Đào tạo chuẩn mực quốc tế về Báo cáo tài chính (IFRS) cơ hội và thách thức đối với các trường đại học Việt Nam

Bộ Tài chính đang xây dựng đề án áp dụng hệ thống chuẩn mực quốc tế (CMQT) về Báo

cáo tài chính quốc tế (IFRS) ở Việt Nam. Một trong những vấn đề cấp thiết được đặt ra

trong quá trình xây dựng lộ trình áp dụng đề án là công tác đào tạo (ĐT) chuyên NKT,

kiểm toán theo IFRS ở các trường đại học (ĐH). Bài viết này, nhằm đánh giá tổng quan

tình hình tiếp cận ĐT KTQT tại các cơ sở ĐT, các trường ĐH hiện nay. Phân tích các cơ

hội, thách thức đặt ra và khuyến nghị về triển khai ĐT CMQT về Báo cáo tài chính (

BCTC) ở các trường ĐH thời gian tới

pdf6 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 24/05/2022 | Lượt xem: 174 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đào tạo chuẩn mực quốc tế về Báo cáo tài chính (IFRS) cơ hội và thách thức đối với các trường đại học Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 241 ĐÀO TẠO CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH (IFRS) CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM # PGS. TS Mai Ngọc Anh Khoa Kế toán – Học viện Tài chính Bộ Tài chính đang xây dựng đề án áp dụng hệ thống chuẩn mực quốc tế (CMQT) về Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ở Việt Nam. Một trong những vấn đề cấp thiết được đặt ra trong quá trình xây dựng lộ trình áp dụng đề án là công tác đào tạo (ĐT) chuyên NKT, kiểm toán theo IFRS ở các trường đại học (ĐH). Bài viết này, nhằm đánh giá tổng quan tình hình tiếp cận ĐT KTQT tại các cơ sở ĐT, các trường ĐH hiện nay. Phân tích các cơ hội, thách thức đặt ra và khuyến nghị về triển khai ĐT CMQT về Báo cáo tài chính ( BCTC) ở các trường ĐH thời gian tới. Từ khóa: ĐT KTQT, ĐT IFRS. Tổng quan về tình hình ĐT KTQT ở các trường ĐH Việt Nam hiện nay ĐT bậc ĐH đối với ngành kế toán (NKT) đã có lịch sử phát triển 60 năm ở Việt Nam. Một số trường ĐH có truyền thống ĐT về kế toán, phải kể đến là Học viện Tài chính (Trường ĐH Tài chính Kế toán Hà Nội trước đây); ĐH Kinh tế Quốc dân. Những năm 2000 trở về trước, NKT chủ yếu được ĐT ở một số trường ĐH khối kinh tế với lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm khoảng 8.000 đến 10.000 sinh viên. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số lượng doanh nghiệp (DN) mới thành lập tăng nhanh khiến nhu cầu lao động về kế toán tăng mạnh, dẫn đến việc các trường ĐH ngoài khối kinh tế cũng triển khai tổ chức ĐT NKT. Cho đến nay, đã có khoảng 300 cơ sở ĐT ĐH có ĐT NKT ở bậc ĐH. Hàng năm, có từ 50.000 đến 60.000 sinh viên tốt nghiệp NKT ra trường, tham gia vào thị trường lao động. * Định hướng ĐT ĐH NKT ở các trường ĐH Mặc dù chưa có đánh giá, phân loại một cách chính thức, tuy nhiên, các trường ĐH có ĐT NKT ở Việt Nam hiện nay được chia thành 2 khuynh hướng: ĐT cử nhân kế toán định hướng hàn lâm/nghiên cứu (Học viện Tài chính; ĐH KTQD; ĐH Kinh tế TPHCM,...) và ĐT cử nhân kế toán định hướng thực hành (các trường ĐH mới ĐT NKT: ĐH Công nghiệp Hà Nội, ĐH Kinh tế - Kỹ thuật CN, ĐH Quản lý KD và CN,...). Việc lựa chọn định hướng ĐT chi phối mạnh đến nhận thức, chủ trương, xác định mục tiêu, phương pháp tổ chức ĐT và đặc biệt là chương trình ĐT NKT. Qua đó, chi phối mạnh đến việc ĐT KTQT ở các trường ĐH thời gian qua. * Nhận thức và thiết kế học phần KTQT trong chương trình ĐT Nhận thức và quan điểm về ĐT kế toán dựa trên thông lệ kế toán quốc tế (KTQT) (Theo chuẩn mực KTQT hoặc thông lệ kế toán một số nước phát triển) kể từ khi Việt Nam đổi mới hệ thống kế toán theo hệ thống kế toán kinh tế thị trường (Từ đầu những năm 1990 đến nay) có thể được phân chia thành 2 giai đoạn: n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 242 - Giai đoạn từ đầu những năm 1990 đến đầu những năm 2000: Đây là giai đoạn mà Việt Nam thực hiện cải cách căn bản hệ thống kế toán, chuyển sang thực hiện hệ thống kế toán DN theo nền kinh tế thị trường. Các trường ĐH ĐT kế toán cũng đã tích cực đổi mới nội dung, chương trình ĐT. Sau 3 – 4 năm, về cơ bản các vấn đề của kế toán trong điều kiện kinh tế thị trường đã được truyền tải đầy đủ trong chương trình ĐT của các trường ĐH. Trong giai đoạn này, một số trường ĐH lớn có truyền thống ĐT kế toán cũng đã ĐT KTQT (Kế toán Mỹ, Kế toán Pháp) trong chương trình ĐT. Tuy nhiên, các môn học KTQT chỉ chiếm khoảng 5% dung lượng ĐT nghiệp vụ kế toán. Các trường ĐH mới tổ chức ĐT NKT hầu như ít quan tâm dến ĐT KTQT trong chương trình. - Giai đoạn từ sau năm 2000 đến nay: Đây là giai đoạn Hệ thống Kế toán Việt Nam thực hiện cải cách khá mạnh mẽ theo nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Việc ban hành các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) trên nền tảng nghiên cứu, kế thừa và vận dụng CMQT đặt ra yêu cầu nghiên cứu, học tập về chuẩn mực KTQT (IAS, IFRS). Ngoài ra, sự xuất hiện của các tổ chức Hiệp Hội nghề nghiệp quốc tế về kế toán cũng đã thúc đẩy nhận thức, tư duy hội nhập về kế toán và ĐT kế toán tại Việt Nam. Giới học thuật Việt Nam đã có hơn một thập kỷ tìm hiểu/nghiên cứu về kế toán các nước phát triển và đặc biệt là hệ thống chuẩn mực kế toán/CMQT về BCTC. Kết quả của quá trình này là nhận thức về yêu cầu ĐT KTQT trở nên rõ nét hơn, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng ĐT, ĐT nhân lực chất lượng cao NKT cho các hãng kiểm toán, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể khẳng định, hiện nay, chương trình ĐT của các trường ĐH Việt Nam đều có các môn học về KTQT ở các mức độ khác nhau, tên gọi và dung lượng khác nhau (Tên môn học/học phần có thể là: KTQT/chuẩn mực KTQT,... với dung lượng khoảng 2-3 tín chỉ, chiếm từ 5% đến 10% dung lượng ĐT các môn học cơ sở ngành và chuyên NKT). Các trường ĐT theo định hướng nghiên cứu có xu hướng quan tâm đầu tư/triển khai ĐT KTQT/chuẩn mực KTQT sớm hơn, mạnh mẽ hơn các trường ĐT theo định hướng thực hành. * Cách tiếp cận và công nghệ ĐT của các trường ĐH hiện nay Mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian qua, tuy nhiên, thực tế là cách tiếp cận ĐT kế toán ở các trường ĐH Việt Nam vẫn thiên về ĐT “kĩ thuật” tuyệt đối hóa các quy định của chế độ kế toán, đặc biệt là quá coi trọng việc ĐT các kĩ thuật hạch toán, ghi sổ. Việc ĐT các nguyên tắc/chuẩn mực kế toán đã được một số trường tiếp cận song chưa mang tính phổ biến. Theo đó, cách thức đánh giá kết quả trong các kì thi liên quan thường thiên về kĩ thuật và kĩ năng học thuộc. Vì vậy, ngay cả khi đưa các môn học/học phần KTQT vào giảng dạy, với công nghệ và cách tiếp cận ĐT như hiện nay cũng sẽ làm hạn chế nội dung, hiểu biết và khả năng nghiên cứu của người học. * Nguồn lực cho ĐT các môn học KTQT/Chuẩn mực KTQT Nguồn nhân lực giảng viên ĐT các môn học KTQT đã được các trường ĐH xây dựng trong thời gian qua, bao gồm các giảng viên được ĐT bài bản ở trình độ ĐH và trên ĐH tại các nước phát triển và các giảng viên được ĐT theo các chương trình ĐH/trên ĐH nước ngoài liên kết ĐH trong nước hoặc được ĐT theo chương trình của các hiệp hội nghề nghiệp quốc tế. Tuy nhiên, tùy theo từng cơ sở đào tạo, số lượng giảng viên có khả năng ĐT chuyên sâu về KTQT/chuẩn mực KTQT (ĐT bằng tiếng Anh) hiện chưa nhiều, chiếm không quá 20% số lượng giảng viên của các trường. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 243 Nguồn lực đầu tư về cơ sở vật chất của các trường đại học còn khá hạn chế, hệ thống học liệu định hướng theo KTQT tương đối nghèo nàn. Các trường ĐH chủ yếu tự biên soạn học liệu mang tính tổng quan về kế toán các nước phát triển như kế toán Pháp – Mỹ/hoặc CMQT về BCTC. Hiếm có trường ĐH nào nhập khẩu/sử dụng toàn bộ giáo trình chuẩn, nguyên bản của các trường ĐH nước ngoài có uy tín. ĐT kế toán theo IFRS là cơ hội tốt cho các trường ĐH Việt Nam Việc Bộ Tài chính xây dựng đề án và đưa ra chủ trương, lộ trình áp dụng IFRS ở Việt Nam có thể nhìn nhận như công cuộc cải cách kế toán lần thứ ba, đánh dấu một bước quyết định trong quá trình hội nhập toàn diện của kế toán Việt Nam với thế giới. Đồng thời, đặt ra áp lực rất lớn đối với nguồn nhân lực kế toán Việt Nam trước sự cạnh tranh từ nguồn nhân lực kế toán các nước trong cộng đồng kinh tế AEC vốn đã được ĐT bài bản về KTQT và có kĩ năng chuyên nghiệp. Vấn đề tổ chức ĐT chuyên sâu về KTQT tại các trường đại học được đặt ra như một tất yếu khách quan, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Trong phần tiếp theo, chúng tôi phân tích các cơ hội và những điều kiện tiền đề cho việc triển khai ĐT IFRS ở các trường ĐH Việt Nam: - Như đã bước đầu đề cập ở trên, ngay từ khi bước vào giai đoạn cải cách hệ thống kế toán Việt Nam đầu những năm 2000, nhận thức của giới học thuật Việt Nam về nghiên cứu thông lệ KTQT/kế toán ở các nước phát triển rất rõ ràng, tạo nên một xu hướng học tập và nghiên cứu trong suốt hơn 10 năm qua. Vì vậy, chủ trương, tư tưởng tiếp nhận và đưa nội dung IFRS vào giảng dạy ở các trường ĐH chắc chắn sẽ nhận được sự đồng thuận cao từ các cấp quản lý, lãnh đạo đến lực lượng cán bộ khoa học, cán bộ giảng dạy trực tiếp. Đây là một tiền đề thuận lợi lớn cho việc các trường ĐH ở Việt Nam đưa IFRS vào giảng dạy đại trà, đặc biệt là đối với các trường có truyền thống ĐT NKT với quy mô ĐT lớn. - Việc đưa IFRS vào giảng dạy là một cơ hội tốt để đổi mới nội dung, chương trình ĐT, đổi mới công nghệ ĐT ở các trường ĐH Việt Nam. Phân tích các diễn biến lịch sử có thể thấy gắn với các giai đoạn cải cách hệ thống kế toán Việt Nam từ những năm 1990 đến nay, mỗi khi có những thay đổi, cải cách căn bản về hệ thống kế toán, các cơ sở ĐT cũng có những thay đổi quan trọng trong nội dung, chương trình và cách thức ĐT. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, việc IFRS có lộ trình áp dụng ở Việt Nam sẽ tạo ra cú hích mạnh mẽ để cải cách hệ thống ĐT kế toán hiện nay bao gồm tất cả các yếu tố cơ bản của hệ thống, từ mục tiêu, chương trình ĐT, lực lượng giảng viên, phương tiện và công nghệ ĐT. - Trong điều kiện hiện nay, việc đưa IFRS vào giảng dạy trên diện rộng ở các trường ĐH có tính khả thi cao, đặc biệt tại các trường ĐT có truyền thống về kế toán và một số trường mới đào tạo nhưng có sự chuẩn bị tốt, đi tắt đón đầu xu hướng một cách hợp lý. Trên thực tế, nhiều trường ĐH hiện nay đã và đang triển khai các chương trình ĐT ĐH/sau ĐH liên kết với các trường ĐH ở nước ngoài về NKT. Ngoài ra, một số trường ĐH hiện nay đã và đang triển khai các chương trình ĐT chất lượng cao, chương trình ĐT tiên tiến NKT. Theo đó, các chương trình này đều ĐT nghiệp vụ kế toán theo định hướng KTQT/CMQT về BCTC. Vì vậy, kinh nghiệm, lực lượng giảng viên và công nghệ ĐT của các chương trình này hoàn toàn có thể nhân rộng và áp dụng một cách phổ biến. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 244 Một số thách thức đối với các trường ĐH khi ĐT IFRS Bên cạnh các yếu tố mang tính thời cơ và các điều kiện thuận lợi đã phân tích, việc giảng dạy bậc ĐH NKT theo hệ thống IFRS cũng sẽ gặp không ít thách thức, khó khăn cản trở như: - Nhận thức và quyết tâm giảng dạy các môn kế toán trên cơ sở IFRS của các cơ sở ĐT ĐH NKT không đồng đều dẫn đến sự phân tầng trong việc xây dựng chương trình đào tạo, cách thức tiếp cận ĐT. Hơn nữa, sự đòi hỏi về nguồn nhân lực của thực tiễn hiện nay khá đa dạng, phân thành nhiều tầng khác nhau. Thực tế, ngay cả khi IFRS được áp dụng ở Việt Nam theo đúng lộ trình, nguồn sử dụng nhân lực kế toán chủ yếu vẫn đến từ các DN nhỏ và vừa, là lực lượng chiếm đến 90% số lượng các DN và sử dụng khoảng 70% đến 80% lực lượng lao động kế toán. Phân khúc thị trường lao động chất lượng cao kế toán tương đối hẹp, tính cạnh tranh cao vì vậy không phải trường ĐH nào ĐT kế toán cũng hướng đến mục tiêu ĐT theo CMQT cho sinh viên. - Nguồn lực sẵn sàng đầu tư vào chương trình ĐT kế toán theo IFRS còn khá hạn chế: Một, nguồn lực về giảng viên dù đã được đầu tư song có thể nói, các giảng viên được ĐT bài bản ở nước ngoài hoặc các chương trình quốc tế chiếm tỷ trọng khiêm tốt trong tổng lực lượng giảng viên hiện có. Hơn nữa, số giảng viên này tập trung chủ yếu ở một số trường ĐH khối kinh tế có truyền thống ĐT NKT: Học viện Tài chính, ĐH KTQD, ĐH Kinh tế TP HCM... và một số trường mới triển khai ĐT như: ĐH Ngoại Thương/ĐH Hà Nội. Hai, nguồn lực tài chính của các trường ĐH hiện cũng rất khó khăn, nhiều trường đã thực hiện tự chủ tài chính nên việc đầu tư nguồn lực lớn cho một chương trình ĐT cần có thời gian chuẩn bị và tích lũy tài chính. - ĐT kế toán trên nền tảng áp dụng IFRS đòi hỏi sự đổi mới công nghệ ĐT, cách tiếp cận ĐT, cách học và đánh giá một cách triệt để. Đây là một thách thức không nhỏ và cần có thời gian để giải quyết từng bước. Quá trình ĐT kế toán phải chuyển từ tập trung vào các vấn đề kĩ thuật hạch toán, ghi sổ như hiện nay sang đặt trọng tâm vào các nguyên tắc, kĩ năng phân tích nghiệp vụ, ghi nhận, trình bày và thuyết minh. - Ngoài ra, rào cản về ngoại ngữ đối với cả người dạy và người học cũng là một thách thức đáng kể khi tiếp cận, nghiên cứu và học tập kế toán theo định hướng IFRS. Thực tế, các học liệu tốt về kế toán theo IFRS đều được xuất bản bằng tiếng Anh, đòi hỏi trình độ ngoại ngữ của người sử dụng phải đạt đến mức độ thành thạo. Với trình độ ngoại ngữ còn hạn chế như hiện nay, thách thức này cần có thời gian khá dài để vượt qua. Một số khuyến nghị triển khai ĐT IFRS Như đã phân tích ở trên, chủ trương ĐT kế toán ở các trường ĐH theo định hướng IFRS là một cơ hội tốt đồng thời đặt ra nhiều thách thức đối với các cơ sở ĐT ĐH ở Việt Nam. Đây là một xu hướng mang tính tất yếu, trong quá trình hội nhập của kế toán Việt Nam với khu vực và trên thế giới. Để việc ĐT kế toán theo IFRS sớm được thực hiện và đạt kết quả tốt, chúng tôi có một số khuyến nghị sau: * Đối với các trường ĐH Một, việc áp dụng IFRS ở Việt Nam là cơ hội lớn để các trường ĐH Việt Nam cải tiến chương trình ĐT theo hướng đạt chuẩn quốc tế về ĐT kế toán của IFAC, nâng tầm chất lượng n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 245 ĐT tiệm cận với các trường ĐH của các nước trong khu vực. Tuy nhiên, trong lộ trình triển khai, các trường đại học cần xác định rõ phân khúc của mình trong thị trường lao động kế toán: Đối với các trường đại học được xác định thuộc top đầu về quy mô và chất lượng ĐT, cần chuẩn bị và triển khai sớm các chương trình ĐT theo định hướng IFRS. Thông thường, để triển khai một chương trình ĐT mới cần thời gian khoảng 2-3 năm để nghiên cứu, chuẩn bị và triển khai. Như vậy, nếu tiến hành ngay công tác chuẩn bị chương trình ĐT theo định hướng IFRS thì dự kiến phải tới năm 2022 hoặc 2023 mới có lớp sinh viên đầu tiên ra trường, bắt kịp với lộ trình áp dụng IFRS ở Việt Nam. Hai, tùy theo điều kiện thực tế của từng trường, mục tiêu ĐT và phân khúc thị trường lao động kế toán, có hai phương án triển khai để tăng cường nội dung kế toán theo IFRS vào chương trình ĐT: - Có lộ trình bổ sung thêm một số môn học/học phần liên quan đến IFRS thay thế cho một số môn học/học phần theo chương trình ĐT hiện hành; Lồng ghép các nội dung IFRS vào các môn học kế toán. Phương án này phù hợp với các trường chưa có nhiều kinh nghiệm trong ĐT KTQT và xác định phân khúc ĐT kế toán theo IFRS không phải là mục tiêu trọng tâm. Sản phẩm của chương trình ĐT này là sinh viên tốt nghiệp vẫn chủ yếu nắm vững chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam và có những hiểu biết căn bản, ban đầu về IFRS. Tuy nhiên, sinh viên tốt nghiệp chưa thể thích ứng ngay với môi trường làm việc áp dụng đầy đủ IFRS. - Thiết kế một chương trình ĐT theo định hướng KTQT hoàn toàn mới, có tính chất như các chương trình ĐT tiên tiến, chất lượng cao hiện nay. Phương án này có thể áp dụng ở các trường đã có truyền thống ĐT kế toán lâu năm, có nguồn lực tốt về giảng viên, tài chính và có mặt bằng chất lượng sinh viên tốt. Đối với các trường ĐH này, phân khúc thị trường lao động kế toán chất lượng cao, có khả năng hội nhập quốc tế được xác định là trọng tâm. Sinh viên tốt nghiệp phải thành thạo ngoại ngữ, có hiểu biết sâu về IFRS và có thể thích ứng với môi trường làm việc áp dụng đầy đủ IFRS. Ba, bên cạnh việc đưa nội dung IFRS vào giảng dạy, một vấn đề quan trọng khác cần lưu ý là cần nhanh chóng đổi mới cách tiếp cận và công nghệ ĐT; Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập, nguyên cứu của sinh viên theo hướng chuyển mạnh từ cách thức ĐT thiên về kĩ thuật hạch toán, sổ sách kế toán sang cách ĐT coi trọng các nguyên tắc, phân tích bản chất nghiệp vụ và trình bày thông tin tài chính. * Đối với Bộ Tài chính Để IFRS đi vào thực tiễn công tác kế toán ở các đối tượng áp dụng theo đề án, công tác tuyên truyền cần đi trước một bước. Một mặt, công tác tuyên truyền được thực hiện thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, mặt khác thông qua các cơ sở ĐT. Muốn thực hiện công tác tuyên truyền hiệu quả cần nâng cao tính minh bạch trong quá trình nghiên cứu, hoạch định chính sách, trong đó lưu ý một số khía cạnh sau: - Công bố lộ trình rõ ràng về cập nhật hệ thống Chuẩn mực Kế toán Việt Nam và lộ trình áp dụng, mô hình áp dụng IFRS ở Việt Nam. Chỉ khi có lộ trình được công bố rõ ràng thì công tác chuẩn bị của các đối tượng áp dụng, các cơ sở ĐT mới có thể tiến hành một cách kịp thời và hiệu quả. - Tạo điều kiện để các đối tượng liên quan gồm các chuyên gia kế toán từ các DN, hiệp hội nghề nghiệp, giảng viên và nhà nghiên cứu tham gia tích cực vào quá trình nghiên n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 246 cứu, hoạch định các chính sách liên quan đến việc áp dụng IFRS ở Việt Nam (như xây dựng các thông tư hướng dẫn, các văn bản giải thích,...). - Phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp quốc tế (ACCA, ICAEW, CPA Australia,...) triển khai các chương trình ĐT căn bản, ĐT nâng cao, cập nhật IFRS cho các đối tượng liên quan. Với lộ trình dự kiến áp dụng IFRS trong khuôn khổ 5 năm tới, công tác đào tạo cần được triển khai sớm và tích cực mới có thể xây dựng được một lực lượng kế toán viên, giảng viên, chuyên gia tư vấn cơ bản đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. - Bộ Tài chính cần sớm phối hợp với các Hiệp hội nghề nghiệp, cơ sở ĐT xây dựng chương trình ĐT chuẩn IFRS của Việt Nam, hoặc thừa nhận các chứng chỉ ĐT IFRS của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như ACCA hoặc ICAEW.‡ ------------------------ Tài liệu tham khảo [1]. Bộ Tài chính (2005), Hệ thống VAS, NXB Tài chính [2]. Chính phủ (2013), Chiến lược Kế toán, Kiểm toán Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. [3]. Ngô Thế Chi, Phạm Văn Đăng (2012, 2013), Kế toán Việt Nam – Quá trình hình thành và phát triển, NXB Tài chính. [4]. Quốc Hội (2015) Luật Kế toán Việt Nam, năm 2015. [5]. Các Kỷ yếu Hội thảo Khoa học về Nâng cao chất lượng ĐT NKT trong thời kì hộp nhập AEC và TPP của ĐH Kinh tế Quốc dân, Học viện Tài chính, năm 2016.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdao_tao_chuan_muc_quoc_te_ve_bao_cao_tai_chinh_ifrs_co_hoi_v.pdf