Nơi cao nhất, đỉnh trời là nơi ngụcủa then Luông (còn gọi là Pú Cắm) và các
then dưới quyền ông như: then thạo, then vi, then Ná, then Lốm, then Bẩu, then
Chăng Đây là chốn cao nhất của Liên Pán Luông. Ởcõi thượng tầng này có
mường PhảPhi, nơi trịvì của bà Chí Lá (Thần Lửa). Bà có đôi mắt phóng ra lửa,
ngọn lửa đó sẽđốt cháy muôn vật. Tạo Hùng được Pú Cắm giới thiệu đến gặp bà,
suýt bịthiêu cháy, may mà thoát được.
Ởđây có mường Men Xòng là nơi có cuộc sống sung sướng, một xã hội lý
tưởng, lá cây rụng thành cá, thành cơm, người không già, áo mặc mãi vẫn mới:
“Mường Men Xòng đất rộng người đông/ Mường ấy lá cây rụng thành cá/ Lá
xăng rụng thành cơm/ Người không già cảđời đẹp mãi/ Áo không phai, mới mãi
không sờn”.
Có cảnh sống tốt đẹp như vậy, nhưng mường Men Xòng rất khó đến, vì phải
qua một con sông dữ“nậm cắt lếch, cắt tong” (sông cắt sắt cắt đồng.) Mọi thứ
qua đây đều bị cắt đứt, trừ vàng và bạc. Do đó muốn qua sông, bố con Kh ủn
Chưởng phải xin Pú Cắm bắc cầu vàng cầu bạc đểqua.
12 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1195 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Đề tài Khủn chưởng -Bản anh hùng ca / sử thi thái đặc sắc sưu tầm ở NghệAn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khủn chưởng - Bản anh hùng ca / sử thi thái đặc sắc sưu tầm ở Nghệ An
Trước Cách mạng Tháng Tám, để chỉ các tác phẩm như Iliad, Ôđixê, Ramayana…,
các nhà khoa học thường dùng thuật ngữ anh hùng ca. Thực ra thuật ngữ này chính
xác vì nó phản ánh được hai đặc điểm cơ bản của loại hình văn hoá nghệ thuật
đang bàn là:
I. MỞ ĐẦU
1. Thuật ngữ: anh hùng ca/sử thi
Trước Cách mạng Tháng Tám, để chỉ các tác phẩm như Iliad, Ôđixê,
Ramayana…, các nhà khoa học thường dùng thuật ngữ anh hùng ca. Thực ra
thuật ngữ này chính xác vì nó phản ánh được hai đặc điểm cơ bản của loại hình
văn hoá nghệ thuật đang bàn là:
- Về tính chất cơ bản: anh hùng;
- Về diễn xướng: ca.
Sau đó, xuất hiện hai thuật ngữ khác để chỉ cùng một đối tượng: trường ca và
sử thi. “Trường ca” bị phê phán là mơ hồ và giới khoa học khuyến khích việc
dùng “sử thi”.
Để định nghĩa sử thi, chúng tôi có một bài viết dài 23 trang “Thuộc tính cơ
bản của sử thi” (1), trong đó nêu lên 9 thuộc tính thuộc về ba phạm vi: nội dung,
thẩm mỹ và hình thức. Tác phẩm Khủn Chưởng là sử thi, theo nghĩa chung.
Chúng tôi đã chứng minh điều này trong bài viết dài 77 trang, ở sách Khủn
Chưởng, anh hùng ca Thái (2).
Nhưng riêng Khủn Chưởng, ngoài những thuộc tính cơ bản chung của sử thi,
còn có những điểm đặc sắc. Vì vậy, chúng tôi dùng thuật ngữ anh hùng ca. Khi
dùng như thế, chúng tôi mong được hiểu rằng Khủn Chưởng là một sử thi mà là
sử thi đặc sắc. Đây là trọng tâm của bài này.
2. Quá trình sưu tầm, khôi phục Khủn Chưởng
Chúng tôi bắt đầu lưu ý đến anh hùng ca Khủn Chưởng ở miền Tây Nghệ An
khi đọc bản kỷ yếu “Hội thảo quốc tế lần thứ nhất về các mặt văn học, lịch sử và
văn hoá của sử thi Thạo Hùng - Thạo Chương” tổ chức tại Thái Lan. Trong kỷ
yếu này có nhắc đến địa danh “Cửa Rào thuộc vùng núi miền Tây Nghệ An”.
Từ thông tin sơ lược đó, chúng tôi khảo sát sưu tầm ở Quỳ Châu, được sự ủng
hộ nhiệt tình của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Quỳ Châu, đặc biệt là các
đồng chí Bí thư Vi Văn Kỳ, Chủ tịch Phan Văn Mỹ và sự hợp tác chặt chẽ của
các cụ, các anh ở Quỳ Châu. Đến nay trong số các vị đó có người đã không còn
nữa. Nhân đây xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành.
Công việc sưu tầm và nghiên cứu, biên soạn được tiến hành trong 5 năm
(2001-2005), trải qua nhiều khó khăn, vất vả, cuối cùng kịp chào mừng Đại hội
Huyện Đảng bộ Quỳ Châu 2005.
II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
1. Tóm tắt
Khủn Chưởng hiện được biết đến có tám chương:
- Khủn Chỏm xin con.
- Cưới nàng Ăm Pím.
- Đánh Anh Cả, lấy nàng Ua Cà, Ăm Cái.
- Lấy Ngọm Muồn.
- Đánh Phạ Huồn.
- Chuộc xác, hồn Chưởng lên trời.
- Chuộc khí tài.
- Diệt mường.
2. Nội dung phản ánh của Khủn Chưởng
Đặc điểm cơ bản về nội dung của sử thi là phản ánh những vấn đề lớn ảnh
hưởng đến toàn xã hội. Đối với sử thi thiết chế xã hội, nội dung trên được cụ thể
hoá bằng ba nhiệm vụ anh hùng: đánh giặc, lấy vợ và làm lụng. Khủn Chưởng
cũng thực hiện ba nhiệm vụ trên.
a. Về đánh giặc
Khủn Chưởng sinh ra để đánh giặc. Thuở còn bé, ngay khi nhận lời đầu thai
xuống trần gian làm con của Khủn Chỏm, chàng đã đặt một trong những điều
kiện cho việc xuống trần là vua cha phải cung cấp vũ khí để sẵn sàng đánh giặc.
Cha con Chưởng đã tiến hành sáu cuộc chiến tranh: đánh Anh Cả, đánh thần
Rồng, hai lần đánh Phạ Huồn, đánh mường Pán và đánh Men Xòng.
Mở đầu cuộc đời chiến chinh ở trần thế của Chưởng là đánh Anh Cả.
Ua Cà và Ăm Cái là hai cô gái đẹp con bác Sầm, quan hệ gia đình với Chưởng
là con chị gái và con em trai. Anh Cả còn gọi là Tạo Quạ, tạo của mường Quạ,
đem quân sang uy hiếp bác Sầm, đòi lấy hai nàng. Bác Sầm cử người đi cầu cứu
Chưởng. Chàng tức giận kéo quân sang đánh. Anh Cả thua. Chưởng đưa hai
nàng về mường Hả Xái.
Cuộc chiến tranh thứ hai diễn ra giữa Chưởng và Phạ Huồn. Phạ Huồn là then
ở mường trời thấp có nàng con gái rất xinh đẹp là Xỉ Đá, còn gọi là Căm Dắt.
Chưởng ước ao được cưới nàng Xỉ Đá làm vợ nên cho người thân là Hản Pái và
Ai Quàng đến mường Phạ Huồn để dạm hỏi. Trong bữa rượu, người của Phạ
Huồn là Xày Con quá chén, buông lời xấc xược. Quàng, Hản bỏ về thưa với
Chưởng. Chàng tức giận kéo quân đi đánh mường Then. Cuộc chiến đấu xảy ra
ác liệt. Phạ Huồn phải cầu cứu các then. Cuối cùng Chưởng tử trận.
Hồn Chưởng cùng bảy triệu quân lính
lên trời. Để trả thù, Chưởng kéo quân lên đánh then Vắn, then Chằng, then Ná,
then Ví, then Chà... Các then đều thua. Chưởng lấy trăm nàng tóc thơm, cả kho
vàng kho bạc, chiếm toàn bộ mường Liên Pán và giao cho Ai Quang trấn giữ.
Đây là cuộc chiến tranh lần thứ ba do Chưởng chủ trì.
Hình tượng Khủn Chưởng có cội nguồn sâu xa từ lịch sử dân tộc Thái. Quá
trình ổn định địa bàn cư trú của người Thái ở Việt Nam (Tây Bắc, Mai Châu,
miền núi Thanh Nghệ) là một quá trình lâu dài. Từ khi di chuyển đến Việt Nam
cho đến khi ổn định sự phân ranh giới và vị thế các mường ở địa bàn cư trú này,
người Thái phải tổ chức chiến tranh liên tục với nhiều mục tiêu và đối tượng
khác nhau: chống chọi với tộc người cư trú trước, chống chọi với lực lượng đồng
tộc đối địch để khuất phục họ, đưa vị trí của châu mường mình lên cao hơn.
Như vậy, đề tài chiến tranh trong sử thi Khủn Chưởng chính là sự phản ánh
lịch sử chiến tranh nêu trên của người Thái.
b. Về lấy vợ
Việc đầu tiên khi xuống trần, Chưởng cưới nàng Ăm Pím, sau đó chiến thắng
Anh Cả, lấy hai nàng Ua Cà, Ăm Cái, tiếp theo là lấy Ngọm Muồn, đánh Phạ
Huồn là để lấy nàng Căm Dắt.
Chiến tranh giành lại phụ nữ, cướp phụ nữ trong sử thi là sự phản ánh một
thực tế lịch sử có thật của thời cổ đại. Nhưng sử thi là một sáng tác văn học nghệ
thuật nên đã phóng đại sự thật lên nhiều lần, về quy mô, về số lượng và theo kiểu
kỳ vĩ hoá sự kiện.
Tóm lại, về nội dung, Khủn Chưởng diễn tả 2 nhiệm vụ anh hùng sử thi, đánh
giặc và lấy vợ một cách dồi dào, phong phú và đặc sắc. Về thẩm mỹ, Khủn
Chưởng là sự biểu hiện phạm trù thẩm mỹ các anh hùng ca ở mức độ cao. Vậy,
Khủn Chưởng là áng anh hùng ca, hơn nữa là anh hùng ca đặc sắc của người
Thái, thuộc tiểu loại thiết chế xã hội, bên cạnh sử thi sáng thế Ăm ệt luông - Ăm
ệt nọi (Thái).
III. NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC
1. Khủn Chưởng có cả hai hình thức lưu truyền: bằng miệng và bằng chữ
viết
a. Về lưu truyền
Sử thi Khủn Chưởng chủ yếu được lưu truyền và bảo tồn bằng miệng dưới
hình thức diễn xướng. Đồng bào gọi là lái hắp Khủn Chưởng. Lái là truyện kể,
hắp là hát, lái hắp là truyện hát. Như vậy trong quan niệm cổ truyền, đồng bào
đã phân biệt trong kho tàng tự sự của mình có hai hình thức diễn xướng, một
phần diễn xướng bằng kể xuôi, một phần diễn xướng bằng hát. Và Khủn Chưởng
được xếp vào loại truyện hát. Một trong những đặc điểm về diễn xướng của sử
thi là hát, Khủn Chưởng ở trong trường hợp này.
Người Thái vốn có chữ viết từ lâu đời. Người Thái Quỳ Châu cũng có chữ viết,
một loại chữ thuộc hệ thống chữ pali như chữ Thái ở nhiều vùng Thái khác trong
nước và thế giới, đồng thời có một số nét riêng của địa phương.
Mặc dầu có chữ và đồng bào có ghi Khủn Chưởng lên giấy và cất giữ (chính
may mắn nhờ sách chữ Thái cổ mà chúng tôi mới có căn cứ đầy đủ để phục hồi lại
Khủn Chưởng), tuy nhiên đồng bào chỉ dùng chữ để giữ gìn di sản văn hoá phi vật
thể của dân tộc. Khi thưởng thức và lưu truyền, đồng bào vẫn dùng hình thức diễn
xướng - hát. Đây là tình hình chung của nhiều sử thi trên thế giới. Sử thi Gesar
của Tây Tạng và Mông Cổ là một ví dụ. Mặc dầu đã có văn bản từ những năm
1716, các nghệ nhân dân gian hát sử thi Gesar vẫn được công chúng hâm mộ. Họ
hát hoặc không có nhạc đệm, hoặc với chiếc đàn luýt độc đáo.
Sử thi Nhật Bản Heike Monogatari đã được ghi từ nguồn truyền miệng vào
sách cuối thế kỷ XIII thành một bộ gồm 13 tập. Tuy nhiên, truyền thống hát kể
bản sử thi này vẫn tiếp diễn. Cho đến nay, khắp nơi trên nước Nhật, người ta vẫn
được nghe các nhà tu hành hát - kể Heike Monogatari với cây đàn luýt 4 dây.
Khủn Chưởng không ngoài quy luật chung, dầu được ghi chép vào sách vở
nhưng cơ bản vẫn được lưu truyền bằng miệng dưới hình thức diễn xướng hát - kể.
Đặc điểm truyền miệng dẫn đến tính dị bản. Trong quá trình sưu tầm chúng tôi
đã gặp các nghệ nhân với các dị bản ở Châu Hạnh, Châu Tiến, Châu Thắng... Và
trong các vùng như thế lại có dị bản của các nghệ nhân: cụ O, cụ Chương, ông
Duyệt, ông Hán, cụ Kình, ông Tuyên, ông Bàn, anh Hà... Các dị bản ấy rất đa
dạng nhưng thống nhất, đại đồng tiểu dị. Nhờ đó chúng tôi đã lập lại được cấu
trúc để phục hồi Khủn Chưởng và được mọi người thông qua, chấp nhận.
Mặc dầu có chữ, người ta không tìm thấy tác giả của Khủn Chưởng. Những người
chủ sách đều nhận là ghi lại của người trước. “Người trước” đó chính là tập thể dân
tộc Thái. Rất dễ phân biệt sử thi Khủn Chưởng của người Thái với sử thi Đam San
của người Êđê, Đẻ đất đẻ nước của người Mường, Têwa Mưnô của người Chăm,
Dyông của người Bana, Otnrong của người Mơ Nông... Trong sử thi Chương của
người Thái cũng dễ phân biệt Chương Han của người Thái - Tây Bắc, Thạo Hùng -
Thạo Chương của người Thái Lào và Khủn Chưởng của người Thái - Quỳ Châu. Như
thế vừa có sản phẩm của dân tộc, vừa có sản phẩm của vùng trong dân tộc, cùng với
tác giả tập thể của chúng (tác giả dân tộc và vùng trong dân tộc). Vậy, lâu nay nói tác
giả vô danh cũng chưa thật hoàn toàn chính xác.
b. Về diễn xướng
Ngoài hình thức diễn xướng chính với tên gọi là lái hắp có nghĩa là truyện hát
như trên đã nói, Khủn Chưởng còn được diễn xướng bằng hình thức múa: Xe
Chương (múa Chương) và khóc: Hay Chương (khóc Chương). Việc múa và khóc
này được diễn xướng trong nghi lễ Ký xa (sẽ được trình bày tiếp theo).
2. Ảnh hưởng của thần thoại và nghi lễ
a. Khủn Chưởng thu hút mạnh mẽ thần thoại Thái vào mình
Trong quan niệm vũ trụ của người Thái, thế giới có 3 tầng theo chiều thẳng
đứng từ cao xuống thấp. Cao nhất là mường Trời, mường Phạ, còn gọi là mường
Then, nơi cư ngụ của các Then (tạm gọi là thiên thần). Xuống phía dưới, ngay sát
nơi vòm trời là thế giới của các vị tổ tiên. Các vị ngụ ở cõi riêng gọi là các đẳm,
gồm có đẳm hướn luụng và đẳm hướn nọi (đẳm nhà lớn và đẳm nhà bé).
Xuống dưới mường Phạ là mường Lùm, mường trần gian.
Dưới đất là mường Boọc Đai, thế giới của những người tí hon, chỉ lớn bằng
cối giã trầu. Họ cũng lao động sản xuất, lấy vợ lấy chồng, ở thành mường bản.
Mọi mặt giống như trần gian. Họ không ảnh hưởng gì đến chúng ta, tiêu cực
cũng như tích cực.
Thế giới 3 tầng của người Thái rất phức hợp, đa dạng. Trong phạm vi mục này,
chúng tôi chỉ giới thiệu thế giới thần linh ở mường Then mà chúng tôi thu thập
từ anh hùng ca Khủn Chưởng. Trong bài viết xin không nhắc lại đây là mường
Then được rút ra từ Khủn Chưởng.
Mường Then có 2 tầng, tầng trời thấp và tầng trời cao.
* Tầng trời thấp
Dưới tầng trời thấp là hạ xái, tức là mường trần gian. Hạ xái ngăn cách với
tầng trời thấp bởi một cây gỗ to chắn ngang phân chia ranh giới, gọi là hỏn kèn.
Ai đã bước qua đây thì không quay trở lại được. Chính nơi đây đoàn người do
Chưởng dẫn đầu đi xuống trần: “Chợt một con quái vật hiện ra. Các nàng sợ
chạy tán loạn mỗi người một ngả”.
Tiếp đến là Tôn Thạt, Pú Đói, Đổng Cu. Sau đó là một mường lớn, mường
Túm Váng, nơi trị vì của Then Đín, tức là Phạ Huồn - người đã chiến đấu quyết
liệt với Khủn Chưởng và đã hạ sát Chưởng nơi cánh đồng Nà Khang thuộc địa
phận Tum Váng. Đi lên nữa là Huống Xáo (sàn chơi của con gái). Tiếp theo là
một trạm nghỉ chân, Pặc Xa Lá Pán Nọi (Liên Pán Nọi). Phía trên là một mường
lớn nữa. Đó là mường Pán do Ai Quang - tướng thân cận của Chưởng - trị vì khi
ông lên trời.
(Trong Mo Khuôn-mo chiêu hồn của người Thái Tây Bắc có nói đến mường
Khủn Chưởng - Ai Quang:
- Ta lên với chùm hoa riềng lá vàng
Mường Khủn Chưởng Ai Quang
Vào cửa tài xe chỉ
Vào cửa giỏi bện gai (3))
* Tầng trời cao
Ở đây có nhiều ao lớn. Nọng Xáng, Nọng Ương là nơi Khủn Chưởng đã thử
sức bằng cách bắt rồng. Chưởng nói: Chúng ta lên Nọng Xáng bắt rồng/ Để xem
thử lộc trời cho xuống/ Cai quản mường trần giới được không.
Ngoài ao rồng, còn có Nong U Lúc - U Lá, Nong Hành Cốp Căm (nơi có con
ếch ăn mặt trăng):
Ếch ăn trăng, nạ dòng gõ mõ/ Gái gõ chày cứu lấy nàng trăng.
Một thắng cảnh nổi tiếng là Phả Bún, Xuổn Cuối Mường Phá (Lèn Lộc, vườn
chuối mường trời). Đây là nơi trai gái thử duyên số, có nhiều hang động kỳ thú:
Phả Đai, Phả Ké, Phả Màn, Phả Mựn Tựt Tứ, Phả Cáng Phả Nọi, Phả Dúa…
Ngọm Muồn và Khủn Chưởng cũng đến nơi đây, cùng các chàng trai cô gái xin
lộc, thử số.
Để thử, mọi người phải lấy quả cau, mân, hoặc trứng ném vào một cái chiêng
xoay tít:
“Đi qua đây xem chiêng lớn/ Xoay tít mù không dừng một giây/ Ta đứng xa
ném lu nằm giữa/ Ai ném sai chịu làm đầy tớ/ Ném trúng tim làm tạo cai mường”.
May mắn thay, Khủn Chưởng đã ném đúng tim chiêng:
Chưởng hùng ném trúng vào tim giữa/ Tiếng chiêng ngân bay bổng lên trời/
Ông Thẻn Tành nhà trời nghe tiếng/ Tiếng chiêng ngân bay bổng ào ào”.
Sau khi thử lộc, Chưởng được lộc “làm tạo cai mường”. Tiếp theo Chưởng
cùng Ngọm Muồn lên “thử duyên chim én”. Cách thử là xe dây thắt thành vòng,
giơ lên cao, én sẽ liệng đến và bị thắt lại. Nếu được én xanh thì sẽ gặp vợ chua
ngoa, én chân đen gặp vợ ghen tuông. Khủn Chưởng bắt được én chân đỏ thếp
vàng, sẽ gặp người vợ: “Về đến nhà thấy nàng đon đả. Việc gia đình sắp xếp
đảm đang”, đó chính là nàng Ngọm Muồn.
Nơi cao nhất, đỉnh trời là nơi ngụ của then Luông (còn gọi là Pú Cắm) và các
then dưới quyền ông như: then thạo, then vi, then Ná, then Lốm, then Bẩu, then
Chăng… Đây là chốn cao nhất của Liên Pán Luông. Ở cõi thượng tầng này có
mường Phả Phi, nơi trị vì của bà Chí Lá (Thần Lửa). Bà có đôi mắt phóng ra lửa,
ngọn lửa đó sẽ đốt cháy muôn vật. Tạo Hùng được Pú Cắm giới thiệu đến gặp bà,
suýt bị thiêu cháy, may mà thoát được.
Ở đây có mường Men Xòng là nơi có cuộc sống sung sướng, một xã hội lý
tưởng, lá cây rụng thành cá, thành cơm, người không già, áo mặc mãi vẫn mới:
“Mường Men Xòng đất rộng người đông/ Mường ấy lá cây rụng thành cá/ Lá
xăng rụng thành cơm/ Người không già cả đời đẹp mãi/ Áo không phai, mới mãi
không sờn”.
Có cảnh sống tốt đẹp như vậy, nhưng mường Men Xòng rất khó đến, vì phải
qua một con sông dữ “nậm cắt lếch, cắt tong” (sông cắt sắt cắt đồng.) Mọi thứ
qua đây đều bị cắt đứt, trừ vàng và bạc. Do đó muốn qua sông, bố con Khủn
Chưởng phải xin Pú Cắm bắc cầu vàng cầu bạc để qua.
b. Khủn Chưởng được người Thái chuyển thành nghi lễ - ký xa
Ký xa là lễ hội lớn của các ông mo một, thường được tổ chức 2, 3 năm một
lần. Cũng như nhiều lễ của các mo then khác, ký xa, theo quan niệm của nhân
dân là tạ ơn âm binh của ông mo. Đồng thời mỗi lần làm ký xa, ông mo lại được
thăng một cấp (vì vậy có nơi gọi là lễ cấp sắc).
Ký xa gồm 27 tiết mục (theo Lương Sơn Hán), ví dụ như: múa khai hội, chống
nhà, quét nhà, trải chiếu, đóng cọc cột voi... Trong số đó mục trực tiếp liên quan
đến Khủn Chưởng là mục thứ 11, khóc Chưởng (hay Chưởng).
Khủn Chưởng được tôn sùng là một người anh hùng của dân tộc, bách chiến
bách thắng. Vì vậy trong lễ lớn, huy động nhiều âm binh cần có anh hùng
Chưởng để điều binh khiển tướng(4).
Trong lễ ký xa, người ta diễn màn khóc Chưởng của anh hùng ca Khủn
Chưởng. Chưởng được chuộc xác từ chiến trường Túm Vàng đem về quê. Tất cả
dân mường bản đều đau đớn kêu gào khóc lóc. Nội dung trên được “sân khấu
hoá” thành màn khóc Chưởng.
Trong màn này mo chủ ăn mặc chỉnh tề, đầu đội khăn đỏ, mặc áo lễ của dân
tộc, một ông mo đọc lời mời Chưởng. Khi đọc hết đoạn thì hồn Chưởng nhập
vào mo chủ, ông chết, ngã xuống giữa 2 cô gái têm trầu, hai cô đỡ lấy Chưởng.
Lúc bấy giờ ông mo “hay Chưởng” (khóc Chưởng) ăn mặc chỉnh tề, đầu đội
khăn thêu, tay chống gươm, đứng hát bài khóc Chưởng (trích đoạn đầu chương
Đánh Phạ Huồn, trong phần Xốn Cháng ồm của anh hùng ca Khủn Chưởng):
“Cu cườm gáy ngọn cành đa/ Chim muông vỗ cánh về nơi rừng già/ Hiu hiu
trong cảnh chiều tà
Nhìn lên ngọn núi sương đà trắng phau/ Tiếng diều ai oán đêm thâu/ Kêu trên
đồng vắng, nỗi đau chạnh lòng/ ...
Hết đoạn quy định, ông hát:
“Dậy đi Chưởng ơi!/ Tắm gội đi, máu đào tanh tưởi!”
Nghe đến đó, Chưởng đứng dậy, mỗi tay cầm một thanh gươm, miệng hô
“Chém! Chém”. Mọi người mừng vui thắng lợi, cồng chiêng nổi lên. Tất cả các
ông mo và các cô gái đứng dậy múa vui, điệu múa Chưởng (xải Chưởng) quanh
vò rượu cần ba vòng. Sau đó, hiệu cồng thu quân nổi lên, tất cả trở về vị trí uống
rượu, nghỉ ngơi.
Tiếp theo là các màn diễn kế tiếp (5).
IV. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Đồng bào Thái miền Tây Nghệ An đã lưu giữ một một bản anh hùng ca đặc
sắc mà chúng ta có thể đánh giá như James R.Chamberlain viết về người anh em
sinh đôi của Khủn Chưởng (Thạo Hùng - Thạo Chương): “Có thể xếp vào trong
hàng những kiệt tác thế giới, tương đương với các sử thi Hy Lạp của Homer -
Iliat, Ôditxê, hoặc các sử thi Ấn Độ - Ramayana và Mahabharata” (6).
Ngoài giá trị trên, Khủn Chưởng lại có những điểm đặc sắc riêng về lưu truyền,
diễn xướng và có mối quan hệ rất khăng khít với thần thoại và nghi lễ.
2. Để bảo tồn và phát huy bản anh hùng ca đặc sắc này, đề nghị tỉnh Nghệ An
và các vùng Thái có chính sách tôn vinh Khủn Chưởng, duy trì hoạt động diễn
xướng nó trong dân gian và đưa vào dạy trong trường học./.
Chú thích
(1) Phan Đăng Nhật: Thuộc tính cơ bản của sử thi, Tạp chí văn hoá dân gian, số
3-2003, tr.3-23.
(2) Phan Đăng Nhật (chủ biên), Vi Văn Kỳ (cố vấn): Khủn Chưởng, anh hùng ca
Thái, NXB Khoa học xã hội, H.2005, xem Bài nghiên cứu, tr.13-90.
(3) Vương Trung sưu tầm và dịch : Mo Khuôn, NXB Văn hoá dân tộc, H.1999,
tr.156.
(4) Trong lễ Kin chiêng bók mạy của đồng bào Thái ở Thanh Hoá, vai trò của
nhân vật Chưởng quán xuyến các tiết mục của lễ. Chưởng là tổ sư của ông mo,
nhập vào ông mo, hoặc bà tày, hoạt động xuyên suốt từ “Đánh thức Chưởng”, qua
23 tiết mục, mà mục cuối cùng là Chưởng về trời. Các tiết mục đó là Đánh thức
Chưởng, Chưởng soi hoa, Chưởng hái hoa, Chưởng phi ngựa, Chưởng mời thần
giữ lửa, Chưởng đọc chữ, Chưởng thổi khèn bè, Người Xá đến cám ơn Chưởng,
Người Lào đến cám ơn Chưởng, người Kinh đến cám ơn Chưởng..., Chưởng về
trời (Lễ tục Kin chiêng bók mạy của dân tộc Thái, trong sách Lễ tục lễ hội truyền
thống xứ Thanh, Lê Huy Trâm, Hoàng Anh Nhân, NXB Văn hóa dân tộc, H, 2001,
tr. 102-129).
(5) Tài liệu do cụ Lang Sơn Hán cung cấp.
(6) James R.Chamberlain: A critical framework for the study of Thao Houng
Thao Cheuang, ed. Sumitr Pitiphat, Bangkok; Thammasat University, Thai Khadi
research Institute, 1998, p.1.
■ GS.TSKH. Phan Đăng Nhật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lich_su_vhoa_15__0484.pdf