc độ khá sâu rộng, đẩy mạnh công tác cho vay trung và dài hạn theo định hướng của NHNo&PTNT Hà Nội đồng thời tranh thủ vận dụng nguồn vốn cho vay uỷ thác, gỉải ngân quay vòng…Hiện nay Ngân hàng đang áp dụng các hình thức cho vay sau: Cho vay từng lần: được áp dụng đối với các khách hàng có nhu cầu vay vốn từng lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ tín dụng với NHNo. Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển, sản xuất kinh doanh phục vụ và các dự án đời sống. Cho vay hợp vốn (đồng tài trợ): là phương thức cho vay mà Ngân hàng cuùngcho vay một nhóm các tổ chức tín dụng đối với một dự án hoặc phương án vay vốn của khách hàng trong đó Ngân hàng đứng ra làm đầu mối dàn xếp phối hợp các tổ chúc tín dụng khác. Cho vay trả góp: là phương thức cho vay mà Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số tiền, lãi cho vay phải trả + số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn cho vay . Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: là việc Ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng trong đó Ngân hàng cam kết đáp ứng nguồn vốn cho khách hàng trong thời gian đã cam kết. 2.3. Hoạt động thanh toán: trong nền kinh tế hiện nay cùng với sự rộng khắp của việc không dùng tiền mặt do yêu cầu của kinh tế thị trường thì khi nền kinh tế phát triển khối lượng giao dịch ngày càng lớn. Do đó cần có những phương thức thanh toán nhanh và thuận tiện, an toàn tiết kiệm, giảm chi phí kịp thời phục vụ nhu cầu của khách hàng và Ngân hàng. Hiện nay Ngân hàng đã có những phương thức thanh toán sau: - Chuyển khoản: là việc Ngân hàng trích tiền của khách hàng để đưa vào các khoản thu ( ví dụ như công ty điện lực, bưu chính viễn thông…) - Thanh toán bù trừ. - Thanh toán chuyển tiền điện tử. - Thanh toán liên Ngân hàng. 2.4. Các hoạt động khác: ngoài các hoạt động trên NHTM còn có các hoạt động khác như tình hình kinh doanh ngoại tệ. II . Vốn của NHTM. 1. Khái niệm vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng là những giá trị tiền tệ được NHTM tạo lập và huy động để sử dụng cho họat động kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau. Ngân Hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM – đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của NHTM. Biểu hiện của vốn trong kinh doanh Ngân Hàng chủ yếu bằng tiền vốn của Ngân Hàng có thể thuộc quyền sở hữu của Ngân Hàng hoặc vay từ bên ngoài. Vì vậy Ngân Hàng có trách nhiệm đối với các cổ đông và khách hàng. Vốn của Ngân Hàng khi sử dụng kinh doanh chủ yếu để tài trợ cho việc thiếu hụt tạm thời của khách hàng và việc sử dụng vốn phải đáp ứng được yêu cầu của Ngân Hàng đó là tăng lợi nhuận và an toàn. 2. Các nguồn vốn của Ngân Hàng. Vốn của NHTM bao gồm : vốn chủ sở hữu, nguồn tiền gửi, nguồn đi vay và các nguồn khác. 2.1. Vốn chủ sở hữu. Để Ngân Hàng đi vào hoạt động yêu cầu đặt ra đốivới chủ Ngân Hàng là phải có một lượng vốn nhất định vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của Ngân Hàng. Đây là loại vốn Ngân Hàng có thể sử dụng lâu dài hình thành lên trang thiết bị nhà cửa cho Ngân Hàng. Tùy theo tính chất hoạt động của mỗi Ngân Hàng mà có nhiều nguồn hình thành khác nhau. Nếu là Ngân Hàng thuộc sở hữu Nhà Nước do ngân sách Nhà Nước cấp nếu là Ngân Hàng cổ phần do các cổ đông góp thông qua việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu Ngân Hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng góp. Trong quá trình hoạt động của mình vốn chủ sở hữu của Ngân Hàng có thể được bổ sung thêm từ nhiều nguồn khác như : bổ sung từ lợi nhuận phát hành thêm cổ phiếu, định giá lại tài sản hay quỹ phòng ngừa bù đắp tổn thất tín dụng do xuất phát từ đặc điểm của NHTM khi thực hiện cho vay thường xảy ra các trường hợp khó có thể thu hồi được vốn nên Ngân Hàng lấy từ nguồn này để bù đắp các rủi ro đó. Ngoài ra Ngân Hàng còn có rất nhiều quỹ như : quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư… các quỹ này thuộc sở hữu của Ngân Hàng. Vậy vốn chủ sở hữu của Ngân Hàng là một trong những căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của Ngân Hàng. Nó có tính chất thường xuyên, ổn định và được coi là tài sản đảm bảo của Ngân Hàng đối với khách hàng và căn cứ để duy trì khả năng thanh toán đối với khách hàng trong trường hợp Ngân Hàng không may làm ăn thua lỗ. 2.2. Nguồn tiền gửi. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi Ngân Hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng. Tiền gửi là các khoản tiền mà khách hàng gửi tại Ngân Hàng. Nguồn hình thành các khoản tiền gửi này là từ cá khoản thu của khách hàng. Các khoàn thu của khách hàng là kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là thu nhập của người lao động sau khi lao động song hoặc các khoản quỹ của các tổ chức xã hội. Ngân Hàng có thể sử dụng các khoản tiền gửi này vào mục đích dịch vụ của Ngân Hàng như chi trả hộ . Vậy tiền gửi là nguồn tiền quan trọng. Nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân Hàng để tăng nguồn tiền gửi này Ngân Hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau như tiền gửi thanh toán tiền gửi có kỳ hạn tiền gửi không kỳ hạn tiền gửi tiết kiệm của dân cư tiền gửi của các Ngân Hàng khác. Ngân Hàng có thể sử dụng nguồn tiền gửi này để cho khách hàng vay hoặc tài trợ lại cho khách hàng khi họ có nhu cầu đồng thời Ngân Hàng cũng có trách nhiệm hoàn trả khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút tiền gửi. Ngoài ra Ngân Hàng còn có thêm các khoản tiền gửi của các Ngân Hàng khác nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ NHTM có thể gửi tiền tại các Ngân Hàng khác. 2.3. Nguồn đi vay. Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân Hàng tuy nhiên trong một số trường hợp Ngân Hàng có thể đi vay thêm nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động vốn bị hạn chế. Ngân Hàng có thể vay từ NHNN ( NHTW). Đây là khoản vay nhằm giải quyết các nhu cầu cấp bách trong việc chi trả của NHTM. NHTM có thể vay dưới hình thức tái chiết khấu khi cần tiền Ngân Hàng mang các thương phiếu nay lên tái chiết khấu tại NHNN. Tuy nhiên với hình thức này NHTM phải thực hiện một số điều kiện đảm bảo kiểm soát nhất định của NHNN. NHTM vay các tổ chức tín dụng khác. Đây là các khoản vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân Hàng. Quá trình vay mượn này diễn ra hết sức đơn giản. Ngân Hàng cần vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với Ngân Hàng cho vay hoặc thông qua các Ngân Hàng đại lý. Vay trên thị trường vốn NHTM vay dưới hình thức phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu trái phiếu tín phiếu tuy nhiên đây là các khoản vay không đảm bảo. 2.4. Các nguồn khác : Đây là phần vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ đại lý thanh toán các nguồn này bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác. Nguồn ủy thác NHTM thực thiện các dịch vụ ủy thác cho vay ủy thác đầu tư ủy thác cấp phát… Nguồn trong thanh toán có nhiều loại như séc trong quá trình chi trả tiền ký quỹ mở L/C.. Ngoài ra còn có các nguồn khác như thuế chưa nộp lương chưa trả… 3. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn có vai trò rất lớn đối với Ngân Hàng. Nó là cơ sở để Ngân Hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh vì vậy Ngân Hàng phải thường xuyên bổ sung thêm vốn trong quá trình hoạt động của mình. Vốn có vai trò quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp quá trình họat động của Ngân Hàng. Nếu Ngân Hàng có nhiều vốn sẽ đáp ứng được khả năng cho vay của khách hàng có đủ điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng và các dịch vụ của Ngân Hàng. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của Ngân Hàng trên thị trường. Ngoài ra vốn còn quyết định đến quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế chủ động thời gian cho vay vốn giúp Ngân Hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường. III. Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. 1. Các hình thức huy động vốn của NHTM : 1.1 Huy động vốn tiền gửi : Tiền gửi Ngân Hàng là các khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân, tổ chức tín dụng …Ngân Hàng huy động vốn tiền gửi bằng nhiều hình thức khác nhau : a. Huy động tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào, thực chất đây là khoản tiền dùng để đảm bảo khả năng trong thanh toán. Khoản tiền gửi này được gửi vào Ngân Hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua hàng hóa dịch vụ và thực hiện các khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng một cách thuận tiện và tiết kiệm. Do vậy loại tiền gửi này không đem lại lãi suất cao đối với Ngân Hàng, đây là một khoản nợ mà Ngân Hàng có nghĩa vụ thực hiện theo lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi suất thường thấp hơn lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác nhưng khi khách hàng mở và sử dụng tài khoản này thì Ngân Hàng cung ứng các loại dịch vụ miễn phí hoặc với mức phí rất thấp. Do vậy tài khoản này đem lại cho khách hàng sự an toàn trong việc thanh toán và bảo quản vốn. Còn đối với Ngân Hàng, họ phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế toán theo dõi và ghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc, chi phí này khá lớn nhưng nó được bù đắp lại bởi trên thực tế, do lượng tiền gửi vào và rút ra không cùng một lúc và chủ tài khoản thường không dùng hết số tiền trên tài khoản của mình, số dư ấy Ngân Hàng được phép dùng để đầu tư, cho vay đối với các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hay các cá nhân thiếu vốn kinh doanh để thu lợi nhuận. Như vậy đối với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài khoản giao dịch không những bù đắp được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận cho Ngân Hàng. Ở nước ta phát triển khoản tiền gửi này chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong kết cấu nguồn vốn của NHTM.( Ví dụ ở Mỹ khoản tiền gửi này chiếm khoảng 30% tổng tiền gửi Ngân Hàng). Do vậy để tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản thanh toán việc thu hút khách hàng và giữ được khách hàng là rất quan trọng. Chính vì vậy mà Ngân Hàng thường đưa ra các hình thức thu hút và giữ khách hàng bằng cách quảng cáo, nâng cao uy tín hoạt động, hiện đại hóa và mở rộng phạm vi hoạt động cả trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch vụ khách hàng về thời gian, tốc độ, giảm chi phí bằng cách lấy lợi nhuận từ việc sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi này để bù đắp cho các khoản lệ phí thanh toán phải thu của khách hàng. b. Huy động tiền gửi có kỳ hạn : Đây là khoản tìền tạm thời nhàn rỗi của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định, khoảng thời gian này được xác định trước. Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó. Hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Ngân Hàng các NHTM cho phép khách hàng rút tiền trước kỳ hạn nhưng khách hàng không được hưởng lãi suất ấn định trước mà chỉ được hưởng theo lãi suất của loại tièn gửi không kỳ hạn. Do tính chất của nguồn này tương đối ổn định Ngân Hàng lại có thể sử dụng được phần lớn số dư từ loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn nên đã tạo điều kiện cho Ngân Hàng trong quá trình kinh doanh, để thu hút được nhiều khách hàng Ngân Hàng đã đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp úng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Hiện nay các NHTM có nhiều loại tiền gửi có kỳ hạn như : 1tháng, 2tháng, 3tháng, 6tháng, 9tháng, 1năm, 2năm, 3năm, gửi13 tháng, lãi suất bậc thang, dự thưởng ……Với mỗi loại kỳ hạn khác nhau thì Ngân Hàng áp dụng mức lãi suất khác nhau Thông thường càng dài thì lãi suất càng cao các NHTM thường khuyến khích khách hàng của mình gửi với thời hạn dài vì loại tiền này tương đối ổn định hơn nữa sẽ giúp Ngân Hàng chủ động hơn trong kinh doanh và đem lại lợi nhuận lớn, mức lãi suất đối với các loại tiền gửi này có thể cố định hoặc linh hoạt tùy theo sự lựa chọn của khách hàng và đối với loại chứng chỉ tiền gửi có lãi suất linh hoạt khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định. c. Huy động tiền gửi tiết kiệm : Tiền gửi tiết kiệm được coi là nguồn quan trọng nó chiếm tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi của Ngân Hàng và được coi là công cụ huy động truyền thống của Ngân Hàng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân gửi vào Ngân Hàng, tiền gửi tiết kiệm được coi là bộ phận thu nhập bằng tiền của cá nhân chưa sủ dụng được gửi vào Ngân Hàng khách hàng nhận được một sổ tiết kiệm – đây được coi như giấy chứng nhận gửi tiền vào Ngân Hàng đến thời hạn ghi trên sổ khách hàng rút tiền ra và được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm. Có nhiều loại tiền gửi tiết kiệm : Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn : Khi gửi hình thức này chủ tài khoản có thể rút tiền bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho Ngân Hàng nhưng khác với tiền gửi thanh toán người gửi tiền không được sủ dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác số dư tài khoản này thường không lớn nhưng nó có ưu điểm hơn so với các tài khoản giao dịch ở chỗ số dư của nó ít biến động. Vì vậy NHTM thường phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn : Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân Hàng khách hàng sẽ được hưởng mức lãi suất theo quy định và được ghi trên sổ, khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt khách hàng có thể rút tiền ra trước hạn nhưng họ không được hưởng mức lãi suất như quy định mà phải chịu mức lãi suất không kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm dài hạn : Loại tiền gửi tiết kiệm này phổ biến nhiều ở các nước công nghiệp. Đối với hình thức này chủ tài khoản có thể gửi tiền vào tài khoản của mình bất cứ lúc nào và với số lượng không hạn chế nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. 1.2. Huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn. Xuất phát từ thực tế khách quan những người mua chứng chỉ tiền gửi này rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất. Để huy động được vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu thanh toán các NHTM có thể đưa ra mức lãi suất cao hơn so với các chứng chỉ tiền gửi khác. Mức lãi suất được trả cho các chứng chỉ tiền gửi này được quy định bằng cách thỏa thuận trực tiếp giữa Ngân Hàng với người gửi tiền hoặc được quy định ở mức mà người gửi tiền có thể chấp nhận được. 1.3. Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Trái phiếu Ngân Hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó cam kết sẽ trả lãi và gốc cho người mua khi đến hạn. 2. Các chỉ tiêu đánh giá công tác huy động vốn của NHTM. Huy động vốn là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Để đánh giá công tác huy động vốn các NHTM thường sử dụng một số các chỉ tiêu sau : Chỉ tiêu về quy mô nguồn vốn : Vốn huy động tăng trưởng trong các năm giúp Ngân Hàng có khả năng tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình và nâng cao sức mạnh cạnh tranh. Công tác huy động vốn ngày càng tăng sẽ chứng tỏ sức mạnh của Ngân Hàng và chứng tỏ Ngân Hàng làm tốt công tác huy động vốn. Chỉ tiêu về thời hạn nguồn huy động : Thông qua chỉ tiêu về thời hạn nguồn vốn cho ta biết mức độ ổn đinh của nguồn vốn từ đó giúp Ngân Hàng đưa ra các quyết đinh về thời hạn cho vay, nguồn huy động càng nhiều và dài thì mức độ ổn định của nó càng cao. Chỉ tiêu về kết cấu nguồn vốn : cho ta biết nguồn được huy động từ đâu và cho ta biết trong kết cấu nguồn vốn huy động thì nguồn huy động từ tổ chức tín dụng, từ tổ chức kinh tế, cá nhân hay từ tiền gửi tiết kiệm là chiếm tỷ trọng cao nhất. Chỉ tiêu về chi phí vốn : chỉ tiêu này khá quan trọng đối với hoạt động của Ngân Hàng. Nếu chi phí vốn huy động thấp sẽ không thu hút được khách hàng gửi tiền vào Ngân Hàng còn nếu chi phí cao sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân Hàng. I V. Các nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ huy động vốn của NHTM. Trong quá trình huy động vốn của các NHTM có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quy mô vốn. Các nhân tố này bao gồm cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan.. 1. Nhân tố chủ quan. 1.1. Chính sách lãi suất của NHTM. Lãi suất huy động là mối quan tâm hàng đầu của một cá nhân doanh nghiệp hay các tổ chức tín dụng. Điều này hoàn toàn hợp lý vì trong nền kinh tế có rất nhiều Ngân Hàng rồi các công ty bảo hiểm nhân thọ chứng khoán… ngành nào có lợi nhuận cao hơn sẽ thu hút được nhiều người tham gia hơn . Chính vì vậy để tạo được nhiều vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu của mình các Ngân Hàng cần có chính sách lãi suất huy động vừa kích thích người gửi tiền vừa phù hợp với lãi suất cho vay để tránh tình trạng vốn huy động với giá cao mà đầu tư với giá thấp đặc biệt là đảm bảo độ an toàn cho Ngân Hàng. Lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của Ngân Hàng. Vì vậy Ngân Hàng phải hoạch định sao cho chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp với thị trường và mức lãi suất huy động phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo quyền lợi cho Ngân Hàng và cũng phải thấp hơn lợi nhuận của doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi cho người vay nhưng mức lãi suất này không được thấp hơn tỷ lệ lạm phát để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền có được mức thu nhập hợp lý có như vậy người gửi tiền vào Ngân Hàng mới thấy việc mình gửi tiền vào Ngân Hàng có lợi . Như vậy lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới quy mô nguồn vốn của Ngân Hàng .Khi Ngân Hàng đưa ra mức huy động phù hợp với yêu cầu của thi trường đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền thì nó là đòn bẩy mạnh mẽ thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi vào Ngân Hàng ngược lại khi đưa ra mức lãi suất thấp thì người gửi tiền sẽ chọn các hình thức đấu tư khác có lợi hơ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3357.doc.doc
Tài liệu liên quan