Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 448
ĐẶC ĐIỂM DẪN TRUYỀN THẦN KINH NGOẠI BIÊN  
TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG  
TẠI BV ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH 
Trần Vũ Hoàng Dương*, Nguyễn Thị Lệ** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm dẫn truyền thần kinh ngoại biên trên bệnh nhân Đái tháo đường tại Phòng 
khám Thận và Nội tiết – BV Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh. 
Đối tượng và phương pháp: Cắt ngang mô tả 37 trường hợp được chẩn đoán và điều trị Đái tháo đường. 
Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân than phiền về tình trạng rối loạn cảm giác chủ quan ở chi chiếm 35,1%. Khi phân 
tích kết quả đo dẫn truyền thần kinh: tỷ lệ bất thường của dây thần kinh giữa‐vận động 54,1%; dây thần kinh 
giữa‐cảm giác 91,9%; dây thần kinh trụ 83,8%; dây thần kinh quay 62,2%; dây thần kinh chày 46,0%; dây thần 
kinh mác sâu 91,9%; dây thần kinh mác nông 43,2%. Bất thường về vận tốc dẫn truyền gặp ở tất cả các dây 
thần kinh khảo sát. Nhóm bệnh nhân có triệu chứng dị cảm tay có tỷ lệ kéo dài thời gian tiềm và giảm vận tốc 
dẫn truyền của dây thần kinh giữa‐cảm giác cao hơn nhóm không có triệu chứng (p <0,05), tương tự ở nhóm 
bệnh nhân có dị cảm chân và tỷ lệ giảm vận tốc dẫn truyền của dây thần kinh mác nông (p <0,01).  
Kết luận: Tổn thương thần kinh ngoại biên trên bệnh nhân đái tháo đường có tính chất lan tỏa với đặc điểm 
kéo dài thời gian tiềm, giảm biên độ điện thế, giảm vận tốc dẫn truyền. Cần lưu ý vai trò của dây thần kinh giữa 
và dây thần kinh mác trong việc phát hiện sớm biến chứng thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân đái tháo đường. 
Từ khóa: đái tháo đường (ĐTĐ), bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo đường, đo dẫn truyền thần kinh, 
thời gian tiềm, biên độ điện thế, vận tốc dẫn truyền. 
ABSTRACT 
CONDUCTION CHARACTERISTICS OF PERIPHERAL NERVES 
IN DIABETIC PATIENTS AT THE HCMC UNIVERSITY MEDICAL CENTER 
Tran Vu Hoang Duong, Nguyen Thi Le  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 448 ‐ 452 
Objective:  To  evaluate  the  conduction  characteristics  of  peripheral  nerves  in  diabetic  patients  at  the 
Nephrology and Endocrinology outpatients department of HCMC University Medical Center. 
Method: This is a cross‐sectional study investigating 37 diabetic patients. 
Results: Rate of patients who have  sensory  symptoms was 35.1%. Rate of abnormalities  found  in nerve 
conduction studies (NCS)  involved  the median motor nerve, median sensory nerve, ulnar nerve, radial nerve, 
tibial nerve, peroneal nerve, superficial peroneal nerve was 54.1%, 91.9%, 83.8%, 62.2%, 46.0%, 91.9%, and 
43.2%,  respectively. A  reduction  in  conduction  velocity were  noted  in  all  of  the  above  nerves which were 
measured. The median sensory nerve conduction study reveals a higher rate of a prolonged distal latency and a 
reduction in conduction velocity in patients with paresthesia of the upper limbs in comparison with those who 
have no symptoms (p <0.05). Similarly, the peroneal nerve conduction study reveals a reduction in conduction 
velocity in patients with paresthesia of the lower limbs comparison with those who have no symptoms (p <0.01). 
Conclusion: Diabetic peripheral neuropathy is widespread. Its NCS is characterized by a prolonged distal 
* Khóa Y2007, khoa Y, ĐH Y Dược TP. HCM         ** Bộ môn Sinh lý, ĐH Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: Trần Vũ Hoàng Dương   ĐT: 0987232045 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nội tiết 449
latency, a decrease in action potential amplitude, and a reduction in conduction velocity. Median and peroneal 
nerve conduction study plays a role in early detection of diabetic neuropathy. 
Key words: diabetes mellitus, diabetic peripheral neuropathy (DPN), nerve conduction study (NCS), distal 
latency, action potential amplitude, conduction velocity. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
ĐTĐ  là  bệnh  lý mạn  tính  có  nhiều  biến 
chứng. Tỷ lệ mắc của bệnh ngày càng gia tăng 
song  hành  với  lối  sống  ít  vận  động  và  tình 
trạng  thừa cân‐béo phì. Biến chứng  thần kinh 
ngoại  biên  là  một  trong  những  biến  chứng 
xuất  hiện  sớm  và  thường  gặp  ở  bệnh  nhân 
ĐTĐ. Đây là biến chứng ít gây tử vong nhưng 
ảnh hưởng đáng kể đến chất  lượng cuộc sống 
hàng  ngày  của  người  bệnh  do  tình  trạng  rối 
loạn về cảm giác và những tổn thương khó hồi 
phục về vận động như teo cơ, yếu  liệt gây ra. 
Bệnh biểu hiện  lâm sàng  rất đa dạng và  tiềm 
ẩn, do đó ít được chú ý khám xét để chẩn đoán 
và điều trị kịp thời. 
Hiện nay, với sự hỗ  trợ của phương pháp 
chẩn  đoán  điện  sinh  lý  bao  gồm  nhiều  kỹ 
thuật,  trong  đó  quan  trọng  nhất  là  đo  dẫn 
truyền thần kinh, đã đem lại một công cụ hữu 
ích  cho  việc  phát  hiện  sớm  bệnh  thần  kinh 
ngoại biên nói chung và bệnh thần kinh ngoại 
biên do ĐTĐ nói riêng. 
Ở nước  ta, đã có vài công  trình nghiên cứu 
nhằm  tìm hiểu đặc điểm  tổn  thương  thần kinh 
ngoại biên do ĐTĐ, nhưng vẫn chưa đủ để đánh 
giá một cách chi tiết về biến chứng này, đặc biệt 
là thông qua các chỉ số dẫn truyền thần kinh. Vì 
vậy, chúng  tôi  thực hiện đề  tài này nhằm cung 
cấp  thêm một  số  thông  tin  về  đặc  điểm  dẫn 
truyền thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân ĐTĐ, 
góp phần ứng dụng điện chẩn đoán  trong  lâm 
sàng. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân được chẩn đoán Đái tháo đường 
tại phòng khám Thận và Nội tiết – BV Đại học Y 
Dược TP.HCM từ tháng 04/2013 đến 07/2013. 
Tiêu chuẩn chọn vào 
Bệnh nhân  được  chẩn  đoán  ĐTĐ  theo  tiêu 
chí của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) năm 2010, 
đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại ra 
Bệnh nhân  có bệnh  lý khác gây  bệnh  thần 
kinh  ngoại  biên:  nghiện  rượu,  bệnh  hệ  thống, 
thuốc, suy dinh dưỡng. 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 
Ước  lượng  cỡ mẫu nhằm  xác  định  giá  trị 
trung  bình  vận  tốc  dẫn  truyền  của  các  dây 
thần  kinh  ngoại  biên  được  khảo  sát  ở  bệnh 
nhân ĐTĐ. 
Tính cỡ mẫu theo công thức: 
Trong đó: 
Z = 1,96 với khoảng tin cậy 95% (α = 0,05). 
σ = độ lệch chuẩn. Theo tác giả Albert (3), độ 
lệch  chuẩn về vận  tốc dẫn  truyền  của dây TK 
mác trên bệnh nhân ĐTĐ là 1,5 m/s. 
d=Khoảng chính xác mong muốn là 0,5 m/s. 
→ Như vậy cỡ mẫu tối thiểu là n = 35. 
Kỹ thuật chọn mẫu 
Liên tục không xác suất. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Dùng  phiếu  thu  thập  số  liệu  ghi  nhận  kết 
quả qua hỏi bệnh, xét nghiệm và đo dẫn truyền 
thần  kinh  bằng máy  đo  điện  cơ Neuro‐MEP‐
Micro. 
Xử lý số liệu 
Giá  trị  bình  thường  của  kết  quả  đo  dẫn 
truyền thần kinh được tham khảo từ tài liệu của 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 450
tác giả Barbara(1). Các  tính  toán  thống kê  được 
thực hiện bằng phần mềm STATA 10. 
KẾT QUẢ 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thực  hiện  tại 
phòng khám Thận và Nội  tiết – BV Đại học Y 
Dược  TP.HCM  từ  tháng  04/2013  đến  tháng 
07/2013, số liệu ghi nhận trên 37 bệnh nhân được 
chẩn đoán và điều trị ĐTĐ. 
Bảng 1: Tỷ lệ rối loạn cảm giác chủ quan ở chi 
Rối loạn cảm giác Số BN (n) Tỷ lệ (%) 
Có 13 35,1% 
Không 24 64,9% 
Tổng cộng 37 100% 
Trong những bệnh nhân có rối loạn cảm giác 
chủ quan: tỷ lệ dị cảm ở chân là 84,6%, dị cảm ở 
tay là 76,9%. 
Bảng 2: Kết quả đo dẫn truyền thần kinh 
Dây thần kinh 
Đặc điểm 
Thời gian 
tiềm 
Biên độ điện 
thế 
Vận tốc dẫn 
truyền 
TK giữa-vận động 4,09 ± 0,86 9,34 ± 2,58 51,08 ± 6,2 
TK giữa-cảm giác 3,30 ± 0,86 10,93 ± 5,65 44,80 ± 10,47
TK trụ-vận động 2,44 ± 0,31 5,90 ± 1,39 50,93 ± 5,15 
TK trụ-cảm giác 2,12 ± 0,39 12,15 ± 5,44 57,27 ± 8,04 
TK quay 1,90 ± 0,51 22,22 ± 16,04 58,69 ± 10,46
TK chày 4,53 ± 0,76 9,62 ± 4,62 40,34 ± 5,70 
TK mác sâu 4,00 ± 1,00 3,21 ± 1,66 38,33 ± 4,87 
TK mác nông 2,80 ± 0,85 10,61 ± 4,76 48,67 ± 12,79
Đơn vị: thời gian tiềm: m/s; biên độ điện thế: 
mV (vận động) hoặc μV (cảm giác); vận tốc dẫn 
truyền: m/s. 
Bảng 3: Tỷ lệ bất thường thời gian tiềm 
Dây thần kinh Số BN (n) Tỷ lệ (%) 
TK giữa-vận động 10 27,0% 
TK giữa-cảm giác 13 35,1% 
TK trụ-vận động 0 0% 
TK trụ-cảm giác 1 2,7% 
TK quay 1 2,7% 
TK chày 1 2,7% 
TK mác sâu 1 2,7% 
TK mác nông 2 5,4% 
Bảng 4: Tỷ lệ bất thường biên độ điện thế 
Dây thần kinh Số BN (n) Tỷ lệ (%) 
TK giữa-vận động 0 0% 
TK giữa-cảm giác 34 91,9% 
Dây thần kinh Số BN (n) Tỷ lệ (%) 
TK trụ-vận động 30 81,1% 
TK trụ-cảm giác 31 83,8% 
TK quay 18 48,7% 
TK chày 3 8,1% 
TK mác sâu 9 24,3% 
TK mác nông 4 10,8% 
Bảng 5: Tỷ lệ bất thường vận tốc dẫn truyền 
Dây thần kinh Số BN (n) Tỷ lệ (%) 
TK giữa-vận động 15 40,5% 
TK giữa-cảm giác 26 70,3% 
TK trụ-vận động 11 29,7% 
TK trụ-cảm giác 6 16,2% 
TK quay 8 21,6% 
TK chày 17 45,9% 
TK mác sâu 34 91,9% 
TK mác nông 12 32,4% 
Bảng 6: Tỷ lệ bất thường của các dây thần kinh 
Dây thần kinh Số BN (n) Tỷ lệ (%) 
TK giữa-vận động 20 54,1% 
TK giữa-cảm giác 34 91,9% 
TK trụ-vận động 31 83,8% 
TK trụ-cảm giác 31 83,8% 
TK quay 23 62,1% 
TK chày 17 45,9% 
TK mác sâu 34 91,9% 
TK mác nông 16 43,2% 
Bảng 7: Liên quan giữa triệu chứng lâm sàng với đặc 
điểm dẫn truyền thần kinh 
Thời gian tiềm 
TK giữa-cảm giác 
Tê tay 
Tổng cộng
Có Không 
Kéo dài 7 6 13 
Bình thường 3 21 24 
Tổng cộng 10 27 37 
Khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  tỷ  lệ  bất 
thường  thời  gian  tiềm  của  dây  TK  giữa‐cảm 
giác  ở 2 nhóm  có và không  có  triệu  chứng  tê 
tay (p<0,05). 
Bảng 8 
Vận tốc dẫn truyền
TK giữa-cảm giác 
Tê tay 
Tổng cộng
Có Không 
Chậm 10 16 26 
Bình thường 0 11 11 
Tổng cộng 10 27 37 
Khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  tỷ  lệ  bất 
thường vận  tốc dẫn  truyền  của dây TK giữa‐
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nội tiết 451
cảm giác ở 2 nhóm có và không có triệu chứng 
tê tay (p <0,01). 
Bảng 9 
Vận tốc dẫn truyền 
TK mác nông 
Tê chân 
Tổng cộng
Có Không 
Chậm 7 5 12 
Bình thường 4 21 25 
Tổng cộng 11 26 37 
Khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  tỷ  lệ  bất 
thường  vận  tốc  dẫn  truyền  của  dây  TK  mác 
nông  ở 2 nhóm  có và không  có  triệu  chứng  tê 
chân (p <0,01). 
BÀN LUẬN 
Triệu chứng rối loạn cảm giác chủ quan ở chi 
Tỷ lệ bệnh nhân than phiền về tình trạng dị 
cảm ở chân cao hơn ở tay. Điều này phù hợp với 
y văn khi nhận thấy biến chứng thần kinh ngoại 
biên do ĐTĐ chủ yếu là tình trạng viêm đa dây 
thần kinh đối xứng ngọn chi xảy ra ở chi dưới 
nhiều hơn chi trên. 
Đặc điểm qua đo dẫn truyền thần kinh 
Bất thường thời gian tiềm 
Tỷ  lệ bất  thường cao nhất ở chi  trên  là dây 
TK giữa‐cảm giác 35,1%, chi dưới là dây TK mác 
nông  5,4%.  Điều  này  củng  cố  quan  điểm  tổn 
thương thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân ĐTĐ 
ảnh hưởng sớm lên các dây TK cảm giác hơn các 
dây TK vận động. 
Bất thường biên độ điện thế 
Tỷ  lệ bất  thường cao nhất ở chi  trên  là dây 
TK giữa‐cảm giác 91,9%, cao hơn so với kết quả 
của  tác giả  Imada 38%. Sự khác biệt này  là do 
chúng  tôi chọn giá  trị ngưỡng bình  thường cao 
hơn  tác  giả  (chúng  tôi:  >20μV,  Imada:  >12μV). 
Trong khi  đó  ở  chi dưới,  tỷ  lệ bất  thường  cao 
nhất là dây TK mác sâu 24,3%. Kết quả này một 
lần  nữa  cho  thấy  biến  chứng  thần  kinh  ngoại 
biên do ĐTĐ ảnh hưởng nhiều trên các dây TK 
cảm giác. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ở 
bệnh  nhân  ĐTĐ,  các  sợi  thần  kinh  có  đường 
kính nhỏ thường dễ bị tổn thương hơn các sợi có 
đường kính trung bình và lớn. 
Bất thường vận tốc dẫn truyền 
Như đã biết, đặc trưng của tổn thương thần 
kinh  ngoại  biên  do  hủy myelin  là  hiện  tượng 
giảm vận tốc dẫn truyền. Ở bệnh nhân ĐTĐ có 
sự hủy myelin  thứ phát xảy  ra  trên  từng  đoạn 
của sợi trục do những bất thường về chuyển hóa 
sinh ra bởi tình trạng đường huyết tăng cao. Kết 
quả của chúng  tôi cho  thấy bất  thường vận  tốc 
dẫn truyền gặp ở tất cả các dây thần kinh khảo 
sát,  thể  hiện  tính  chất  lan  tỏa  của  tổn  thương 
thần  kinh  ngoại  biên  do  ĐTĐ mà  các  tác  giả 
Aaron I. Vinik(11) và Lê Quang Cường(6) đã từng 
ghi nhận. Trong đó, bất thường về vận tốc dẫn 
truyền  của TK mác  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  (mác 
sâu: 91,9%; mác nông: 32,4%). 
Bảng 10: Tỷ lệ bất thường vận tốc dẫn truyền của 
thần kinh mác sâu qua các nghiên cứu 
Tác giả Tỷ lệ Giá trị bình thường 
Lawrence 77% >47,1 ms/s 
Skillman 73% >49,3 m/s 
Nguyễn Mai Hòa 13,33% >42 m/s 
Chúng tôi 91,9% >40 m/s 
Khi  so  sánh với  các nghiên  cứu khác,  tỷ  lệ 
này có sự khác biệt là do khác nhau của quần thể 
nghiên  cứu  và  cách  chọn  giá  trị  ngưỡng  bình 
thường,  nhưng  đều  cho  thấy  tổn  thương  thần 
kinh ngoại biên do ĐTĐ xảy ra ở chi dưới nhiều 
hơn  chi  trên và  ở  chi dưới  thì những  thay  đổi 
của  TK  mác  gặp  nhiều  hơn  so  với  TK  chày. 
Nghiên cứu của  tác giả Nguyễn Mai Hòa  từng 
ghi nhận tỷ lệ bất thường vận tốc dẫn truyền của 
TK chày là 6,67%, thấp hơn khá nhiều so với TK 
mác  13,33%. Tác  giả  J.Partanen(8)  nhận  xét  qua 
một nghiên cứu sau 10 năm diễn  tiến  tự nhiên 
của 133 bệnh nhân ĐTĐ  type 2, mức giảm vận 
tốc dẫn truyền cao nhất là TK mác sâu 3m/s (từ 
43,3m/s xuống còn 40,3m/s). 
Đối với chi trên, bất thường về vận tốc dẫn 
truyền  gặp  nhiều  ở  dây  TK  giữa  (cảm  giác: 
70,3%; vận động: 40,5%). Tỷ lệ này có khác biệt 
với nghiên cứu của tác giả Imada 40%, do chúng 
tôi  chọn  ngưỡng  bình  thường  khác  tác  giả 
(chúng tôi: >50m/s, Imada: >48m/s). 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 452
Liên quan giữa  triệu  chứng  lâm  sàng với 
đặc điểm dẫn truyền thần kinh 
So  sánh  tỷ  lệ  bất  thường  đặc  điểm  dẫn 
truyền  thần  kinh  của  các  dây  thần  kinh  cảm 
giác,  chúng  tôi  nhận  thấy  sự  khác  biệt  có  ý 
nghĩa  thống  kê  ở  2  nhóm  bệnh  nhân  có  và 
không  có  triệu  chứng  rối  loạn  cảm  giác  chủ 
quan. Với những bệnh nhân có triệu chứng dị 
cảm ở tay, tỷ lệ kéo dài thời gian tiềm và giảm 
vận  tốc  dẫn  truyền  của  dây  thần  kinh  giữa‐
cảm  giác  cao  hơn  so  với  nhóm  không  có  dị 
cảm (p <0,05). Kết quả tương tự cũng được ghi 
nhận  ở  chi  dưới,  giữa  triệu  chứng  dị  cảm  ở 
chân với tỷ lệ giảm vận tốc dẫn truyền của dây 
thần kinh mác nông (p <0,01). 
Tuy  nhiên,  có  một  tỷ  lệ  các  bệnh  nhân: 
hoặc  là  đã  ghi nhận  được những  bất  thường 
khi đo dẫn  truyền  thần kinh nhưng vẫn chưa 
có  than phiền về  tình  trạng rối  loạn cảm giác; 
hoặc  là đã có than phiền về  tình  trạng dị cảm 
nhưng  kết  quả  đo  dẫn  truyền  thần  kinh  còn 
trong giới hạn bình thường. Điều này cho thấy 
có một  tỷ  lệ  không  tương  xứng  giữa  các  bất 
thường khi đo dẫn  truyền  thần kinh với biểu 
hiện  lâm  sàng  đa  dạng  của  bệnh  thần  kinh 
ngoại biên do ĐTĐ, tương tự như kết quả của 
tác giả Lê Quang Cường(6). Do đó, để phát hiện 
sớm  biến  chứng  thần  kinh  ngoại  biên  trên 
bệnh  nhân  ĐTĐ,  rất  cần  thiết  phối  hợp  giữa 
các triệu chứng lâm sàng và phân tích kết quả 
đo dẫn truyền thần kinh. 
KẾT LUẬN 
Tổn  thương  thần kinh ngoại biên do ĐTĐ 
có tính chất lan tỏa với hiện tượng kéo dài thời 
gian tiềm, giảm biên độ điện thế, giảm vận tốc 
dẫn truyền. Trong đó, giảm vận tốc dẫn truyền 
gặp  ở  tất cả các dây  thần kinh  được khảo  sát 
cho  thấy  tổn  thương  đặc  trưng  là  tình  trạng 
hủy myelin. 
Tỷ  lệ bất  thường  cao nhất  ở  chi  trên  là TK 
giữa  (cảm giác: 91,9%, vận động: 54,1%) và chi 
dưới  là  TK  mác  (mác  nông:  43,2%,  mác  sâu: 
91,9%)  gợi  ý  tính  nhạy  cảm  của  hai  dây  thần 
kinh này  trong việc phát hiện  sớm biến  chứng 
thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân ĐTĐ. 
Có một tỷ lệ phân ly giữa tình trạng rối loạn 
cảm  giác  chủ  quan  ở  chi  và  kết  quả  đo  dẫn 
truyền  thần  kinh  tương  ứng,  do  đó  cần  thiết 
phối hợp giữa triệu chứng lâm sàng và phân tích 
kết quả đo dẫn truyền thần kinh để có thể phát 
hiện  sớm  biến  chứng  thần  kinh  ngoại  biên  ở 
bệnh nhân ĐTĐ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Barbara  (2005),  Electromyography  and  neuromuscular  disorders: 
clinical‐electrophysiologic correlations 2nd, pp.03‐230. 
2. Diệp Thị Thanh Bình (2006), Nội Tiết Học, Nhà xuất bản Y Học, 
Tp. Hồ Chí Minh, tr.71‐80. 
3. Đỗ Trung Quân  (2006), Biến  chứng bệnh  Đái  tháo  đường và 
Điều trị. Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội, tr.09‐198. 
4. Dyck PJ, OʹBrien PC, Litchy WJ, Harper CM, Klein CJ  (2005), 
“Monotonicity  of  nerve  tests  in  diabetes:  subclinical  nerve 
dysfunction  precedes diagnosis  of polyneuropathy”, Diabetes 
Care, Vol.28 (9), pp.2192‐2200. 
5. Lamontagne A, Buchthal F (1970), “Electrophysiological studies 
in diabetic neuropathy”,  Journal of Neurology, Neurosurgery 
and Psychiatry, Vol.33, pp.442‐452. 
6. Lê Quang Cường  (1999), Nghiên  cứu  biểu  hiện  thần  kinh 
ngoại  vi  ở  người  trưởng  thành  Đái  tháo  đường  bằng  ghi 
điện cơ và đo tốc độ dẫn truyền thần kinh, Luận án tiến sĩ Y 
học, Đại học Y Hà Nội. 
7. Nguyễn Thị Lệ và Lê Quốc Tuấn (2013), Khảo sát vận tốc dẫn 
truyền  trên dây  thần kinh giữa, Giáo  trình  thực hành Sinh  lý 
học, Nhà xuất bản Y học, Tp. Hồ Chí Minh, tr.140‐155. 
8. Partanen J (1995), “Natural history of peripheral neuropathy in 
patients with  non‐insulin‐dependent  diabetes mellitus”, New 
England Journal Medicine, Vol.333 (2), pp.89‐94. 
9. Tesfaye  S,  Boulton  AJ, Dyck  PJ,  Freeman  R, Horowitz M, 
Kempler  P,  Lauria  G,  Malik  RA,  Spallone  V,  Vinik  A, 
Bernardi L, Valensi P  (2010), “Diabetic Neuropathies: Update 
on Definitions, Diagnostic Criteria, Estimation of Severity, and 
Treatments”, Diabetes Care, Vol.33 (10), pp.2285–2293. 
10. Vinik  AI  (1999),  “Diabetic  neuropathy:  pathogenesis  and 
therapy”.  The  American  Journal  of  Medicine,  Vol.107  (2B), 
pp.17‐26. 
11. Vinik AI  (2011), Complications  of diabetes mellitus, Williams 
textbook of Endocrinology 12th Ed, Section VIII, pp.1492‐1501. 
12. Vũ Anh Nhị (1996), Nghiên cứu bệnh  lý thần kinh ngoại biên 
do Đái tháo đường bằng phương pháp chẩn đoán điện, Luận 
án phó TS khoa học Y dược, Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014