Giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở Việt Nam

Thứ hai, xác lập được vị trí cao quý của người thầy trong xã hội trên tinh thần kế thừa và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc. Đồng thời, dịch chuyển thang giá trị nghề nghiệp sao cho thu hút ngày càng nhiều người tài giỏi muốn làm nghề dạy học, dần tiến tới chuẩn mực chỉ có những người tài năng, đức độ mới được tuyển chọn làm thầy giáo. Chỉ như thế mới có thể sản sinh ra lớp người tài giỏi.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên, sử dụng hợp lý và khai thác có hiệu quả tài năng của họ. Thực ra đây là hệ quả của các chính sách đã nêu ở trên, có thực hiện tốt các chính sách đó thì mới có thể vừa nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, vừa có thể sử dụng có hiệu quả đội ngũ ấy. Nhưng vấn đề nêu ở đây còn liên quan trực tiếp đến đội ngũ thầy của những người thầy_đội ngũ giảng viên các trường sư phạm. Nhà nước cần có sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ này thông qua các chính sách, chế độ cụ thể, thiết thực về tiền lương, nhà ở, hưởng thụ các dịch vũ xã hội, các phần thưởng và danh hiệu cao quý.

doc26 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1047 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính bằng sự phát triển của năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học, khả năng thích nghi và khả năng biến tri thức thành kỹ năng người lao động. 2.5.2. Mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo cần phát triển vượt bậc. Sự phát triển này phải là kết quả của quá trình kết hợp đồng thời cả ba mặt sau: Một là, mở rộng quy mô với việc tăng số lượng người học thông qua đa dạng hóa các hình thức và các loại hình đào tạo để các tầng lớp dân cư có điều kiện nâng cao dân trí, nhanh chóng giải quyết chất lượng nguồn lao động. Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô không chỉ dựa trên nhu cầu nâng cao mặt bằng dân trí, mà quan trọng hơn phải căn cứ vào yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao. Đối với giáo dục nghề nghiệp, cần tiếp tục duy trì quy mô phát triển đào tạo nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học như hiện nay, đồng thời đẩy nhanh tốc độ phát triển đào tạo lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật. Do đó, cùng với các trường trung ương, các tỉnh, thành phố cần tăng số lượng các trường trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật của các thành phần kinh tế ở địa phương của mình. Mặt khác, mở thêm các trường đào tạo của ngành; các công ty, doanh nghiệp lớn có thể thành lập cơ sở đào tạo công nhân kỹ thuật riêng hoặc ký hợp đồng đào tạo trực tiếp với các trường theo yêu cầu riêng của doanh nghiệp; tăng cường đào tạo nghề mới hoặc đào tạo lại công nhân kỹ thuật bằng các khóa dài ngày hoặc ngắn ngày dưới hình thức kèm cặp tại chỗ ở cơ sở sản xuất (nhà máy, xí nghiệp, công xưởng) với phương châm “cần gì học nấy”. Cách đào tạo này có hiệu quả nhiều mặt, không chỉ tạo thị trường sử dụng sản phẩm đào tạo, nối liền đào tạo với sử dụng, mà còn hình thành quan hệ ràng buộc về mặt trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ sở sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo về vốn, về điều kiện thực hành kỹ năng. Ngoài ra, cần thực hiện việc phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông để tạo thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển nhanh đào tạo nghề. Việc phân luồng này phải bằng cơ chế, chính sách vĩ mô của Nhà nước trên tinh thần làm cho mọi người nhận thức đúng giá trị xã hội của từng loại lao động, khuyến khích vật chất cho học sinh vào học các trường dạy nghề và mở ra khả năng cho họ phát triển trong tương lai. Mặt khác, Nhà nước cần công bố rộng rãi các ngành, các bậc đào tạo đang thiếu, đang thừa, sẽ thiếu và sẽ thừa trong tương lai gần để trên cơ sở đó, người học có điều kiện lựa chọn ngành nghề và bậc đào tạo phù hợp. Hai là, nâng cao chất lượng trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ khoa học, công nghệ hiện đại cả về nội dung kiến thức, phương pháp giáo dục và đào tạo. Vấn đề này phụ thuộc nhiều yếu tố, từ nội dung chương trình đến người thầy, phương pháp, điều kiện phương tiện vật chất, trong đó khâu thanh tra giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy, cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá, xác minh dư luận xã hội về chất lượng đào tạo, nhất là các trường đại học dân lập, đại học mở, các hệ đào tạo không chính quy để lập lại trật tự kỷ cương trong giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng của sản phẩm đào tạo. Ba là, nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử dụng. Phải thừa nhận rằng kế hoạch, quy hoạch đào tạo ở nước ta hiện nay đang rất không hợp lý, không dựa trên nhu cầu, yêu cầu sử dụng thực sự của các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các vùng. Do vậy, phải nghiêm túc rà soát lại và đưa ra một kế hoạch, quy hoạch đào tạo hợp lý theo lĩnh vực và theo bậc đào tạo, kể cả đào tạo lại, đặc biệt là phải có chiến lược giáo dục và đào tạo hữu hiệu đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Chiến lược này phải gắn với nhu cầu thị trường lao động, phải mang trong mình chức năng dự báo, đón đầu được các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội như nhiều nước đã làm. Chẳng hạn, trước tình hình thiết kế linh kiện mềm trở thành ngành sản xuất độc lập và thị trường linh kiện mềm ngày càng mở rộng và cạnh tranh gay gắt, ngay từ cuối những năm 1980 Nhật Bản đã đề ra chương trình đào tạo một triệu chuyên gia cao cấp về linh kiện mềm cho năm 2000. Đáng tiếc là cho đến nay chúng ta vẫn chưa cụ thể hóa được một chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo. Do đó, một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra hiện nay là Nhà nước phải chú trọng dành thời gian, công sức, trí tuệ cho việc nghiên cứu, xây dựng một chiến lược quốc gai về phát triển giáo dục và đào tạo thích hợp, có hiệu quả trước mắt cũnh như về lâu dài. 2.5.3. Phát hiện và đào tạo nhân tài có hiệu quả Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục và đào tạo là phát hiện, bồi dưỡng và nâng đỡ tài năng để tạo ra đội ngũ chuyên gia giỏi, các nhân tài trong các lĩnh vực. Thiếu đội ngũ này không thể nói đến văn minh, hiện đại và do đó, xã hội không thể phát triển. Họ thực sự là tài sản quý hiếm của quốc gia và ngày càng trở nên quý giá trong thời đại ngày nay khi sức mạnh của mỗi dân tộc được đo bằng sức mạnh của nguồn lực trí tuệ. Vì thế, Nhà nước nên dành một khoản kinh phí lớn và tạo môi trường hoạt động thuận lợi để phát triển nhân tài. Môi trường đó phải là sự tự do tư tưởng, kích thích tư duy sáng tạo, dồi dào về thông tin, có đủ phương tiện cần thiết cho hoạt động sáng tạo và được trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng về vật chất và tinh thần. 2.5.4. Phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Chất lượng của sản phẩm giáo dục và đào tạo phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của đội ngũ giáo viên. Vì vậy, phải cấp bách xây dựng được đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, tập trung tâm lực vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Để giải quyết nhiệm vụ quan trọng này, không có cách nào khác là Nhà nước hãy đưa ra những chính sách tích cực, thỏa đáng đối với việc đào tạo và sử dụng đội ngũ giáo viên. Chính sách đó phải nhằm vào các mục tiêu sau: Thứ nhất, nâng cao mức sống và điều kiện làm việc cho giáo viên, bảo đảm cho người thầy có thể lao động hết mình vì sự nghiệp “trồng người”. Thực ra từ vài năm trở lại đây, Nhà nước ta đã có sự điều chỉnh thang bậc lương của giáo viên lên mức cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp, đã thực hiện chế độ phụ cấp nghề nghiệp cho giáo viên. Đây là một biểu hiện của tư tưởng coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên, lương của giáo viên so với các thang bậc lương khác trong ngạch hành chính sự nghiệp không cao hơn là mấy, vì mức chênh lệch hệ số không đáng kể, chưa nói nếu so sánh thu nhập của giáo viên với thu nhập của các nghề nghiệp có lợi thế khác trong xã hội thì còn thấp hơn rất nhiều. Do vậy, chế độ tiền lương hiện hành vẫn chưa trở thành động lực mạnh để các nhà giáo chuyên tâm với nghề nghiệp. Thứ hai, xác lập được vị trí cao quý của người thầy trong xã hội trên tinh thần kế thừa và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc. Đồng thời, dịch chuyển thang giá trị nghề nghiệp sao cho thu hút ngày càng nhiều người tài giỏi muốn làm nghề dạy học, dần tiến tới chuẩn mực chỉ có những người tài năng, đức độ mới được tuyển chọn làm thầy giáo. Chỉ như thế mới có thể sản sinh ra lớp người tài giỏi. Thứ ba, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên, sử dụng hợp lý và khai thác có hiệu quả tài năng của họ. Thực ra đây là hệ quả của các chính sách đã nêu ở trên, có thực hiện tốt các chính sách đó thì mới có thể vừa nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, vừa có thể sử dụng có hiệu quả đội ngũ ấy. Nhưng vấn đề nêu ở đây còn liên quan trực tiếp đến đội ngũ thầy của những người thầy_đội ngũ giảng viên các trường sư phạm. Nhà nước cần có sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ này thông qua các chính sách, chế độ cụ thể, thiết thực về tiền lương, nhà ở, hưởng thụ các dịch vũ xã hội, các phần thưởng và danh hiệu cao quý. Chẳng hạn, những giảng viên nào bằng tài năng, đức độ, tri thức uyên bác, phong cách sống và làm việc mẫu mực mà đào tạo được nhiều giảng viên giỏi có tư cách như của thầy, thì những người thầy đó sẽ nhận được sự đãi ngộ thỏa đáng của Nhà nước cả về vật chất lẫn tinh thần. Nói tóm lại, sự đầu tư thỏa đáng cho đội ngũ giáo viên luôn luôn là đầu tư có lợi nhất. Điều này trong triết học đã từng lưu truyền một tư tưởng mà thật sự đáng được coi là chân lý: Đầu tư cho người đàn ông, ta được người chồng tốt; đầu tư cho người phụ nữ, ta được một gia đình tốt; đầu tư cho thầy giáo, ta được một thế hệ tốt. 2.5.5. Đầu tư thỏa đáng cho giáo dục và đào tạo. Cuối cùng, vấn đề nóng bỏng nhất và cũng quan trọng nhất đối với giáo dục và đào tạo lúc này là huy động các nguồn lực đầu tư cho nó: nhân lực, vật lực, tài lực. Tình trạng sút kém, xuống cấp trên nhiều mặt của giáo dục và đào tạo như hiện nay đều có nguyên nhân ở chính sách đầu tư không thỏa đáng, nhất là đầu tư tài lực. Trong khi nhiều nước quanh ta như: Thái Lan, Hàn Quốc tỷ lệ đầu tư ngân sách cho giáo dục đều trên 20% thì ở Việt Nam tỷ lệ đó cho đến nay dù rất cố gắng cũng mới chỉ đạt 15%. Tỷ lệ quá thấp đó là một bất hợp lý, vì tăng tỷ lệ đầu tư cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp cao hơn tăng tỷ lệ đầu tư cho giáo dục là nơi đào tạo ra những con người sẽ làm việc trong lĩnh vực đó. Vì vậy, Nhà nước cần điều chỉnh ngân sách cho giáo dục và đào tạo ít ra cũng nên bằng mức đầu tư của các nước đang phát triển ở khu vực Châu Á, trên 20%. Ngoài ngân sách nhà nước, cần có chính sách huy động vốn từ nhiều nguồn với tinh thần khuyến khích đầu tư cho giáo dực và đào tạo như: từ ngân sách địa phương, sự đóng góp của người học, sự bảo trợ của các tổ chức xã hội, các cá nhân và sự viện trợ quốc tế. Đặc biệt, Nhà nước cần sớm ban hành chính sách đóng góp phí đào tạo từ phía các cơ sở có sử dụng lao động qua đào tạo, nhất là đối với những đơn vị ngoài khu vực Nhà nước. Mọi đóng góp, tài trợ của doanh nghiệp cho giáo dục và đào tạo được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp; hơn nữa, khoản đóng góp của doanh nghiệp, cá nhân không phải tính vào thu nhập chịu thuế. Chi phí của các tổ chức kinh tế trong việc mở trường, lớp đào tạo tại cơ sở hay phối hợp đào tạo với các trường, viện nghiên cứu khoa học, cử người đi đào tạo, tiếp thu công nghệ mới phục vụ cho nhu cầu của đơn vị mình được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Nhà nước cho phép và quy định rõ các cơ sở giáo dục được hưởng các ưu đãi về quyền sử dụng đất, tín dụng và miễn giảm thuế; khuyến khích và có hình thức khen thưởng thích hợp các tổ chức, cá nhân tích cực xây dựng công trình , ủng hộ tiền cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nói một cách tổng quát, phải xã hội hóa đầu tư cho giáo dục và đào tạo, trong đó Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vì giáo dục và đào tạo đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Chỉ như vậy, sự nghiệp giáo dục và đào tạo mới có thể được cải thiện một bước, đáp ứng yêu cầu cung cấp lao động chất lượng cao trong thời kỳ hội nhập quốc tế. PHẦN IV: KẾT LUẬN Khi Việt Nam tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các cơ hội mở ra rất nhiều nhưng những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt cũng vô cùng to lớn. Tuy nhiên, Việt Nam không thể đứng ngoài “sân chơi” này. Nguồn nhân lực của chúng ta hiện nay chưa phải là mạnh, nhưng chúng ta có quyền tin rằng gia nhập WTO là một giải pháp hiệu quả để nâng cao nguồn lực này. Hiện tại, trong nguồn lực con người ở nước ta, bên cạnh những ưu thế như: lực lượng lao động dồi dào, con người Việt Nam cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo, v.v thì những hạn chế của nó cũng không phải là nhỏ, nhất là về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng lao động. Thêm vào đó, việc sử dụng số lao động đã qua đào tạo, có trình độ lại bất hợp lý và kém hiệu quả. Vì vậy, việc sử dụng và phát triển có hiệu quả nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đang là nhiệm vụ cấp bách. Để giải quyết nhiệm vụ này, cần nhanh chóng thực hiện đồng loạt các giải pháp sau: Một là, thực sự coi trọng chính sách “chiêu hiền, đãi sỹ”, khai thác triệt để lao động trí tuệ; xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đầu đàn, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế làm nòng cốt. Hai là, có chính sách ưu đãi để thu hút lao động đã qua đào tạo đến làm việc ở các vùng nông thôn, miền núi nhằm khắc phục sự chênh lệch khá xa hiện nay không chỉ về thu nhập mà cả về chất lượng cuộc sống giữa trí thức thành phố và trí thức nông thôn. Ba là, tuyển dụng và sắp xếp cán bộ “đúng người, đúng việc” với tinh thần lấy tiêu chuẩn làm căn cứ để lựa chọn, đề bạt; lấy hiệu quả công việc làm cơ sở để đánh giá, đãi ngộ. Bốn là, tuyển dụng và sử dụng lao động phải gắn với cơ chế thị trường có sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước. Năm là, phát triển vượt bật giáo dục và đào tạo trên cơ sở mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả, bám sát yêu cầu thị trường lao động, bảo đảm thống nhất giữa đào tạo và sử dụng trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường, cách mạng khoa học-công nghệ và hội nhập quốc tế. Tóm lại, để phát triển kinh tế-xã hội phải có các nguồn lực như: nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, v.v. Các nguồn lực này đều cần thiết và có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nguồn lực con người giữ vai trò quyết định. Việc sử dụng tốt nguồn nhân lực sẽ làm cho kinh tế của đất nước phát triển, tức là khi đó năng suất biên của lao động (MPL) sẽ lớn hơn năng suất trung bình của lao động (APL), lúc đó sẽ làm cho năng suất trung bình của lao động (APL) tăng lên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Lê Khương Ninh (2006), Kinh tế học vi mô, Trường Đại học Cần Thơ. 2. Trương Cường (2007), WTO kinh doanh và tự vệ, NXB Hà Nội. 3. Trần Văn Tùng (1996), Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, NXB Chính trị quốc gia. 4. Võ Hồng Phúc (2004), Xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động và bền vững trong điều kiện đổi mới và hội nhập, NXB Chính trị quốc gia. 5. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia. 6. TS. Đoàn Văn Khái (2004), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB lý luận chính trị.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnguon nhan luc viet nam KTVM 4.DOC
Tài liệu liên quan