. 
Tuy nhiên, việc thay đổi một hệ thống chương trình, 
phương pháp và hình thức ĐG kết quả GD của HSKT 
vẫn chưa được nhận thức và nghiên cứu đúng mức, 
đúng với vai trò của nó. Do vậy, nhà trường, GV, phụ 
huynh và các đối tượng có liên quan cần có nhận thức 
đúng về ĐG. Đây là khâu then chốt cuối cùng của quá 
trình dạy học, là khâu quan trọng tác động lớn đến quá 
trình nâng cao chất lượng giao dục đối với HSKT ngoài 
ra còn thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo của Bộ GD và Đào 
tạo đối với GD HSKT.
- Đối với GV: ĐG được xem như là công cụ hành nghề 
quan trọng của GV, giúp GV xác định được sự thay đổi 
của HS thông qua quá trình dạy học để đạt được mục 
tiêu GD. Qua kết quả ĐG, GV nhận biết được mức độ 
tiếp thu kiến thức, kĩ năng và khả năng vận dụng kiến 
thức của HS. Qua đó, họ tự ĐG được công tác giảng 
dạy của mình, thấy được những ưu điểm và hạn chế để 
phát huy hơn nữa những ưu điểm, có giải pháp khắc 
phục hạn chế, nâng cao chất lượng dạy và học. Đồng 
thời, qua kết quả ĐG, HS tự ĐG mức độ đạt được của 
bản thân, để có phương pháp tự mình thay đổi lại cách 
học nhằm đạt hiệu quả hơn. 
- Đối với nhà trường và cơ quan quản lí GD: Thông 
qua kết quả ĐG, nhà trường và cơ quan quản lí GD 
sẽ nắm bắt và theo dõi được tình hình học tập của HS 
cũng như ĐG được công tác giảng dạy của GV. Từ đó, 
có những sửa đổi, bổ sung chương trình đào tạo sao 
cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Bên 
cạnh đó, để hướng tới mô hình GD 4.0, nội dung và 
phương pháp ĐG phải nhắm đến phát triển tư duy độc 
lập, sáng tạo của người học. Bộ GD&ĐT, nhà trường 
và GV cần có những nghiên cứu sâu về lí luận thực 
tiễn về ĐG; tiếp thu và vận dụng hợp lí, sáng tạo các 
thành tựu ĐG của các nền GD hiện đại trên thế giới vào 
Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng GD nói chung và 
GD HSKT nói riêng, hướng tới phát triển năng lực của 
người học.
b. Đổi mới phương pháp và hình thức ĐG kết quả GD 
HSKT phù hợp với mô hình GD 4.0
Ngày nay, với cuộc CMCN 4.0, cơ hội dành cho tất cả 
mọi người là như nhau: Ai có năng lực thực sự, có trình 
độ chuyên môn tốt, có kĩ năng và có thể tạo ra nhiều giá 
trị cho xã hội, người đó sẽ thành công. Như vậy, cuộc 
CMCN 4.0 đã tạo áp lực lớn trong hoạt động đào tạo 
đối với các trường đại học, từ xây dựng chương trình 
đào tạo, nội dung chương trình cho đến đào tạo kĩ năng 
cho HSKT để đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội. 
Vì vậy, cần có sự thay đổi tư duy, đổi mới mục tiêu, 
chương trình và phương thức đào tạo. Cụ thể như sau: 
+ Cần thay đổi mục tiêu đào tạo theo hướng phát triển 
năng lực cá nhân và thúc đẩy khả năng sáng tạo. Đào 
tạo cần phải theo hướng phát triển dựa trên khả năng 
và nhu cầu của HS, phát huy tối đã năng lực cá nhân 
với Chuẩn đầu ra gồm nhiều kĩ năng mới, cần thiết, đáp 
ứng yêu cầu của xã hội 4.0. Bên cạnh đó, cần có nhiều 
chương trình đào tạo mới có tính liên ngành và xuyên 
ngành, nhiều chương trình đào tạo gắn với công nghệ 
4.0, các dự án khởi nghiệp mới 
+ Để cá nhân hoá đào tạo, cần xây dựng nhiều chương 
trình khác nhau; đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu, phát 
27SỐ ĐẶC BIỆT, THÁNG 11/2021
triển các ngành học mới như: ngành trí tuệ nhân tạo, 
phân tích dữ liệu Hệ thống giáo trình cũng cần thay 
đổi và cập nhật liên tục nhằm đáp ứng tình hình mới. 
Chú trọng đào tạo các kĩ năng mới như: tìm kiếm thông 
tin, tiếp cận và lưu trữ dữ liệu, giải quyết vấn đề, tư duy 
phản biện, sáng tạo, làm việc nhóm 
- GV cần phải kết hợp các phương pháp truyền thống 
(thuyết trình, đàm thoại, vấn đáp) với các phương 
pháp mới (giải quyết vấn đề, dạy học tình huống, dạy 
học định hướng hành động). Bên cạnh đó, GV cần 
vận dụng các phương pháp gắn với công nghệ hiện đại 
như: dạy học trực tuyến E-learning, phương pháp GD 
tích hợp khoa học, công nghệ, kĩ thuật 
c. Đa dạng hóa phương pháp và hình thức ĐG kết 
quả GD HSKT
Mô hình GD 4.0 hướng đến phát triển tư duy độc lập, 
sáng tạo của người học; do đó, trong ĐG kết quả GD, 
GV cần phải ĐG quá trình và cách thức HSKT nắm 
được kiến thức như thế nào, chú trọng đến kĩ năng cơ 
bản, năng lực cá nhân; không nên quá chú trọng đến 
kiến thức mà HSKT học được. Vì vậy, tuỳ theo mục 
đích GD, GV có thể kết hợp nhiều loại hình ĐG với nhau, 
như: ĐG tổng kết - ĐG quá trình, ĐG chính thức - ĐG 
không chính thức, ĐG truyền thống - ĐG thực đặc 
biệt là kết hợp ĐG truyền thống với ĐG thực. Bên cạnh 
đó, mỗi hình thức ĐG đều có một thế mạnh và hạn chế 
riêng. Do đó, để phát huy năng lực của HS, căn cứ vào 
tính chất và mục tiêu của từng nội dung bài giảng, GV 
cần đa dạng hoá hình thức ĐG như: trắc nghiệm, tự 
luận, vấn đáp, quan sát, làm thí nghiệm, tiểu luận, trình 
bày dự án Trong đó, chú trọng đến các phương pháp 
ĐG liên quan đến thực tiễn nhằm đảm bảo ĐG được 
năng lực thực của HSKT. Ngoài ra, trong ĐG kết quả 
GD của HSKT cần quan tâm và chú trọng đến các mặt 
sau: 
- Phát triển toàn diện HS: Để đáp ứng yêu cầu xã hội 
hiện nay, một nhân lực chất lượng cao tương lai cho 
xã hội giỏi về chuyên môn là chưa đủ, mà còn phải là 
người có nhân cách, phẩm chất tốt đẹp.
- Cá nhân hoá GD: Trong GD HSKT một kế hoạch 
GD cá nhân phải tạo ra quá trình học tập được cá nhân 
hoá, một phương thức GD hoàn toàn khác với GD 
mang tính đại trà hay tinh hoa hiện nay. Như vậy, trọng 
tâm của nền GD 4.0 là cá nhân hoá học tập. Vì vậy, 
ĐG cũng cần chú trọng đến sự cá nhân hóa dựa trên kế 
hoạch GD cá nhân, chú trọng đến việc phát hiện và phát 
huy năng lực của từng cá nhân. 
- Dân chủ hoá trong ĐG: ĐG kết quả học tập của HS 
phải đảm bảo công khai, công bằng, dựa vào mục tiêu 
đặt ra từ đầu; ĐG nên thay đổi từ một chiều sang đa 
chiều (GV đánh giá HS và ngược lại, HS tự đánh giá 
mình, HS đánh giá HS). GV cần tôn trọng những đánh 
giá của HS, bởi vì sự tham gia của HS trong việc ĐG sẽ 
làm tăng tính bình đẳng, khách quan, tăng thêm giá trị 
cho quá trình học tập.
- Ứng dụng hoá GD: ĐG nhằm hướng đến năng lực 
thực tiễn của HSKT; do vậy, đề kiểm tra, thi không nên 
quá chú trọng đến kiến thức lí thuyết mà cần quan tâm 
đến việc vận dụng các kiến thức đã học vào hòa nhập 
cộng đồng, học tập và đời sống hàng ngày của HS (có 
thể ĐG thông qua các hoạt động thực tiễn).
3. Kết luận 
Trong xu thế hiện nay, cuộc CMCN 4.0 đã và đang 
ảnh hưởng ngày càng trực tiếp và sâu sắc đến nền GD 
của Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền 
công nghiệp mới, GD HSKT cần phải đổi mới một cách 
căn bản, toàn diện, nhằm hướng đến mô hình “GD 4.0” - 
mô hình được đánh giá là phù hợp ở nhiều nền GD 
hiện đại trên thế giới hiện nay. Để đạt được mục tiêu 
đó, ĐG là một trong những nội dung cần phải đổi mới, 
vì thực trạng hiện nay ở các trường tại Việt Nam, “việc 
thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực 
chất”. Vì vậy, trước những tác động của cuộc CMCN 
4.0 và để hướng đến mô hình GD 4.0, GD Việt Nam cần 
phải đổi mới cả phương pháp và hình thức ĐG kết quả 
học tập của HSKT nhằm hướng đến mô hình “GD 4.0”.
Tài liệu tham khảo
[1] Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 
(2014), Nghị quyết số 88/2014/QH13 Quyết định về đổi 
mới Chương trình Sách giáo khoa phổ thông.
[2] Nguyễn Công Khanh (chủ biên), (2014), Kiểm tra, đánh 
giá trong giáo dục, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[3] Nguyễn Đức Minh (chủ biên), (2015), Đổi mới đánh giá 
kết quả giáo dục học sinh tiểu học, NXB Giáo dục Việt 
Nam.
[4] Patrick Grffin, (2014), Nemath Hermosa and Esther 
Care, Assessment in Education.
[5] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2021), Thông tư 22/2021/TT-
BGDĐT Quy định về đánh giá học sinh trung học cơ sở 
và trung học phổ thông.
[6] Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 
(2010), Luật số 51/2010/QH12, Luật Người khuyết tật.
[7] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2018), Thông tư số 03/2018/
TT-BGDĐT Quy định về giáo dục hòa nhập đối với 
người khuyết tật.
[8] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2020), Thông tư số 27/TT-
BGDĐT Quy định đánh giá học sinh tiểu học.
[9] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2011), Thông tư số 58/TT- 
BGDĐT Quy định về đánh giá xếp loại học sinh trung 
học cơ sở và học sinh trung học phổ thông.
[10] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2020), Thông tư 26/2020/TT-
BGDĐT Bổ sung một số điều của quy chế đánh giá xếp 
loại học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông.
[11] Diwan, P, (2017), Is Education 4.0 an imperative for 
success of 4th Industrial Revolution?, https://medium.
Nguyễn Đức Minh, Phạm Hà Thương
NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
28 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
THE ASSESSMENT OF EDUCATIONAL OUTCOMES OF STUDENTS 
WITH DISABILITIES IN THE CONTEXT OF EDUCATION 4.0
Nguyen Duc Minh1, Pham Ha Thuong2
1 Email: 
[email protected]
2 Email: 
[email protected]
The Vietnam National Institute of Educational Sciences
52 Lieu Giai, Ba Dinh, Hanoi, Vietnam
ABSTRACT: The article briefly presents the viewpoints and 
scientific theories for the assessment of educational outcomes for 
students with disabilities, education model 4.0 and requirements for 
assessing educational results for students with disabilities. On such 
basis, some suggestions are made for assessing the outcomes of 
students with disabilities towards ensuring the education quality for 
students with disabilities in the context of education 4.0.
KEYWORDS: Assessment, educational outcomes, students with disabilities, 
disability, education 4.0.
com/@pdiwan/is - education - 4-0- an –imperative 
– for- success –of- 4th – industrial – revolution – 
50c31451e8a4, Accessed on Jannuary 8, 2020.
[12] Trần Ngọc Giao - Lê Văn Tạc (đồng chủ biên), (2010), 
Quản lí giáo dục hòa nhập, NXB Phụ nữ.
[13] Klaus Schwab, (2018), Cuộc Cách mạng công nghiệp 
lần thứ tư (Bộ Ngoại giao dịch và hiệu đính), NXB 
Chính trị Quốc gia - Sự thật.