Đề tài Mô tả một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên ở một số xã/phường tại Hà Nội

Việt Nam hiện nay có khoảng 17 triệu trẻ vị thành niên trong độ tuổi từ 10-19, chiếm khoảng 22% dân số 5. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), lứa tuổi vị thành niên bắt đầu từ 10-19 tuổi. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em thành người lớn. Nó được đánh dấu bằng những thay đổi đan xen nhau về thể chất, trí tuệ, và mối quan hệ xã hội từ giản đơn chuyển sang phức tạp 14.

Cùng với sự phát triển không ngừng của đời sống kinh tế-xã hội, khoa học kỹ thuật, vị thành niên ngày nay có nhiều điều kiện để học tập và phát triển hoàn thiện cá nhân. Tuy nhiên, trẻ vị thành niên cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức: chịu sức ép lớn về việc học tập và dự kiến tương lai từ gia đình, nhà trường và xã hội; có quá nhiều thông tin nhưng thiếu sự chọn lọc do đó dễ nhận được những thông tin sai lệch hoặc không phù hợp lứa tuổi, khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm và dễ bị lôi kéo bởi quá nhiều các tệ nạn xã hội 5. Những khó khăn, thách thức này là những yếu tố nguy cơ dễ làm trẻ gặp phải những vấn đề sức khoẻ.

Khác với các thời kỳ khác, ở lứa tuổi này, trẻ rất nhạy cảm, tò mò nên dễ bị bạn bè hoặc người khác lôi kéo. Từ đó, ở trẻ sẽ hình thành một số thói quen không tốt như hút thuốc lá, uống rượu bia Thêm vào đó, cuộc sống hiện đại với những điều kiện vật chất đầy đủ khiến nhiều trẻ có lối sống tĩnh tại lười hoạt động dẫn tới nhiều bệnh tật như béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư.

Ở nước ta, các nghiên cứu về lứa tuổi vị thành niên nói chung còn chưa nhiều, đặc biệt là những nghiên cứu về những hành vi nguy cơ đối với sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên.

Hiện nay, có rất nhiều hành vi nguy cơ đối với sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên, tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi chỉ xin tiến hành khảo sát một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên như hút thuốc lá, uống rượu/bia và hoạt động thể lực tại 4 xã/phường ở Hà Nội: Cầu Dền, Bạch Đằng, Phạm Đình Hổ và Xuân Đỉnh. Tên đề tài nghiên cứu là “Mô tả một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên ở một số xã/phường tại Hà Nội ”.

 

doc55 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Mô tả một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên ở một số xã/phường tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặt vấn đề Việt Nam hiện nay có khoảng 17 triệu trẻ vị thành niên trong độ tuổi từ 10-19, chiếm khoảng 22% dân số [5]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), lứa tuổi vị thành niên bắt đầu từ 10-19 tuổi. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em thành người lớn. Nó được đánh dấu bằng những thay đổi đan xen nhau về thể chất, trí tuệ, và mối quan hệ xã hội từ giản đơn chuyển sang phức tạp [14]. Cùng với sự phát triển không ngừng của đời sống kinh tế-xã hội, khoa học kỹ thuật, vị thành niên ngày nay có nhiều điều kiện để học tập và phát triển hoàn thiện cá nhân. Tuy nhiên, trẻ vị thành niên cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức: chịu sức ép lớn về việc học tập và dự kiến tương lai từ gia đình, nhà trường và xã hội; có quá nhiều thông tin nhưng thiếu sự chọn lọc do đó dễ nhận được những thông tin sai lệch hoặc không phù hợp lứa tuổi, khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm và dễ bị lôi kéo bởi quá nhiều các tệ nạn xã hội [5]. Những khó khăn, thách thức này là những yếu tố nguy cơ dễ làm trẻ gặp phải những vấn đề sức khoẻ. Khác với các thời kỳ khác, ở lứa tuổi này, trẻ rất nhạy cảm, tò mò nên dễ bị bạn bè hoặc người khác lôi kéo. Từ đó, ở trẻ sẽ hình thành một số thói quen không tốt như hút thuốc lá, uống rượu bia… Thêm vào đó, cuộc sống hiện đại với những điều kiện vật chất đầy đủ khiến nhiều trẻ có lối sống tĩnh tại lười hoạt động dẫn tới nhiều bệnh tật như béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư... ở nước ta, các nghiên cứu về lứa tuổi vị thành niên nói chung còn chưa nhiều, đặc biệt là những nghiên cứu về những hành vi nguy cơ đối với sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên. Hiện nay, có rất nhiều hành vi nguy cơ đối với sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên, tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi chỉ xin tiến hành khảo sát một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên như hút thuốc lá, uống rượu/bia và hoạt động thể lực tại 4 xã/phường ở Hà Nội: Cầu Dền, Bạch Đằng, Phạm Đình Hổ và Xuân Đỉnh. Tên đề tài nghiên cứu là “Mô tả một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên ở một số xã/phường tại Hà Nội ”. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chung: Khảo sát một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ của lứa tuổi vị thành niên ở bốn xã/phường Hà Nội năm 2004. Mục tiêu cụ thể: Mô tả một số thông tin chung về nhóm vị thành niên ở 4 xã/phường của Hà Nội năm 2004. Mô tả thói quen hút thuốc lá, sử dụng rượu bia và thói quen tập luyện trong lứa tuổi vị thành niên 4 xã/phường của Hà Nội năm 2004. Tìm hiểu một số mối liên quan của thói quen hút thuốc lá, sử dụng rượu bia và thói quen tập luyện ở trẻ vị thành niên với các yếu tố gia đình và xã hội. CHƯƠNG 1 Tổng quan 1.1 Đặc trưng của vị thành niên Thuật ngữ Adolescent được đưa ra vào năm 1904 theo đề xuất của nhà tâm lý học G.Stanley Hal, nhằm để chỉ một thời kỳ quá độ từ trẻ con chuyển lên người lớn. Nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hoặc đang trưởng thành. Theo từ ghép gốc Hán thì khái niệm trên được thể hiện trong thuật ngữ “Vị thành niên”. Theo Từ điển tiếng Việt thì “Vị thành niên là những người chưa đến tuổi trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình” [11]. Vị thành niên (VTN) là một giai đoạn trong quá trình phát triển của con người với đặc điểm lớn nhất là sự tăng trưởng nhanh chóng để đạt tới sự trưởng thành về mặt sinh học của cơ thể, sự tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm xã hội, định hình nhân cách để có thể nhận (lãnh) đầy đủ trách nhiệm mà xã hội giao phó. Giai đoạn này được hiểu một cách đơn giản là giai đoạn “sau trẻ con và trước người lớn” của mỗi cá thể. Trong độ tuổi này, con người có nhiều sự thay đổi về tâm lý, thể chất, trí tuệ và mối quan hệ xã hội cũng như trong gia đình. Những thay đổi này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như gia đình, môi trường tự nhiên và xã hội, dân tộc, tập quán... ở các nước đang phát triển, thời kỳ VTN không hoàn toàn được thừa nhận và chú ý. Khác hẳn với những nước này, ở các nước phát triển, người ta thừa nhận giai đoạn sau trẻ con và trước người lớn của quá trình phát triển cá thể đó là giai đoạn vị thành niên. Chính sự thừa nhận này đã dẫn tới việc xây dựng những chính sách quan tâm giáo dục cho một con người sắp bước vào tuổi trưởng thành sao cho họ có đủ kiến thức-nhân cách phù hợp với sự đòi hỏi của xã hội [14], [19], [20]. Theo WHO, lứa tuổi VTN kéo dài trong khoảng từ 10 đến 19 tuổi. Người ta chia tuổi vị thành niên thành 3 giai đoạn: giai đoạn sớm (từ 10 – 14/15 tuổi), giai đoạn giữa (14/15 – 17 tuổi) và giai đoạn muộn (từ 18 – 19 tuổi) [5]. Căn cứ vào thực tế tình hình Việt Nam, Vụ Sức khoẻ sinh sản – Bộ Y tế (trước đây là Vụ Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hoá gia đình thuộc Bộ Y tế) đã đưa ra đề nghị xếp tuổi VTN thành hai nhóm tuổi: nhóm 1 từ 10 đến 14 tuổi, nhóm 2 từ 15 đến 19 tuổi [20]. Thời kỳ VTN được đặc trưng bởi sự phát triển rất nhanh cả về trí tuệ và thể lực. Giai đoạn này tốc độ phát triển chỉ kém tốc độ phát triển của bào thai và những tháng đầu của trẻ em mà thôi. Trong thời kỳ này, hệ cơ và hệ xương phát triển nhanh chủ yếu về chiều dài của cơ, xương. Từ 15 đến 17 tuổi, chiều cao của VTN tăng trung bình 5 – 6 cm/năm, sang đến tuổi 18 chiều cao chỉ tăng khoảng 2 – 3 cm. Các kích thước Nhân trắc học cho thấy về chiều ngang và cân nặng của trẻ VTN cũng có tăng nhưng không tăng nhanh bằng chiều cao. Người ta cho rằng 25% chiều cao có được của con người đạt được ở lứa tuổi VTN, kết thúc tuổi dậy thì cũng là lúc kết thúc tăng trưởng về chiều cao [14], [22]. Cơ bắp ở tuổi 17 – 18 cũng bắt đầu nở nang và tăng thêm về sức mạnh của cơ [21]. Hệ tuần hoàn và hệ hô hấp cũng phát triển, tuy nhiên khả năng dẻo dai, bền bỉ chưa nhiều, hoạt động thể lực chưa đạt được mức cao như ở lứa tuổi thanh niên. Hưng phấn tăng nhanh, các trung khu dưới vỏ phát triển và hoạt động mãnh liệt hơn so với hoạt động của vỏ não [14]. Đối với nữ giới, kinh nguyệt là dấu hiệu của tuổi “dậy thì”. Khi có kinh nguyệt có nghĩa là đã có khả năng mang thai. Tuy nhiên ở lứa tuổi VTN, buồng tử cung chưa phát triển đầy đủ, nếu mang thai thường không mang đủ tháng, dễ sảy thai hoặc đẻ non. Bên cạnh hiện tượng kinh nguyệt, dậy thì ở nữ còn được biểu hiện ở sự phát triển của tuyến vú, lông mu và tuyến mồ hôi. Tuổi dậy thì ở nam thường chậm hơn nữ khoảng 2 năm, từ 14 đến 18 tuổi. Trong thời gian này, tinh hoàn được hoàn thiện và bắt đầu sản xuất được tinh trùng, tuy nhiên sau một năm mới thấy xuất tinh lần đầu tiên. Bên cạnh đó là các dấu hiệu khác như sự phát triển lông mu, lông và râu ở một số nơi khác; thay đỏi hình thể kích thước của dương vật, xuất tinh lần đầu tiên và xuất tinh không chủ động; phát triển chiều cao, thay đổi giọng nói, phát triển tuyến bã và tuyến mồ hôi [20]. Thời kỳ này so với cả cuộc đời của một con người không dài, nhưng lại có nhiều biến động về tâm lý. Các hiện tượng tâm lý trong giai đoạn này có đặc điểm biến động nhanh, mạnh, đột ngột và có những đảo lộn cơ bản, có tình trạng mất cân đối của các hiện tượng tâm lý. Một giai đoạn mà các hiện tượng tâm lý và các thuộc tính tâm lý dễ theo hướng “bùng nổ”, dễ đi đến cực đoan. Tuổi VTN thường có những hành vi, những thử nghiệm biểu hiện sự hào phóng, phù phiếm hoặc có nguy cơ gây hại cho bản thân và cho xã hội. VTN thích thử sức mình, thích tự khẳng định mình và thích thoát ly khỏi sự kiểm soát của gia đình hay người lớn tuổi, đôi khi cũng dễ bị tiêm nhiễm những hành vi, ứng xử lệch chuẩn mực đạo đức hay vi phạm pháp luật bởi sự lôi kéo của bè bạn như hút thuốc lá, uống rượu/bia hay có những chế độ ăn uống, tập luyện thiếu khoa học. Đây cũng là lứa tuổi đang định hình và phát triển nhân cách, nhiều yếu tố tâm lý chưa được hình thành vững chắc, quan điểm sống, thế giới quan chưa được rõ ràng, mà đặc trưng cơ bản là sự mâu thuẫn trong nội dung tâm lý giữa một bên là tính chất quá độ không còn là trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn và một bên là “ý thức về bản thân” phát triển mạnh mẽ, có ý nghĩ cho mình là người lớn và đòi hỏi phải được đối xử như người lớn [16]. Vì vậy, khi tiếp cận và giải quyết những vấn đề của lứa tuổi VTN không thể không xem xét trong tổng thể bối cảnh chung, cũng như xem xét đến những đặc thù riêng của lứa tuổi và đặc thù riêng của từng miền, từng nền văn hoá, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Nhìn chung về tâm lý ở tất cả mọi nơi, tuổi VTN có 5 lĩnh vực biểu hiện cần được quan tâm trong quá trình tiếp cận đánh giá và giải quyết những vấn đề của VTN: - Lứa tuổi VTN luôn muốn “thoát “ ra khỏi sự kiểm soát của gia đình để hoà vào cộng đồng bạn bè hoặc tín ngưỡng, nhằm đạt được sự độc lập. Sự thay đổi dễ kèm theo những hành động bất trị. - Cố gắng tự khẳng định mình và cố gắng đạt được những điều mình muốn. Nhân cách giới tính cũng được phát triển. - Cố gắng học cách biểu lộ cảm xúc. Là giai đoạn chuẩn bị cho mối quan hệ nam - nữ, thân mật hơn trong quan hệ, phát triển khả năng muốn yêu và muốn được yêu. - Tích hợp các vấn đề thu nhận được từ cuộc sống, từ các mối quan hệ bạn bè, người trung gian, tổ chức thanh niên...từ đó xây dựng những cơ sở tạo ra các quy định mới của giá trị. - Tư duy và trí tuệ phát triển, tiếp thu cái mới một cách nhanh nhậy. Tuy nhiên sự phân tích đúng sai, phải trái còn chưa có nhiều kinh nghiệm. Những thay đồi tâm, sinh lý cũng có khi làm cho vị thành niên dễ bị phân tán tư tưởng không tập trung cho việc học tập [6]. Thông thường, trẻ VTN rất ít ốm đau, mà nếu có bị ốm thì thường khỏi rất nhanh chóng. Chính vì thế, các chương trình chăm sóc sức khoẻ không được đầu tư nhiều vào lứa tuổi này. Trên thực tế, cũng như mọi thời kỳ khác, trẻ VTN cũng phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về sức khoẻ. Theo thống kê, có khoảng 20% trẻ VTN Mỹ và Canada gặp ít nhất một vấn đề về sức khoẻ. Riêng tại Mỹ, 25% số trẻ VTN đang gặp phải những rắc rối ở trường, phạm tội, quan hệ tình dục không an toàn hay lạm dụng các chất kích thích như rượu, thuốc lá, ma tuý, thiếu sự chăm sóc và giáo dục ở gia đình [27], [29]. . VTN nước ta với một lực lượng đông đảo, có vị trí, vai trò quan trọng đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong tương lai gần, lực lượng này sẽ là lực lượng hùng hậu, là nguồn lực quan trọng trong việc thực hiện và hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. “Sự nghiệp đổi mới đất nước có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững chắc theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” (Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, Hà Nội, tr. 82) [10]. Do vậy, việc chăm sóc và hướng dẫn cho lứa tuổi này có một lối sống tốt là nhiệm vụ rất quan trọng. Tóm lại, thời kỳ VTN đánh dấu những bước phát triển lớn về mặt xã hội, hướng thoát ra khỏi phạm vi gia đình để hoà vào tập thể cùng lứa tuồi, cùng nhóm và phát triển những kỹ năng mới. Những thành tựu văn hoá - xã hội, kinh tế, khoa học kỹ thuật mới sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển của trẻ. Tuy nhiên, VTN cũng đứng trước những mặt trái của xã hội và những tệ nạn xã hội, dễ bị lôi cuốn và trở thành những nạn nhân đáng thương. 1.2 Một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên Hiện nay, có rất nhiều hành vi nguy cơ đối với sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên, tuy nhiên trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ xin tiến hành khảo sát một số yếu tố hành vi nguy cơ đến sức khoẻ lứa tuổi vị thành niên như sau: 1.2.1 Hút thuốc lá Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,25 tỉ người hút thuốc lá [24]. Theo ước tính, đến cuối năm 2005, con số này sẽ tăng lên 1,6 tỉ. ở một số nước phát triển, số người hút thuốc lá đang có chiều hướng giảm xuống trong vài ba thập kỷ gần đây. Trái lại, ở các nước đang phát triển, con số này lại tăng lên đến mức chóng mặt. Cùng với xu thế toàn cầu hoá, tự do thương mại trong lưu thông, phân phối các sản phẩm thuốc lá giữa các nước cũng làm tăng số người hút thuốc lá lên rất nhiều (WHO). 50% thuốc lá sản xuất ra được tiêu thụ tại châu á [27] . Tại Việt Nam, tình hình hút thuốc lá đã đến mức báo động. Theo WHO, hơn 70% nam giới và gần 5% nữ giới Việt Nam thường xuyên hút thuốc [39]. Ngày nay, thanh thiếu niên có xu hướng hút thuốc lá từ rất sớm ngay cả khi họ đã được cung cấp các thông tin về tác hại của thuốc lá. ở nước ta, có khoảng 50% nam giới trong độ tuổi 18-19 hút thuốc hoặc đã từng hút thuốc; tuổi trung bình bát đầu hút là 20, có trường hợp bắt đầu hút thuốc từ lúc lên 5 tuổi. Trẻ nghiện do người lớn, trẻ lớn hơn tập cho hoặc bắt các em mồi thuốc, mua thuốc [24]. Theo Bộ y tế, khoảng 30% học sinh phổ thông tại Việt Nam hút thuốc, và 1,6% trong số này hút hơn một bao thuốc một ngày [34]. Nghiên cứu của Trung tâm truyền thông giáo dục sức khoẻ về hành vi có hại của học sinh cấp 3 các quận nội thành tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2003 cho thấy tỉ lệ các em học sinh nam đang hút thuốc là 27,8%; đã từng hút thuốc 43,5%. Ngoài ra, còn có đến 3,6% các em nữ trung học phổ thông hút thuốc [24]. Hút thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở các nước phương Tây. Tại úc, đây là nguyên nhân dẫn tới các bệnh ung thư, tim mạch và hô hấp [3]. Còn ở ấn Độ, mỗi năm có gần 1 triệu người chết vì mắc phải những bệnh do thuốc lá gây ra, nghĩa là cứ 40 giây có một người dân ấn Độ chết vì thuốc lá [4].Tại Trung Quốc, người ta dự đoán đến năm 2020-2030 sẽ có từ 1 -2 triệu người chết do hút thuốc lá [4], [24], [33]. Phụ nữ hút thuốc lá sẽ có nguy cơ bị ung thư phổi cao hơn nam giới. Phụ nữ hút thuốc lá sẽ gây ra rối loạn kinh nguyệt, giảm khả năng sinh để, giảm chất lượng sữa mẹ, tuổi mãn kinh đến sớm hơn từ 1-3 năm. Người mẹ hút thuốc lá khi mang thai sẽ làm tăng nguy cơ sẩy thai, thai chết lưu [4]. Theo WHO, 1/3 đến 1/2 số người hút thuốc lá bị chết sớm do các bệnh liên quan như tim mạch, đột quỵ, các bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), ung thư [23]. Những người hút thuốc lá sẽ có nguy cơ bị giảm từ 20 đến 25 năm tuổi thọ [27]. Mỗi năm trên thế giới thuốc lá giết chết 4,9 triệu người (8 giây có một người chết) [24]. Số người chết vì thuốc lá nhiều gấp 23 lần so với những người chết do nhiễm HIV/AIDS; gấp 6 lần so với những người chết vì tai nạn giao thông; gấp 37 lần so với người chết do bệnh viêm gan siêu vi trùng [4]. Qua các nghiên cứu về thực trạng hút thuốc lá trong thanh thiếu niên, rất nhiều các tác giả đã có nhận xét rằng:” Nhiều người lớn tuổi hiện nay đang nghiện thuốc lá- đã bắt đầu hút thuốc từ tuổi trưởng thành. Đó là một trong những điều mấu chốt đối với một cộng đồng không có khói thuốc để ngăn chặn lớp trẻ ngay từ bây giờ không hút thuốc lá”. Các tác giả cũng cho rằng: nếu một người trẻ tuổi (thanh thiếu niên) bắt đầu hút thuốc thì rủi ro về các bệnh tật do hút thuốc gây nên như ung thư, tim mạch sẽ cao hơn [3]. Một trong những nguyên nhân này là do lượng nicotin ở trong người có tương quan tỷ lệ nghịch với tuổi bắt đầu hút thuốc [32]. ở tuổi trẻ, nếu hút một điếu thuốc sẽ làm tăng nhịp tim và huyết áp và làm giảm chức năng của phổi, làm giảm sự sung sức về thể chất, đồng thời làm tăng nguy cơ mắc bệnh hen xuyễn và các hội chứng về hô hấp [21],[22], [27], [28]. Chỉ tính riêng tại nước ta, trung bình nếu một người hút 25 bao/năm thì tuổi thọ của họ sẽ bị giảm tối thiểu là 5 năm nếu không kết hợp với các bệnh khác, bởi 1 điếu thuốc lá làm cuộc sống ngắn đi 5 phút. Báo cáo của một số trung tâm điều trị bệnh phổi cho thấy số ca bệnh phổi ở những người trên 30 tuổi tại Việt Nam là 6,7% (khoảng 1,9 triệu người) chiếm tỉ lệ cao nhất châu á [38]. Chính vì mối nguy hại rất lớn của việc hút thuốc lá đối với sức khoẻ như vậy nên trên thế giới, chính phủ các quốc gia và WHO đã đưa ra rất nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn sự gia tăng của việc sản xuất thuốc lá và hút thuốc lá: Cô oét có luật về hút thuốc lá. Hàn Quốc đã đưa ra đạo luật về bảo vệ sức khoẻ từ năm 1995, trong đó nói rất rõ về tác hại của thuốc lá. Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton đã đưa ra nhiều những đề nghị rất cụ thể về việc cấm hút thuốc lá trong xã hội Mỹ khi ông còn đang nắm quyền. Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela, khi nhận huân chương nhân ngày 31/5- ngày toàn thế giới không hút thuốc lá, đã nói:” Thuốc lá là thách thức gay cấn nhất cho sức khoẻ cộng đồng ở thời đại chúng ta” [3]. ở Việt Nam, ngay từ năm 1989 trong Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Nhà nước đã ban hành qui định cấm hút thuốc lá trong phòng họp, rạp chiếu bóng, rạp hát và những nơi công cộng khác [10]. Từ năm 1990 đến nay, sau hội thảo lần thứ nhất về phòng chống tác hại của thuốc lá, Nhà nước đã tiếp tục xây dựng một số văn bản dưới luật để tạo ra hành lang pháp lý giúp cho công tác phòng chống tác hại của thuốc lá như: Chỉ thị 278 C/P ngày 3/8/1990 của Thủ tướng chính phủ về cấm nhập thuốc lá ngoại, Nghị định 56 C/P ngày 28/8/1993 đã có qui định về thuế suất thuốc lá từ 32%-70% [24]. Điều lệ Vệ sinh ngày 24/11/1991 nêu rõ:” Cấm hút thuốc lá trong nhà trẻ, bệnh viện, phòng họp, trong các rạp chiếu phim, trên xe buýt, máy bay và nơi tập trung đông người…” [3], [4]. , nhưng tình trạng hút thuốc lá trong người dân qua các công trình nghiên cứu của Phạm Khắc Quảng, Nguyễn Việt Cồ, Hoàng Long Phát, Phạm Gia Khải, Trần Văn Dần.. đã cảnh báo rằng: tình trạng hút thuốc lá ở Việt Nam vẫn chưa có xu hướng giảm [10,] [21], [22], [23], [27]. Mặc dù vậy, tỷ lệ hút thuốc lá ở nước ta hiện nay vẫn ở mức cao - đứng thứ 22 trên thế giới và ngành y tế đang phải đối đầu với một nhiệm vụ khó khăn là cố gắng giảm thiểu tỷ lệ đàn ông hút thuốc xuống dưới 20% và giảm tỷ lệ phụ nữ hút thuốc xuống dưới 2% vào năm 2010 [10]. Các nhà khoa học cho rằng yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến việc hút thuốc lá là trình độ học vấn: học vấn càng cao thì càng ít hút thuốc. Tỷ lệ hút thuốc lá cao nhất ở những người làm nghề xây dựng và điều khiển các phương tiện giao thông (70%). Người làm nghề chuyên môn kỹ thuật và văn phòng có tỷ lệ hút thấp hơn (50-58%) và thấp nhất là ở những người làm lãnh đạo/quản lý (49,3%) [1]. Gia đình cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc hút thuốc lá ở lứa tuổi VTN. Nếu trong một gia đình, cha mẹ hay anh/em trai có hút thuốc lá thì trẻ VTN cũng dễ có nguy cơ tiếp xúc với thuốc lá sớm hơn và cũng dễ nghiện hơn [3]. Bên cạnh đó, môi trường xã hội cũng là yếu tố quan trọng. Người ta đều biết rằng nhóm tuổi thanh thiếu niên là nhóm người tạo cơ hội chủ yếu cho ngành công nghiệp thuốc lá [22], [23], [24], [37], [38]. Nơi nào thuốc lá được bày bán rộng rãi, quảng cáo rầm rộ, có các lực lượng tiêu biểu như bác sĩ, diễn viên, thầy giáo… hút thuốc thì tỉ lệ hút thuốc trong cộng đồng càng cao, điều này được thể hiện rõ nhất ở Việt Nam khi mà thị trường thuốc lá vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ. 1.2.2 Uống rượu/bia Một trong những vấn đề mà xã hội đang phải đối mặt hiện nay là tình trạng lạm dụng bia, rượu trong thanh thiếu niên. Nghiện rượu là nguyên nhân sâu xa của những tử vong sớm như xơ gan. Như là một nhân tố góp phần chủ yếu vào các tai nạn tự tử, giết người, rượu là nguyên nhân thường gặp nhất gây tử vong của nhóm tuổi từ 25 tới 45. Nghiện rượu là căn bệnh chính ảnh hưởng tới 30% trường hợp vào viện vì tâm thần, 15-30% vào khoa nội và 80% vào khoa bỏng [14]. Trẻ VTN uống nhiều rượu thường học kém, thiếu tập trung, giảm chú ý do rượu tác dụng vào vùng vỏ não ở thuỳ trán và vùng hồi hải mã [7]. Phân tích về các hành vi nguy cơ ảnh hưởng sức khoẻ vị thành niên cho thấy, trẻ VTN có sử dụng rượu có xu hướng hoạt động tình dục sớm gấp 7 lần so với những trẻ không uống rượu. Cũng theo một nghiên cứu ở Mỹ, 40,7% sinh viên nam và 27,8% sinh viên nữ bắt đầu có quan hệ tình dục khi có sử dụng các thứ đồ uống có cồn [35]. Theo thống kê năm 2000 ở Mỹ, có tới 3,1 triệu người bắt đầu uống bia từ lúc 17 tuổi hoặc trẻ hơn, với tuổi trung bình là 12 [14]. Hơn 1/3 sinh viên đại học những năm cuối cho biết có uống 5 cốc rượu hoặc nhiều hơn liên tiếp trong thời gian 2 tuần trước khi được phỏng vấn, 5% uống rượu hàng ngày. Tại châu á, các báo cáo về tình hình sử dụng rượu trong lứa tuổi VTN cũng có rất nhiều. Lứa tuổi trung bình bắt đầu sử dụng rượu ở Nhật Bản là từ 13 đến 17 tuổi [26]. Còn tại Hàn Quốc, tỉ lệ trẻ VTN uống rượu, bia là 43%, trong đó trẻ trai có xu hướng lạm dụng rượu, bia nhiều hơn trẻ gái [32]. Tại Trung Quốc, một cuộc điều tra 1040 học sinh từ các lớp 6, 8 và 10 cho thấy có tới 70% các em hiện hoặc đã từng sử dụng rượu [33]. Trẻ trai có xu hướng uống nhiều rượu bia hơn trẻ gái, mặc dù vậy tỉ lệ trẻ gái sử dụng rượu cũng đã chiếm tới 54,9%. Còn tại Thái Lan, các nghiên cứu về việc lạm dụng rượu mới chỉ tập trung vào trẻ VTN lớn và chỉ có một số nghiên cứu về mối liên quan giữa việc sử dụng rượu và các hành vi có nguy cơ nhiễm HIV [26]. ở nước ta, cũng còn có quá ít các thông tin về việc sử dụng rượu trong thanh thiếu niên. Các buổi khám tư vấn về các bệnh lây truyền qua đường tình dục và mối liên quan với các đồ uống có cồn thường chỉ có người lớn tham dự - dù rằng ở nước ta, cụm từ “bia ôm”, chỉ sự liên hệ giữa uống rượu bia với các hành vi tình dục, cũng đã phổ biến từ khá lâu và rất quen thuộc với mỗi người dân. Theo điều tra Y tế Quốc gia năm 2001-2002 của Bộ Y tế, tỷ lệ nam giới từ 15 tuổi trở lên uống rượu/bia từ một lần trở lên trong tuần là 46% và 2% đối với nữ giới. Tỷ lệ nữ giới uống rượu/bia thấp nhưng có xu hướng tăng theo tuổi, còn tỷ lệ nam giới uống rượu/bia tăng mạnh ở nhóm tuổi dưới 25 và cao nhất ở nhóm tuổi từ 25-54, và tỷ lệ này giảm dần khi đến tuổi về hưu [1]. ở nước ta, tỷ lệ uống rượu bia chung ở cả thành thị và nông thôn miền Bắc đều trên 50%, trong khi đó ở miền Nam tỷ lệ này thấp hơn 45%. Tuy nhiên ở miền Nam, tỷ lệ uống rượu/bia ở nông thôn cao hơn ở thành thị (38,8% so với 23,5%) [1]. Theo Trần Văn Dần và cộng sự, tỷ lệ nam giới uống rượu bia cao nhất ở nhóm có trình độ trên cấp III, ở cả nông thôn và thành thị. Nông thôn uống rượu/bia cao hơn thành thị ở hầu hết các trình độ [4]. Nhiều công trình nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ uống rượu/bia có liên quan với trình độ văn hoá và nghề nghiệp. Tỷ lệ uống rượu/bia cao nhất ở những người làm lãnh đạo/quản lý (70,1%); tiếp theo là nhân viên văn phòng (65,4%); chuyên môn, kỹ thuật (61,1%), xây dựng (59,4%) và thấp nhất ở ngành dịch vụ (48%) [1]. Một trong những yếu tố góp phần làm tăng tỷ lệ uống rượu/ bia là do đời sống kinh tế đi lên và khi các mối quan hệ được mở rộng hơn. Trình độ càng cao thì vai trò của gia đình càng ít và vai trò của nơi làm việc càng nhiều. Hơn 90% những người mù chữ bắt đầu uống rượu/bia là do ảnh hưởng của gia đình và bạn bè [1]. Theo thống kê, tỉ lệ người sử dụng rượu, bia ở nước ta tính đến năm 1996 đã tăng thêm 28% so với những năm 70 [28]. Cũng theo nghiên cứu này, lượng rượu tiêu thụ bình quân theo đầu người ở nước ta năm 1996 là 1,28lít/người; tăng 28% so với cuối những năm 70 [25]. Vậy ai đảm bảo trong vài năm nữa khi nền kinh tế Việt Nam được cải thiện hơn, tỉ lệ sử dụng rượu, bia của người dân Việt Nam nói chung và của thanh thiếu niên không tăng lên nếu như chúng ta không có những chương trình, chính sách can thiệp đúng đắn, kịp thời? 1.2.3 Thói quen tập luyện Đứng về góc độ sinh học, lứa tuổi VTN là giai đoạn chuyển tiếp rất quan trọng, chuẩn bị cho giai đoạn phát triển đầy đủ của cơ thể. Lứa tuổi VTN là thời kỳ phát triển nhanh về cân nặng cũng như chiều cao, cả về cơ bắp cũng như dữ trữ mỡ... vì vậy ngoài việc duy trì một chế độ dinh dưỡng hợp lý thì một chế độ rèn luyện thân thể phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng [16]. ở Việt Nam, các nghiên cứu về lứa tuổi học đường cũng đã có rất nhiều trong những năm gần đây. Nghiên cứu của Trần Văn Dần và cộng sự về sự phát triển thể lực của học sinh 8-14 tuổi trên một số vùng dân cư miền Bắc thập kỷ 90 cho thấy có sự gia tăng về chiều cao của cả học sinh thành phố và nông thôn, cân nặng gia tăng rõ ở trẻ em thành phố [2]. Chế độ tập luyện góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo cho trẻ vị thành niên có một sức khoẻ tốt. Theo báo cáo của Bộ Y tế 11/2003, VTN ở tuổi 15 của Việt Nam cao trung bình 155cm, nặng trung bình 40,9kg tuy đã cải thiện nhưng vẫn thấp hơn tiêu chuẩn của WHO (169cm và 56kg) [1]. Một chế độ tập luyện tốt sẽ góp một phần đáng kể trong việc cải thiện chiều cao và cân nặng trung bình của trẻ VTN nước ta, đồng thời cũng sẽ làm giảm bớt đi tỉ lệ béo phì đang ngày càng gia tăng. Điều tra Y tế Quốc gia 2001-1002 cho thấy tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên có tập thể dục thể thao là 34,9% (bao gồm cả những người tập rất ít). Khoảng một nửa trong số này tập luyện thường xuyên (từ 5-7 ngày/tuần và mỗi ngày tập từ 10 phút trở lên) [1]. Theo các nghiên cứu của Trần Văn Dần và cộng sự (2001), tỷ lệ số người tập thể dục cao nhất tập trung ở nhóm tuổi từ 10-19, sau đó tỷ lệ này giảm mạnh ở nhóm tuổi 30-34. ở tất cả các nhóm tuổi, tỷ lệ nam giới tập thể dục nhiều hơn nữ giới. Bên cạnh yếu tố tuổi và giới, mức sống cũng góp một đáng kể vào việc làm thay đổi tỷ lệ tập thể dục. Mức sống càng cao, tỷ lệ tập th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRUOU_T~1.DOC
Tài liệu liên quan