Giáo trình Kiểm toán - Nghề: Kế toán doanh nghiệp

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN

Mã chương: KT01

Giới thiệu:

Trang bị cho người học những kiến thức chung về khái niệm, chức năng, ý nghĩa, mục đích, phân loại kiểm toán; các yêu cầu cơ bản đối với kiểm toán viên.

Mục tiêu:

- Trình bày được những kiến thức tổng quát về kiểm toán gồm: khái niệm, chức năng, ý nghĩa, mục đích, phân loại trong kiểm toán;

- Trình bày được các yêu cầu cơ bản đối với kiểm toán viên;

- Thực hiện và phân tích được những chức năng và các loại kiểm toán trong qua trình kiểm toán;

- Tuân thủ được những nguyên tắc của kiểm toán: Thật thà, trung thực;

 - Nghiêm túc, chủ động trong quá trình nghiên cứu, học tập.

Nội dung chính:

1. Khái niệm Kiểm toán

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán ra đời từ thời La Mã cổ đại vào thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Ở Việt Nam, thuật ngữ “kiểm toán” xuất hiện trở lại và được sử dụng nhiều từ những năm đầu của thập kỷ 90. Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam đã có hoạt động của các công ty kiểm toán nước ngoài. Cho đến nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán. Khi nói đến kiểm toán, người ta thường hiểu ngay đến kiểm toán độc lập.

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về kiểm toán. Khái niệm được chấp nhận phổ biến hiện nay là: “Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên (KTV) độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin cần được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”

Các thuật ngữ trong định nghĩa này được hiểu như sau:

Các KTV độc lập và có năng lực: Đây là chủ thể trực tiếp của hoạt động kiểm toán, có thể là các KTV độc lập, KTV Nhà nước hay KTV nội bộ. Các KTV này tuy có sự khác nhau nhưng đều phải độc lập và có thẩm quyền đối với đối tượng được kiểm toán. Tùy theo nội dung và tính chất của mỗi loại kiểm toán mà mức độ độc lập được đòi hỏi khác nhau, tuy nhiên yêu cầu về độc lập là đòi hỏi thiết yếu đói với mọi loại KTV và tổ chức kiểm toán. Nếu độc lập là điều kiện cần thì năng lực của KTV là điều kiện đủ để đảm bảo cho cuộc kiểm toán được thực hiện thành công. Năng lực kiểm toán gồm những yếu tố, kỹ năng, phẩm chat về chuyên môn và nghiệp vụ mà người KTV cần phải có để tổ chức và thực hiện được cuộc kiểm toán có hiệu quả.

Thu thập và đánh giá các bằng chứng: Bằng chứng kiểm toán là các tài liệu, thông tin mà các KTV sử dụng để phân tích, xem xét và dựa trên đó để đưa ra kết luận. Những tài liệu, thông tin này có liên quan đến những thông tin cần kiểm toán, cung cấp bằng chứng về những khía cạnh của thông tin cần kiểm toán.

Các thông tin cần được kiểm toán: Đó chính là đối tượng của hoạt động kiểm toán. Ví dụ: báo cáo tài chính của một đơn vị hay tình hình chấp hành pháp luật của một đơn vị có thể là đối tượng của kiểm toán. Thông tin cần được kiểm toán có thể là những thông tin được lượng hóa hoặc những thông tin không lượng hóa; có thể là những thông tin tài chính hoặc phi tài chính.

Các chuẩn mực đã được xây dựng (thiết lập): Các chuẩm mực là cơ sở để đánh giá các bằng chứng trong quá trình kiểm toán. Các chuẩn mực này rất phong phú và đa dạng tùy thuộc vào từng lĩnh vực thông tin cần kiểm toán, như quy định trong các văn bản pháp quy, các tiêu chuẩn định mức cho các lĩnh vực khác nhau, các chuẩn mực kế toán của mỗi quốc gia Tùy từng loại kiểm toán mà sử dụng các chuẩn mực này cho phù hợp, nhưng các chuẩn mực này luôn luôn phải là các chuẩn mực có hiệu lực cho cuộc kiểm toán đó.

Đơn vị được kiểm toán: Đây có thể là một tổ chức pháp nhân, một doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, một doanh nghiệp tư nhân, thậm chí là một phân xưởng, tổ đội hoặc một cá nhân có thông tin được kiểm toán.

Báo cáo kết quả: Đây là công việc cuối cùng của một cuộc kiểm toán, thể hiện ý kiến nhận xét, kết luận của KTV và cung cấp thông tin cho người đọc, người sử dụng về mức độ tương quan và phù hợp giữa các thông tin của một đơn vị (đã được kiểm toán) với các chuẩn mực đã được xây dựng.

 

docx94 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 25/05/2022 | Lượt xem: 184 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Kiểm toán - Nghề: Kế toán doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế toán. * Nội dung, lịch trình và phạm vi các thủ tục kiểm toán: - Những thay đổi quan trọng của các vùng kiểm toán; - Ảnh hưởng của công nghệ thông tin đối với công việc kiểm toán; - Công việc kiểm toán nội bộ và ảnh hưởng của nó đối với các thủ tục kiểm toán độc lập. * Phối hợp, chỉ đạo, giám sát và kiểm tra: - Sự tham gia của các kiểm toán viên khác trong công việc kiểm toán những đơn vị cấp dưới, như các công ty con, các chi nhánh và các đơn vị trực thuộc; - Sự tham gia của chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác; - Số lượng đơn vị trực thuộc phải kiểm toán; - Yêu cầu về nhân sự. * Các vấn đề khác: - Khả năng liên tục hoạt động kinh doanh của đơn vị; - Những vấn đề đặc biệt phải quan tâm, như sự hiện hữu của các bên có liên quan; - Điều khoản của hợp đồng kiểm toán và những trách nhiệm pháp lý khác; - Nội dung và thời hạn lập báo cáo kiểm toán hoặc những thông báo khác dự định gửi cho khách hàng. - Dự trù kinh phí cho kiểm toán,... Trường hợp công ty kiểm toán đã lập kế hoạch chiến lược cho cuộc kiểm toán thì các nội dung đã nêu trong kế hoạch chiến lược không phải nêu lại trong kế hoạch kiểm toán tổng thể. Nội dung của kế hoạch kiểm toán tổng thể thường bao gồm các điều cụ thể: + Các bộ phận cần phải kiểm toán. + Những công việc cụ thể phải làm, các phương pháp kiểm toán phải thực hiện. + Trình tự thực hiện từng công việc và thời hạn hoàn thành. + Số kiểm toán viên tham gia, phân công những việc chính (từng bộ phận kiểm toán) cho từng người. + Dự trù kinh phí cho kiểm toán. Quá trình lập kế hoạch chi tiết kiểm toán viên phải lưu ý đến các vấn đề sau: - Các khoản mục của hợp đồng kiểm toán và mọi trách nhiệm pháp lý. - Nội dung, thời gian của báo cáo hoặc các truyền đạt khác do khách hàng đã được dự kiến trong hợp đồng. - Ảnh hưởng của các qui định mới về kiểm toán và kế toán đối với việc kiểm toán. - Xác định các trọng điểm cần đi sâu. - Xác định mức độ trọng yếu của mục đích kiểm toán. - Các dữ liệu yêu cầu đặc biệt chú ý chẳng hạn như khả năng có thể xảy ra sai lầm, gian lận hoặc các vụ việc có liên quan đến người thứ 3. - Độ tin cậy của kiểm toán viên đối với hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. - Khả năng tái hiện các phần nhấn mạnh phải kiểm toán kỹ. - Bản chất, phạm vi của các bằng chứng kiểm toán đã thu được. - Các tư liệu của kiểm toán việc nội bộ có liên quan đến kiểm toán. - Các tư liệu có liên quan của các kiểm toán viên khác về hoạt động của các chi nhánh, công ty con của doanh nghiệp. - Ý kiến của các chuyên gia có liên quan. Kiểm toán viên cần có dẫn chứng bằng tài liệu toàn bộ kế hoạch kiểm toán của mình. Hình thức và quy mô tài liệu này tuỳ thuộc vào quy mô và mức độ phức tạp của kiểm toán. 2.3. Xây dựng chương trình kiểm toán Chương trình kiểm toán: là toàn bộ những chỉ dẫn cho kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán tham gia vào công việc kiểm toán và là phương tiện ghi chép, theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện kiểm toán. Chương trình kiểm toán chỉ dẫn mục tiêu kiểm toán từng phần hành, nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cụ thể và thời gian ước tính cần thiết cho từng phần hành. Nói cách khác, lập chương trình kiểm toán là việc hoạch định chi tiết về những công việc cần thực hiện và thời gian hoàn thành, với trọng tâm là các thủ tục kiểm toán cụ thể cần thực hiện đối với một đối tượng kiểm toán cụ thể. Một chương trình kiểm toán phù hợp sẽ giúp cho kiểm toán viên thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp với chi phí kiểm toán và thời gian kiểm toán hợp lý. Chương trình kiểm toán của hầu hết các cuộc kiểm toán được thiết kế thành 3 phần: thử nghiệm kiểm soát, thủ tục phân tích và thử nghiệm chi tiết nghiệp vụ và số dư tài khoản. Việc thiết kế các thử nghiệm đều gồm 4 nội dung: - Thủ tục kiểm toán cụ thể cần sử dụng: đây là những hướng dẫn chi tiết về quá trình thu thập một loại bằng chứng kiểm toán cá biệt ở một thời điểm nào đó trong khi tiến hành kiểm toán. Thủ tục kiểm toán cụ thể được xác định trên cơ sở mục tiêu kiểm toán, việc đánh giá rủi ro của kiểm toán viên. Ví dụ: để thu thập bằng chứng về sự hiện hữu của hàng tồn kho gửi tại kho công cộng, kiểm toán viên có thể chỉ cần yêu cầu xác nhận của đơn vị kinh doanh kho công cộng, hoặc nếu thận trọng hơn thì kiểm toán viên yêu cầu phảI được chứng kiến kiểm kê số hàng trên. - Quy mô mẫu chọn - Khoản mục cá biệt được chọn - Thời gian thực hiện Nói chung, việc xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán là một vấn đề thuộc về xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên căn cứ vào mức trọng yếu được thiết lập và mức rủi ro được đánh giá. Trong công việc này, một mặt kiểm toán viên phảI thận trọng để đảm bảo hợp lý về khả năng phát hiện các sai lệch trọng yếu, nhưng mặt khác cũng phảI cân nhắc về chi phí và thời gian để tối ưu hoá chi phí của cuộc kiểm toán. Điều này không chỉ liên quan đến trình độ chuyên môn của kiểm toán viên , mà còn đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về tình hình kinh doanh và hệ thống kiểm soát nội bộ của đối tượng kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán được duy trì trong suốt quá trình làm kiểm toán. Tuy nhiên, khi có những thay đổi về điều kiện, hoặc có các hậu quả ngoài dự kiến của phương pháp kiểm toán cũng có thể dẫn đến việc xem xét lại kế hoạch và chương trình kiểm toán. Khi có các biến động lớn dẫn đến điều chỉnh kế hoạch kiểm toán phải được dẫn chứng bằng tài liệu. 3. Thực hành kiểm toán Thực hành kiểm toán là giai đoạn kiểm toán viên triển khai thực hiện các công việc đã ghi trong kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán. Thực hành kiểm toán gồm các công việc sau: - Nghiên cứu đánh giá hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ. - Kiểm tra các bộ phận của báo cáo tài chính. - Phân tích đánh giá. 3.1. Nghiên cứu đánh giá hệ thống kế toán và các qui chế kiểm soát nội bộ có liên quan đến cuộc kiểm toán 3.1.1. Nghiên cứu các quy chế kiểm soát nội bộ bao gồm + Thẩm định lại các nhân viên ở các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp. + Tham khảo các tài liệu mô tả các phương pháp công việc và sơ đồ lưu chuyển. + Thu thập các hiểu biết về qui định mà kiểm toán viên xác định là quan trọng đối với công việc kiểm toán. Kiểm toán viên cần kiểm tra xem xét những quy chế kiểm soát nội bộ nào đã áp dụng trong kỳ có thể tin cậy được. Nếu có những qui chế kiểm soát nội bộ khác nhau thì kiểm toán viên cần nghiên cứu cụ thể từng quy chế kiểm soát nội bộ. Kiểm toán viên cũng có thể quyết định không dựa vào các hệ thống kiểm soát nội bộ cá biệt nếu như: + Các qui chế kiểm soát này có nhiều thiếu sót hoạt động của chúng không đảm bảo cung cấp được các thông tin hoàn chỉnh, chính xác do hệ thống kế toán xử lý. + Kết quả đạt được của các quy chế kiểm soát nội bộ chưa phù hợp với yêu cầu để có thể tin cậy được. 3.1.2. Nghiên cứu, đánh giá hệ thống kế toán Công việc kiểm tra hệ thống kế toán thường bao gồm các mặt chủ yếu sau: * Việc tổ chức công tác và tổ chức bộ máy kế toán: + Mô hình tổ chức bộ máy kế toán. + Phân công nhân viên kế toán: kiêm nhiệm bất hợp lý. + Mức độ điện toán trong tổ chức kế toán:thủ công, phần mềm máy vi tính. + Chế độ kế toán doanh nghiệp áp dụng. * Việc lập, luân chuyển, xử lý và bảo quản chứng từ kế toán. + Các loại chứng từ kế toán sử dụng ở doanh nghiệp. + Trình tự, thủ tục lập và luân chuyển chứng từ. + Việc bảo quản chứng từ kế toán. * Việc tổ chức hệ thống sổ và phương pháp ghi sổ kế toán. + Hình thức sổ kế toán doanh nghiệp áp dụng. + Các loại sổ kế toán mà doanh nghiệp phải mở. + Các thủ tục liên quan đến việc mở sổ, ghi sổ, chữa sổ, khoá sổ. + Việc kiểm tra, đối chiếu giữa sổ kế toán chi tiết với tổng hợp, giữa thực tế với sổ kế toán...có được thực hiện thường xuyên hay không. + Việc bảo quản sổ kế toán. * Việc sử dụng các tài khoản kế toán. + Hệ thống TKKT doanh nghiệp sử dụng. + Các TK mà doanh nghiệp sử dụng. + Nội dung, phương pháp hạch toán của từng TK. ... * Việc lập và gửi báo cáo kế toán. + Danh mục các báo cáo kế toán mà doanh nghiệp phải lập và gửi. + Nội dung, phương pháp lập các báo cáo. + Thời hạn lập và gửi báo cáo kế toán. 3.2. Kiểm toán các bộ phận báo cáo tài chính 3.2.1. Giới thiệu các phần hành kiểm toán của Báo cáo tài chính Để kết luận toàn diện về báo cáo tài chính, kiểm toán phải tiến hành kiểm toán các bộ phận của báo cáo tài chính. Thông thường, việc tiến hành kiểm toán các bộ phận của báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng cách phân chia thành các phần hành kiểm toán báo cáo tài chính. Tuỳ thuộc vào quan điểm, định hướng của công ty kiểm toán và kiểm toán viên cũng như đặc thù của đơn vị được kiểm toán mà các công ty kiểm toán phân chia thành các phần hành kiểm toán phù hợp. Các phần hành kiểm toán thường được phân chia bao gồm: - Kiểm toán tiền và các khoản tương đương tiền. - Kiểm toán các khoản phải thu. - Kiểm toán hàng tồn kho. - Kiểm toán tài sản ngắn hạn khác. - Kiểm toán tài sản cố định hữu hình. - Kiểm toán tài sản cố định vô hình và tài sản khác. - Kiểm toán các khoản phải trả. - Kiểm toán chi phí phải trả. - Kiểm toán nợ dài hạn. - Kiểm toán vốn chủ sở hữu. - Kiểm toán doanh thu. - Kiểm toán giá vốn hàng bán. - Kiểm toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. - Kiểm toán thu nhập và chi phí khác... 3.2.2. Nội dung kiểm toán phần hành kiểm toán - Bản chất của nhóm tài khoản. Mô tả bản chất chung của nhóm tài khoản chủ yếu của phần hành kiểm toán. Chẳng hạn, khi kiểm toán tiền và các khoản tương đương tiền, kiểm toán viên phải nắm được bản chất của nhóm tài khoản này: Các tài khoản tiền và tương đương tiền phản ánh giá trị và lượng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng mà doanh nghiệp hiện có tại thời điểm lập báo cáo tài chính. Các khoản tương đương tiền là những chứng từ có giá, rất dễ dàng chuyển hoá thành tiền để đưa vào lưu thông, như các chứng khoán, cố phiếu, trái phiếu, ngân phiếu v.v. - Mục tiêu kiểm toán: Kiểm toán viên phải căn cứ vào các cơ sở dẫn liệu và đặc thù của các nghiệp vụ, các tài khoản của từng phần hành kiểm toán để xác định các mục tiêu kiểm toán phù hợp. Mục tiêu kiểm toán sẽ quyết định đến các thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên sẽ thực hiện. - Hướng kiểm tra. Thông thường, trong kiểm toán bất kỳ phần hành nào, kiểm toán viên cũng sẽ tiến hành kiểm toán theo hai hướng: từ tổng hợp đến chi tiết (Báo cáo tài chính, sổ kế toán, chứng từ kế toán; hoặc ngược lại từ chứng từ, sổ kế toán, báo cáo kế toán). Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào nhóm tài khoản mà kiểm toán viên có thể ưu tiên hoặc thiên về kiểm tra theo một hướng nhất định. - Các sai sót tiềm tàng có liên quan, nguyên nhân gây ra và các thủ tục kiểm toán. Kiểm toán viên phải luôn xác định được các sai sót tiềm tàng gây ra và nguyên nhân của nó để xác định và thực hiện các thủ tục kiểm toán thích hợp. - Các hồ sơ tài liệu, và giấy tờ làm việc cần thu thập. Để thu thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp, kiểm toán viên phải thu thập được các chứng từ, tài liệu và các giấy tờ làm việc của mình. Các tài liệu, chứng từ, giấy tờ làm việc sẽ được lưu trong hồ sơ kiểm toán. - Các thủ tục kiểm toán tổng hợp và chi tiết: Căn cứ vào mục tiêu kiểm toán và các sai sót tiềm tàng để kiểm toán viên xác định các thủ tục kiểm toán tổng hợp và chi tiết một cách phù hợp. Kết thúc kiểm toán từng phần hành, trợ lý kiểm toán hoặc kiểm toán viên tiến hành cuộc kiểm toán sẽ lập các bút toán điều chỉnh (nếu có), đồng thời lập các bút toán cho bản Ghi chú của báo cáo tài chính (Thuyết minh Báo cáo tài chính). 3.3. Phân tích đánh giá Trong quá trình kiểm tra thu thập các bằng chứng kiểm toán và nhất là khi kết thúc việc kiểm tra các nghiệp vụ kế toán có liên quan đến các bộ phận của báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải tiến hành việc phân tích đánh giá các thông tin tài chính thu nhận đươc 4. Kết thúc kiểm toán - Lập báo cáo kiểm toán. - Hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán. - Giải quyết các sự việc phát sinh sau khi lập báo cáo kiểm toán (nếu có). 4.1. Lập Báo cáo kiểm toán 4.1.1. Khái niệm Báo cáo kiểm toán Sau khi kết thúc cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải lập báo cáo kiểm toán bằng văn bản. Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán độc lập thể hiện ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về tính trung thực, hợp lý, hợp thức và hợp pháp của các thông tin định lượng và sự trình bày các thông tin định lượng này trên các báo cáo tài chính mà họ đã kiểm toán. Nội dung trình bày của báo cáo kiểm toán về báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có thể khác nhau nhưng phải chuyển đến cho người đọc bản báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính những đánh giá của kiểm toán viên về sự phù hợp của những thông tin định lượng của báo cáo tài chính cũng như sự tuân thủ của các chuẩn mực, hoặc chế độ kế toán hiện hành khi lập các báo cáo tài chính này. 4.1.2. Các yếu tố cơ bản của Báo cáo kiểm toán Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 - Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, một báo cáo kiểm toán bao gồm các yếu tố (phần) cơ bản sau đây: * Tên và địa chỉ công ty kiểm toán; * Số hiệu báo cáo kiểm toán; * Tiêu đề báo cáo kiểm toán; * Người nhận báo cáo kiểm toán; * Mở đầu của báo cáo kiểm toán: . Nêu đối tượng của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính; . Nêu trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán; * Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán: . Nêu chuẩn mực kiểm toán đã áp dụng để thực hiện cuộc kiểm toán; . Nêu những công việc và thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên đã thực hiện; * ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về báo cáo tài chính đã được kiểm toán. * Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán; * Chữ ký và đóng dấu. Báo cáo kiểm toán phải được trình bày nhất quán về hình thức và kết cấu để người đọc hiểu thống nhất và dễ nhận biết khi có tình huống bất thường xảy ra. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ tên, biểu tượng, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax và số hiệu liên lạc khác của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán phát hành báo cáo kiểm toán. Trường hợp có từ hai (02) công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một (01) cuộc kiểm toán thì phải ghi đủ các thông tin nêu trên của các công ty cùng ký báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán theo từng năm (số đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán). Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo do người khác lập. Báo cáo kiểm toán được phép sử dụng tiêu đề “Báo cáo kiểm toán”, hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính”, hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm... của Công ty...”. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ người được nhận báo cáo kiểm toán phù hợp với Hợp đồng kiểm toán. Người nhận có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc, hoặc các cổ đông đơn vị được kiểm toán. Ví dụ: “Kính gửi: Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc Tổng công ty...”. Báo cáo kiểm toán phải được đính kèm với báo cáo tài chính được kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ các báo cáo tài chính là đối tượng của cuộc kiểm toán cũng như ghi rõ ngày lập và phạm vi niên độ tài chính mà báo cáo tài chính đó phản ánh. Báo cáo kiểm toán phải khẳng định rõ ràng việc lập báo cáo tài chính là thuộc trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính dựa trên kết quả kiểm toán của mình. Báo cáo tài chính phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Việc lập báo cáo tài chính đòi hỏi Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị phải tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận; Phải lựa chọn các nguyên tắc và phương pháp kế toán cũng như phải đưa ra các ước tính kế toán và các xét đoán thích hợp. Ngược lại trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là kiểm tra các thông tin trên báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến về báo cáo này. Ví dụ đoạn mở đầu, như sau: “Chúng tôi (*) đã kiểm toán báo cáo tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán tại ngày 31/12/X, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính năm tài chính kết thúc ngày 31/12/X được lập ngày ... của Công ty ABC từ trang ... đến trang ... kèm theo. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính này thuộc trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) công ty. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến về các báo cáo này căn cứ trên kết quả kiểm toán của chúng tôi”. (*) Trường hợp có từ hai (02) công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một (01) cuộc kiểm toán thì phải ghi rõ: “Chúng tôi (Công ty kiểm toán A và Công ty kiểm toán B) đã kiểm toán ...”. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán bằng cách khẳng định rằng công việc kiểm toán đã được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận. Điều đó chỉ khả năng của kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán xét thấy cần thiết tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Thủ tục này là cần thiết để đảm bảo cho người đọc báo cáo kiểm toán hiểu rằng cuộc kiểm toán đã được thực hiện theo các chuẩn mực và thông lệ được thừa nhận. Trong trường hợp riêng biệt, kiểm toán viên đã thực hiện các thủ tục kiểm toán khác thì cần phải ghi rõ trong báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ là công việc kiểm toán đã được lập kế hoạch và thực hiện để có được sự đảm bảo hợp lý là các báo cáo tài chính không còn chứa đựng những sai sót trọng yếu. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ các công việc đã thực hiện, gồm: a- Các phương pháp kiểm toán (chọn mẫu, thử nghiệm cơ bản,...) những bằng chứng kiểm toán đủ để xác minh được thông tin trong báo cáo tài chính; b- Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận); Các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập báo cáo tài chính; c- Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng đã được Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập báo cáo tài chính; d- Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên. Ví dụ đoạn nêu phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán, như sau: “Chúng tôi đã thực hiện công việc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (hoặc Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận). Các chuẩn mực này yêu cầu công việc kiểm toán lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo hợp lý là các báo cáo tài chính không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu và áp dụng các thử nghiệm cần thiết, các bằng chứng xác minh những thông tin trong báo cáo tài chính; đánh giá việc tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, (hoặc được chấp nhận), các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng, các ước tính và xét đoán quan trọng của Giám đốc cũng như cách trình bày tổng quát các báo cáo tài chính. Chúng tôi cho rằng công việc kiểm toán của chúng tôi đã đưa ra những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của chúng tôi.” Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về các báo cáo tài chính trên phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. Khi đánh giá sự tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành để lập báo cáo tài chính, cần đánh giá trên phương diện tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán thông dụng khác được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận) bằng mẫu câu, như: "Báo cáo tài chính được lập phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán Quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán thông dụng khác được Bộ Tài chính chấp nhận tại văn bản số... ngày...) và phù hợp với các quy định pháp lý có liên quan". Ngoài ý kiến đã được nêu ra về tính trung thực và hợp lý mà báo cáo tài chính phản ánh và sự tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán đã nêu ở đoạn 07, 23 nêu trên, báo cáo kiểm toán còn phải đưa ra ý kiến về tính tuân thủ của báo cáo tài chính đối với các quy định pháp lý có liên quan khác. Ví dụ, đoạn nêu ý kiến được đưa ra như sau: “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan”. Trường hợp không xác định được chuẩn mực kế toán được sử dụng để lập báo cáo tài chính là của quốc gia nào thì tên của nước - nơi doanh nghiệp khách hàng hoạt động phải được nêu ra trong báo cáo kiểm toán. Khi báo cáo tài chính được gửi ra ngoài Việt Nam thì trong báo cáo kiểm toán của mình, kiểm toán viên phải nhắc đến các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán Việt Nam đã áp dụng, ví dụ bằng một đoạn như: “Phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành”. hoặc: “Phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán phổ biến được Việt Nam chấp nhận...”. Thông tin cụ thể này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết chính xác các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán đã được áp dụng để lập báo cáo tài chính. Trong trường hợp báo cáo tài chính được lập ra để sử dụng ở ngoài Việt Nam (Ví dụ: Báo cáo tài chính được dịch ra ngôn ngữ, hoặc chuyển đổi ra đơn vị tiền tệ khác bản báo cáo tài chính gốc) kiểm toán viên cần xác định xem có cần ghi rõ chuẩn mực kế toán quốc tế hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán khác được chấp nhận đã sử dụng để lập báo cáo tài chính trong phần thuyết minh báo cáo tài chính hay không? Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán. Điều này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết rằng kiểm toán viên đã xem xét đến các sự kiện (nếu có) ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, hoặc báo cáo kiểm toán cho đến tận ngày ký báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ địa điểm (Tỉnh, Thành phố) của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Ngày ký báo cáo kiểm toán không được ghi trước ngày Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị ký báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh và lập lại trong quá trình kiểm toán thì ngày ký báo cáo kiểm toán được phép ghi cùng ngày với ngày ký báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán phải ký rõ tên của kiểm toán viên đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam - Người chịu trách nhiệm kiểm toán, và ký rõ tên của Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) của công ty (hoặc chi nhánh công ty) kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Dưới mỗi chữ ký nói trên phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam. Trên chữ ký của Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) phải đóng dấu của công ty (hoặc chi nhánh) chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Giữa các trang của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính đã được kiểm toán phải đóng dấu giáp lai. Phù hợp với thông lệ chung của Quốc tế, Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) được phép ký bằng tên của Công ty kiểm toán thay cho chữ ký tên của mình, nhưng vẫn phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam của chính mình, và đóng dấu công ty kiểm toán. Trường hợp có từ hai (02) công ty kiểm toán cùng thực hiện một (01) cuộc kiểm toán thì báo cáo kiểm toán phải được ký bởi Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) của đủ các công ty kiểm toán theo đúng thủ tục ghi ở đoạn 29. Trường hợp này kiểm toán viên chịu trách nhiệm kiểm toán không phải ký tên trên báo cáo kiểm toán. Người được uỷ quyền ký báo cáo kiểm toán có thể là Phó Giám đốc công ty, Giám đốc hoặc Phó Giám đốc chi nhánh và phải là người có giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam và phải được Giám đốc công ty uỷ quyền bằng văn bản. Ngôn ngữ trình bày trên báo cáo kiểm toán là tiếng Việt Nam hoặc tiếng Việt Nam và một thứ tiếng nước ngoài khác đã thoả thuận trên hợp đồng kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải lập riêng cho từng cuộc kiểm toán báo cáo tài chính của từng đơn vị khách hàng (Công ty, đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập) theo thoả thuận ghi trên hợp đồng kiểm toán. Trường hợp kiểm toán báo cáo tài chính hợp nhất của Tổng công ty, theo thoả thuận trên hợp đồng kiểm toán, nếu kiểm toán báo cáo tài chính cho từng công ty độc lập của Tổng công ty thì phải lập báo cáo kiểm toán cho từng công ty độc lập. Nếu kiểm toán báo cáo tài chính cho từng đơn vị phụ thuộc trong Tổng công ty, thì được phép lập báo cáo kiểm toán hoặc “Biên bản kiểm toán”. Biên bản kiểm toán này phải bao gồm các nội dung cơ bản của báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính hợp nhất của Tổng công ty phải được lập dựa trên kết quả kiểm toán được thực hiện đối với các đơn vị thành viên, và kết quả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxgiao_trinh_kiem_toan_nghe_ke_toan_doanh_nghiep.docx
Tài liệu liên quan