Đối tượng của môn học bệnh da là nghiên cứu tình trạng da, niêm mạc, các phần 
phụ của da khi lành và khi bị bệnh . Bệnh hoa liễu là môn học các bệnh lây 
truyền qua quan hệ tình dục do vi khuẩn, virut, nấm, ký sinh vật gây ra. Môn học 
về bệnh da và hoa liễu gọi chung là môn học bệnh da liễu (dermato-venereology).
Bệnh da liễu đã được nói ở nước ta từ lâu. Nhân dân cũng đã có những bài thuốc 
điều trị bệnh da liễu. Trong các tài liệu của Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh đã có 
nói đến một số bệnh da liễu. Dưới thời Pháp thuộc đã có chuyên ngành da liễu 
nhưng mới chỉ tập trung ở một số ít thành phố lớn. 
Ngày nay, chuyên ngành da liễu đã phát triển từ trung ương đến địa phương, đề 
cập cả bệnh da và hoa liễu,trong đó chú trọng trước mắt là một số bệnh da phổ 
biến và bệnh phong, bệnh hoa liễu . .
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1786 | Lượt tải: 1 
              
            Nội dung tài liệu Đại cương bệnh da và hoa liễu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại cương bệnh da và hoa liễu 
Đối tượng của môn học bệnh da là nghiên cứu tình trạng da, niêm mạc, các phần 
phụ của da khi lành và khi bị bệnh . Bệnh hoa liễu là môn học các bệnh lây 
truyền qua quan hệ tình dục do vi khuẩn, virut, nấm, ký sinh vật gây ra. Môn học 
về bệnh da và hoa liễu gọi chung là môn học bệnh da liễu (dermato- venereology). 
Bệnh da liễu đã được nói ở nước ta từ lâu. Nhân dân cũng đã có những bài thuốc 
điều trị bệnh da liễu. Trong các tài liệu của Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh đã có 
nói đến một số bệnh da liễu. Dưới thời Pháp thuộc đã có chuyên ngành da liễu 
nhưng mới chỉ tập trung ở một số ít thành phố lớn. 
Ngày nay, chuyên ngành da liễu đã phát triển từ trung ương đến địa phương, đề 
cập cả bệnh da và hoa liễu,trong đó chú trọng trước mắt là một số bệnh da phổ 
biến và bệnh phong, bệnh hoa liễu . . 
1. Tình hình bệnh da liễu trong nhân dân và quân đội. 
+ Trong nhân dân. 
- Qua các thống kê của các bác sỹ chuyên ngành ở Viện Da liễu Trung ương, Thái 
nguyên, Vĩnh Phúc, Hải phòng, thành phố Hồ Chí Minh trên 10- 25% dân số. Ở 
các bệnh viện đa khoa tỷ lệ bệnh nhân nằm điều trị bệnh da liễu chiếm 1,25% - 2% 
trong tổng số bệnh nhân. 
 - Bệnh phong vẫn là một bệnh cần phải quan tâm nhiều( mặc dù sau 20 năm tích 
cực thực hiện công tác thanh toán phong từng vùng, thanh toán phong trong toàn 
quốc, cho đến nay 50/63 tỉnh thành đã đạt được chỉ tiêu- số lượng bệnh nhân 
phong nhỏ hơn 1/10.000 dân). Chỉ tiêu mới (2015) của ngành phấn đấu là số lượng 
bệnh nhân phong 1< 50.000 dân số ...). Đây là một thách thức, một mục tiêu rất 
khó khăn đòi hỏi nhà nước phải đầu tư nhiều tiền của, cán bộ chuyên ngành phải 
có nhiều tâm huyết mới có thể thực hiện được. Theo các chuyên gia nhiều kinh 
nghiệm về bệnh phong, ở Việt Nam phải phấn đấu từ 80 - 100 năm nữa con số 
bệnh nhân phong toàn quốc mới có thể đạt < 2 con số. Bệnh lây truyền qua đường 
tình dục mục tiêu là cần giám sát được bệnh, đặc biệt là bệnh lậu, giang mai và 
nhiễm HIV/AIDS. Gần đây vấn đề kỳ thị phân biệt đối xử với người nhiễm 
HIV/AIDS được nêu lên ( ở cả thế giới cũng như trong nước) vì kỳ thị, phân biệt 
đối xử là không đúng với nhân quyền, gây nên nhiều tác hại làm cho người bệnh 
sống không còn ý nghĩa, làm nguồn lây lan mạnh hơn trong xã hội... làm cho việc 
phòng chống căn bệnh này càng khó khăn hơn. 
Nhóm bệnh da nghề nghiệp cũng cần được lưu ý: vì đất nước ta trên con đường 
công nghiệp hoá và hiện đại hoá, các sản phân công nghiệp ngày càng nhiều... là 
các tác nhân trực tiếp gây ra nhiều bệnh nghề nghiệp, trong đó có bệnh da. 
+ Trong Quân đội. 
Quân đội là một bộ phận dân số có tính đặc thù riêng, khi tuyển quân đã lựa chọn 
được các thanh niên có đủ sức khoẻ vào phục vụ, cho nên những bệnh như phong, 
bệnh lây truyền qua đường tình dục chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tình hình chung 
của xã hội, ví dụ tại Quân y Viện 103 cả năm chỉ có < 10 bệnh nhân mắc bệnh 
lậu hoặc giang mai vào điều trị, vài năm mới có 1-2 bệnh nhân phong vào điều trị. 
Nhưng lưu ý hơn là những bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS ( khi tuyển quân tỷ lệ 
phản ứng HIV (+) là 4%o ở thanh niên khám tuyển, những thanh niên này không 
đủ tiêu chuẩn vào quân đội).Có hình ảnh lâm sàng của bệnh rất đa dạng... thầy 
thuốc chưa có nhiều kinh nghiệm, chủ quan, nên có nhiều bệnh nhân không được 
phát hiện sớm dẫn đến việc dự phòng lây lan cho thầy thuốc..., chăm sóc bệnh 
nhân có nhiều khiếm khuyết mà ta cần phải khắc phục. Các bệnh ngoài da trong 
quân đội chủ yếu vẫn là các bệnh nấm, viêm da mủ, bệnh da dị ứng và bệnh ghẻ ( 
gần giống như trong thời gian chiến tranh chống Mỹ), nhưng có phần hơi khác: 
hiện nay do điều kiện ăn ở của bộ đội tốt hơn, nước dùng được sạch hơn vì thế 
hình ảnh lâm sàng bệnh không điển hình, ít biến chứng... khiến cho viếc chẩn đoán 
dễ bỏ sót. 
2. Căn nguyên bệnh: 
Nhìn chung bệnh da liễu bao giờ cũng có 2 yếu tố tác động để phát sinh và phát 
triển bệnh : yếu tố nội giới và yếu tố ngoại giới. 
+ Yếu tố nội giới: 
- Di truyền 
- Gia đình . 
- Khuyết tật của da và niêm mạc. 
- Bệnh tạo keo 
- Bệnh do rối loạn chuyển hoá. 
- Những bất thường về sinh lý da, sinh hoá da, pH da, độ lipit da, khả năng kháng 
kiềm kháng toan, trung hoà kiềm, trung hoà toan cũng có một ảnh hưởng nhất định 
đến sự phát sinh phát triển cuả bệnh da. 
+ Yếu tố ngoại giới: 
Do các tác nhân vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm, thực vật, phấn hoa, lông thú 
thức ăn là tác nhân gây bệnh, do thuốc điều trị không hợp lý của bệnh nhân và 
thầy thuốc. 
3. Tác hại: 
+ Tác hại đến bản thân người bệnh: về thể chất đau, ngứa khó chịu có khi làm biến 
dạng thân thể, nó là một cực hình trường diễn cho bệnh nhân. Về tâm lý, các bệnh 
như phong, trứng cá, bệnh hoa liễu có ảnh hưởng rất nặng nề. Một số bệnh có 
thể gây tử vong hoặc ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ người bệnh như nhiễm độc da dị 
ứng thuốc, bệnh luput đỏ ... 
+ Tác hại về kinh tế xã hội: vì là một bệnh phổ biến và mất nhiều thời gian để 
khám bệnh, điều trị . Các thuốc da liễu kể cả thuốc bôi nhiều khi rất đắt, nhất là 
đối với các trường hợp bệnh nhân nặng. 
4. Một số phương hướng xây dựng ngành và công tác phòng chống bệnh da liễu 
trong quân đội: 
+ Xây dựng ngành: xây dựng một màng lưới cán bộ da liễu, từ quân khu, quân 
đoàn, sư đoàn đến cấp đại đội. ở bệnh viện quân đoàn nên có bác sỹ chuyên khoa 
da liễu. ở các sư đoàn, các trung đoàn nên có cán bộ đã được bồi dưỡng chuyên 
khoa da liễu.Cấp đại đội có chiến sỹ vệ sinh được tập huấn về các bệnh da liễu 
thông thường như nấm, ghẻ, viêm da mủ, sẩn ngứa do côn trùng. 
+ Phương hướng xây dựng ngành da liễu quân đội. 
 - Chẩn đoán: sử dụng rộng rãi các xét nghiệm về miễn dịch ( phản ứng Hexagon, 
PCR...), nấm, vi khuẩn, virus để tìm căn nguyên. Xét nghiệm tìm các hoạt chất 
trung gian, các nội tiết tố, sinh lý da, các vitamin, mô bệnh học ... để chẩn đoán 
bệnh. 
 - Trong điều trị: sử dụng các loại kháng sinh phổ rộng chống nấm, chống vi 
khuẩn, các loại corticoit, ức chế miễn dịch, interferon, interleukin, retinoid, dẫn 
chất imidazol, vật lý trị liệu (PUVA, tắm suối khoáng, laser...). 
Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ với một số bệnh như các dị tật da gây biến dạng cơ 
thể, nốt ruồi, phong, sẹo lồi. u vàng... 
Áp dụng đông y trong da liễu theo quan điểm an toàn, khoa học, đại chúng. 
+ Phòng bệnh da liễu trong quân đội ( xem bài phòng chống bệnh da liễu trong 
quân đội cuối quyển sách). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 21_5191.pdf 21_5191.pdf