Kinh tế học vi mô là bộ phận của kinh tế học, là môn khoa học về sự lựa chọn 
cho các tác nhân về các vấn đề kinh tế. Kinh tế học vi mô cung cấp các kiến thức nền 
tảng về kinh tế, giúp cho các nhà hoạch định chính sách vĩ mô và các nhà quản trị 
doanh nghiệp, người tiêu dùng hiểu rõ các quy luật và xu hướng phát triển kinh tế, từ 
đó, có thể vận dụng lý thuyết kinh tế vào việc ra quyết định khi tham gia vào nền kinh 
tế.
Ngoài ra, Kinh tế học vi mô còn trang bị các kiến thức cơ bản và cơ sở cho sinh viên 
về hoạt động của nền kinh tế thị trường thông qua việc phân tích các quy luật kinh tế cơ bản 
như: quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, Học phần này đề cập đến hành vi của các thành 
viên của một nền kinh tế đó là người tiêu dùng, doanh nghiệp và Chính phủ. Đồng thời, học 
phần này sẽ trang bị công cụ phân tích để sinh viên nắm bắt và áp dụng cho các môn học sau 
này. 
Cuốn giáo trình Kinh tế vi mô được biên soạn dựa vào chương trình chuẩn của Bộ giáo 
dục và Đào tạo và dựa trên cơ sở tham khảo các giáo trình được các tác giả ở các trường Đại 
học kinh tế nổi tiếng trong nước và quốc tế.
              
                                            
                                
            
 
            
                 85 trang
85 trang | 
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1096 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình kinh tế học vi mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩm làm ra sẽ không tăng nữa 
cho dù doanh nghiệp có thuê mướn thêm 
thật nhiều lao động, thậm chí số lượng sản 
phẩm làm ra còn bị giảm. Với số lượng lao 
động được sử dụng quá nhiều như trong giai 
đoan sản xuất này,thì việc quản lý nhân sự , 
quản lý sản xuất sẽ có nhiều khó khăn nên 
doanh nghiệp không kiểm soát được chất 
lượng sản phẩm làm ra và số lượng sản 
phẩm hỏng ngày càng nhiều hơn. Mặt khác, 
vì có quá nhiều lao động nên nơi làm việc 
chật chội hơn, tâm lý người lao động căng 
thẳng hơn và năng suất lao động thấp là 
không thể tránh khỏi. Dĩ nhiên, không doanh 
nghiệp nào lại muốn hoạt động trong giai 
đoạn sản xuất này. 
 Qui luật Qui luật 
 TP NS cận biên NS cận biên 
 tăng dần giảm dần 
TPmax 
 L1 L2 
L 
Hình 4.2. Tổng sản lượng của doanh 
nghiệp 
Tóm lại, nếu biểu diễn tổng sản lượng (TP) trên một đồ thị thì ta có đường TP như 
hình bên. Hình dạng chính xác của đường tổng sản lượng sẽ thay đổi tuỳ theo từng sản 
phẩm cũng như trình độ quản lý của doanh nghiệp. Vùng có quy luật năng suất biên 
tăng dần hay giảm dần có thể có thể có một khoảng nằm ngang biểu hiện năng suất 
biên không đổi. 
Để theo dõi sự tiến triển của tổng sản lượng người ta dùng khái niệm sản lượng 
biên MPL 
 64 
1.2.2. Sản lượng biên (MPL - năng suất biên) 
Sản lượng biên MPL là số lượng sản phẩm tăng thêm khi tăng thêm một đơn vị của 
yếu tố sản xuất là lao động. 
Có thể tính sản lượng biên MPL theo công thức: 
Sản lượng biên thay đổi qua hai giai đoạn : 
- Ban đầu, khi tăng số lượng lao động thì sản lượng biên tăng dần do các công việc 
được chuyên môn hoá và doanh nghiệp tận dụng được càng nhiều công suất thiết bị 
máy móc, nhà xưởng. 
- Tuy nhiên khi đạt được công suất tối đa của thiết bị máy móc, nhà xưởng thì số 
lượng lao động tăng thêm phải chia sẻ các yếu tố sản xuất khác và sản lượng biên bắt 
đầu giảm dần. 
 Hai giai đoạn này tương ứng với hai quy luật năng suất biên tăng dần và năng 
suất biên giảm dần. Tất nhiên, ở giai đoạn năng suất biên tăng dần doanh nghiệp luôn 
muốn tận dụng mọi năng lực có thể để sản xuất ra càng nhiều sản phẩm càng tốt, nên 
thông thường doanh nghiệp không dừng lại hoạt động ở giai đoạn này mà hầu hết hoạt 
động trong giai đoạn năng suất biên giảm dần. Do đó có thể nói, quy luật năng suất 
biên giảm dần là quy luật phổ biến của mọi doanh nghiệp. Quy luật này có ý nghĩa với 
cả hai yếu tố sản xuất là lao động (L) và vốn (K), nó điều khiển hành vi và quyết định 
của doanh nghiệp trong việc lựa chọn các yếu tố sản xuất như thế nào để tăng năng 
suất và giảm chi phí tối đa hoá lợi nhuận. 
 Ngoài ra, để xem xét mức năng suất lao động của từng lao động doanh nghiệp 
còn sử dụng chỉ tiêu sản lượng bình quân hay còn gọi năng suất bình quân. 
1.2.3. Sản lượng bình quân (APL - năng suất bình quân) 
 Sản lượng bình quân APL là số sản phẩm làm ra tính trên một lao động. 
Có thể tính sản lượng bình quân APL theo công thức: 
 APL= 
L
TP
Trong đó: L là số lượng lao động 
Về mặt hình học, năng suất biên (sản lượng biên) chính là độ dốc của đường tổng 
sản lượng ngay tại điểm mà ta đang xem xét, còn năng suất bình quân (sản lượng bình 
quân) là độ dốc của đoạn thẳng tính từ góc toạ độ đến điểm đang xét trên đường tổng 
sản lượng. 
'
LL TP
L
Q
MP 
 65 
Mối quan hệ giữa các đường TPL, 
MPL,APL như trong đô thị 4.3. 
Đặc điểm quan trọng trong mối quan hệ 
giữa các đường này là: 
 - Đường MPL đi qua điểm cực đại của 
đường APL. 
- Và khi đường tổng sản lượng TPLđạt cực 
đại thì sản lượng biên MPL= 0 
Có thể dễ dàng chứng minh đặc điểm này 
như sau: 
APLcực đại khi AP
,
L = 0 
 TP'L.L-L' .TPL 
 = 0 
 L2 
TP,,L.L-TPL= 0 
 TP 
 TP,L= =APL 
 L 
 Hay MPL= APLkhi APL đạt cực đại 
Ngoài ra vì : MPL=TPL 
Nên MPL= 0 là điều kiện để TPL đạt cực đại. 
Hình 4.3: Mối quan hệ giữa 
các đường tổng sản lượng trung 
bình APL sản lượng trung bình 
APL sản lượng biên MPL 
 TP 
 Q L1 L2 L3 
L 
 MPL MPL= APL 
 APL 
 L1 L2 L3 L 
1.3. Hàm sản xuất trong dài hạn 
 Trong dài hạn , tất cả các yếu tố sản xuất đều thay đổi nghĩa là cả lao động (L) 
và vốn (K) thay đổi. Một khi tất cả các yếu tố sản xuất đều thay đổi được doanh 
nghiệp sẽ xem xét đến sự thay thế giữa các yếu tố sản xuất này để có được phương án 
sản xuất tối ưu nhất. 
 Với hai yếu tố sản xuất lao động (L) và vốn(K) cùng thay đổi hàm sản xuất chịu 
sự ảnh hưởng của cả hai biến Lvà K. 
Q= f (L, K) 
 Để minh hoạ cho đường tổng hợp sản lượng (TP hoặc Q) mà doanh nghiệp sản 
xuất được các nhà kinh tế sử dụng đường đồng lượng. 
1.3.1. Đường đồng lượng 
Đường đồng lượng chỉ ra tất cả các kết hợp khác nhau giữa hai yếu tố sản xuất là 
lao động và vấn đề sản xuất ra cùng một mức sản lượng. 
 66 
Khi doanh nghiệp sử dụng một kết hợp 
nào đó giữa lao động và vốn (L,K) thì 
doanh nghiệp sẽ sản xuất được một mức 
sản lượng hiệu quả là Qnào đó. Biểu diễn 
trên một hệ trục toạ độ với trục hoành là số 
lượng lao động (L) thay đổi và trục tung là 
số lượng vốn (K) thay đổi thì kết hợp này 
cho ta một điểm.Lẽ đương nhiên,doanh 
nghiệp có vô số những lựa chọn khác nhau 
giữa số lượng lao động và vốn để có thể 
đạt được mục tyêu sản xuất ra số lượng 
sản phẩm Q nào đó. Những kết hợp này 
cho ta một đường đồng lượng như trong 
hình 4.4. 
Hình 4.4:Đường đồng lượng 
K 
 K1 
 1 
K 2 2 
 L1 L2 L 
Đường đồng lượng có những đặc điểm như sau: 
- Có vô số những đường đồng lượng, càng xa góc toạ độ phản ánh mức sản lượng 
càng lớn. Thật vậy, như đã đề cập ở trên chúng ta chỉ xem xét trong điều kiện các 
doanh nghiệp sản xuất hiểu quả, do đó nếu có nhiều hơn số lượng các yếu tố sản xuất 
thì doanh nghiệp sẽ sản xuất ra số lượng sản phẩm nhiều hơn. 
- Các đường đồng lượng dốc xuống và lồi về phía góc toạ độ. Doanh nghiệp sẽ 
giảm được một số lượng tương ứng nào đó của yếu tố sản xuất nào đó thì trong điều 
kiện sản xuất hiệu quả, doanh nghiệp sẽ giảm được một số lượng tương ứng nào đó 
của yếu tố sản xuất khác để đảm bảo mục tiêu sản xuất như ban đầu. Nghĩa là, các yếu 
tố sản xuất có một quan hệ tỷ lệ nghịch nên các đường đồng lượng luôn dốc xuống. 
Ngoài ra, khi yếu tố lao động được đưa vào ngày càng nhiều để thay thế cho lao động 
ngày một nhiều thì hiệu suất sử dụng vốn cũng giảm, chính điều này làm cho các 
đường đồng lượng có dạng lồi về phía góc toạ độ . 
- Các đường đồng lượng không cắt nhau. Dĩ nhiên, nếu hai đường đồng lượng nào 
đó cắt nhau thì phải có một đường thể hiện những kết hợp của các yếu tố sản xuất của 
quá trình sản xuất không hiệu quả, điều này trái với giả định ban đầu của một hàm sản 
xuất . 
Đường đồng lượng như đề cập ở trên cho ta biết để đạt được một mục tiêu sản xuất 
nào đó doanh nghiệp có thể sử dụng những kết hợp khác nhau giữa các yếu tố sản 
xuất, nghĩa là có thể thay thế một số lượng yếu tố sản xuất này bằng một số lượng 
tương ứng yếu tố sản xuất khác. Độ dốc của đường đồng lượng ở một điểm cho ta biết 
tỷ lệ thay thế của các yếu tố sản xuất khác tại điểm đó và độ dốc này là: K/L. Giá 
trị tuyệt đối của độ dốc đường đồng lượng được các nhà kinh tế gọi là tỷ lệ thay thế 
biên kỹ thuật. Như vậy, nếu ký hiệu MRTS là tỷ lệ thay thế biên kỹ thuật thì ta có thể 
viết như sau: 
 MRTS = - 
K
L
MP
MP
L
K
 
 67 
Thật vậy, nếu xét hai điểm 1 và 2 như trong đồ thị trên thì ta có : 
 Q= (TPL)
,. L +(TPK)
,.K= 0(vì 2 điểm cùng nằm trên một đường đồng lượng) 
 MPL L + MPK. K = 0 
 MPL /MPK= - K /L = MRTS 
1.3.2. Các dạng đường đồng lượng 
Các đường đồng lượng như nghiên cứu ở trên là dạng phổ biết trong thực tế. Tuy 
nhiên, trong những trường hợp đặc biệt đường đồng lượng cũng có dạng như sau: 
1.4. Kết hợp đầu vào với chi phí thấp nhất 
- Đường đồng lượng là những đường thẳng 
dốc xuống và song song nhau. Trường hợp này, 
cùng một số lượng đầu ra nhưng có thể được sản 
xuất chỉ với lao động hoặc chỉ với vốn hoặc là 
sự kết hợp cả hai theo một tỷ lệ thay thế kỹ thuật 
không đổi. Sự thay thế giữa các yếu tố sản xuất 
ở đây được gọi là sự thay thế hoàn hảo. Hình 
dáng các đường đồng lượng trong trường hợp 
này như hình vẽ bên. Với số lượng đầu ra Q3 có 
thể được sản xuất chỉ với số lượng vốn K3 như ở 
Ahoặc chỉ với số lượng lao động L3 như ở C hay 
hay ở cả hai đầu vào là (LB,KB) như ở B. 
 Ví dụ, một trạm thu phí cầu đường có thể chỉ 
dùng máy móc tự động hoặc chỉ một người thu 
lệ phí. 
- Đường đồng lượng là những đường hình 
chữ L song song nhau. 
 Trường hợp này, các yếu tố sản xuất không 
thể thay thế cho nhau mà đòi hỏi sự kết hợp 
riêng của lao động và vốn. Không thể có được 
đầu ra nếu không có sự kết hợp giữa vốn và lao 
động theo một tỷ lệ đặc biệt nào đó Do đó các 
đường đồng lượng có dạng chữ L. Chẳng hạn 
như ở Acần có sự kết hợp giữa lao động và vốn 
là (L1,K1), việc dùng thêm lao động hoặc vốn 
không làm tăng đầu ra. Ví dụ, để có thêm cung 
cấp dịch vụ Taxi, cần phải có sự kết hợp và bổ 
sung giữa một người lái và một chiếc Taxi, hoặc 
để có được đầu ra là quần áo hải có sự kết hợp 
giữa máy may và thợ may. 
Hình 4.5: Đường đồng lượng 
của các yếu tố sản xuất có khả 
năng thay thế hoàn toàn 
 Hình 4.6: Đường đồng lượng của 
các yếu tố sản xuất mang tính bổ 
sung 
K 
 B Q2 
 K1 A Q1 
 L1 L 
Q3 
B 
Q2 
Q1 
K 
K3 
 KB 
 LB L3 L 
 68 
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là lựa chọn như thế nào về các yếu tố sản xuất 
là lao động và vốn trong quá trình sản xuất để mang lại hiệu quả kinh tế nhất? Doanh 
nghiệp nên sử dụng ít lao động và nhiều vốn hay ngược lại? 
Để có thể trả lời câu hỏi này, ngoài việc xem xét đầu ra sản xuất được, doanh nghiệp 
cần biết chi phí cho sự kết hợp giữa các đầu vào ra sao trong điều kiện giới hạn cho phép. 
Chi phí cho các yếu tố sản xuất được minh họa thông qua đường đồng phí. 
1.4.1. Đường đồng phí 
Để có được một số lượng L lao động với mức tiền lương (giá cả của lao động) 
cho mỗi lao động là w đơn vị tiền thì doanh nghiệp cần phải chi ra một số tiền tương 
ứng là w.L và để có được một số lượng K đơn vị tiền vốn với mức lãi suất cho vay 
(giá của vốn) là r% thì doanh nghiệp cũng phải chi ra r.K đơn vị tiền. Như vậy, nếu 
gọi TC là tổng chi phí để mua các yếu tố sản xuất có thể viết: TC = w.L + r.K 
Theo phương trình này, nếu doanh nghiệp dự kiến chi ra một khoảng tiền TC 
như nhau thì doanh nghiệp có được rất nhiều cách lựa chọn khác nhau về số lượng 
lao động và vốn. Những lựa chọn cho những tập hợp khác nhau về số lượng lao 
động và vốn những lựa chọn cho những tập hợp khác nhau (L,K) với cùng chi phí 
TC cho ta một đường đồng phí và biểu thức ở trên cho ta phương trình của đường 
đồng phí. 
Có thể viết phương trình đường đồng phí theo cách khác như sau: 
 K = L
r
w
r
TC
 
Phương trình này có dạng hàm bậc nhất K 
nên đường biểu diện của nó trên hệ trục toạ TC/r 
độ với trục hoành biểu diễn của nó trên hệ 
trục toạ độ với trục hoành biểu diễn số lượng 
vốn K là một đường thẳng dốc xuống do độ 
dốc - w/r là số âm. 
Ứng với mổi mức tổng chi phí ta sẽ có một 
 đường đồng phí, do đó sẽ có vô số những 
 đường đồng phí khác nhau, và nếu với các 
 TC1 TC/W L 
giá trị cho trước của w, r thì các đường này Hình 4.7: Đường đồng phí 
song song với nhau, càng xa góc toạ độ phản ánh mức tổng chi phí càng lớn. 
Dễ dàng nhận thấy đường đồng chi phí tương tự như đường giới hạn ngân sách mà 
chúng ta đã nghiên cứu ở chương III. Sự thay đổi của đường giới hạn ngân sách khi 
giá của các hàng hoá Xvà Y thay đổi. 
1.4.2. Tối thiểu hoá chi phí 
 69 
 Với nghiên cứu về đường đồng lượng và đường đồng phí như trên, giờ đây nếu 
kết hợp chúng trên cùng một hệ trục toạ độ sẽ cho ta câu trả lời về sự lựa chọn tối ưu 
của doanh nghiệp trong việc sử dụng các yếu tố sản xuất phục vụ cho quá trình sản 
xuất . 
 Giả sử mục tiêu của doanh nghiệp là sản xuất ra Q1 đơn vị sản phẩm. 
Doanh nghiệp có nhiều cách lựa chọn khác nhau vế sự kết giữa lao động và vốn để 
đạt mục tiêu sản xuất, nhưng sự lựa chọn đó phải nằm trên đường đồng lượng Q1 .Nếu 
doanh nghiệp quyết định sản xuất ở A thì doanh nghiệp phải chi ra số tiền là TC2. Nếu 
doanh nghiệp không lựa chọn sản xuất ở A mà: 
Lựa chọn một điểm khác nằm cao hơn K 
điểm A trên đường đồng lượng thì doanh KA 
nghiệp phải chi ra một số tiền nhiều hơn 
TC2, hẳn nhiên doanh nghiệp không làm A 
như vậy. Nếu lựa chọn những điểm thấp 
hơn điểm A thì những điểm này nằm trên 
đường đồng phí thấp hơn nên doanh nghiệp 
có mức chi phí thấp hơn TC2. Sự lựa chọn 
tối ưu là ở điểm E, tại đây doanh nghiệp chi E 
ra một khoảng tiền TC1 nhỏ nhất nhưng vẫn 
đạt được mục tiêu sản xuất Q1 đơn vị sản 
phẩm. Ở những mức chi phí thấp hơn TC1, TC0 TC1 TC2 
như TC0 chẳng hạn, doanh nghiệp không La Le L 
 thể sản xuất được Q1 đơn vị sản phẩm Hình 4.8. Kết hợp đầu vào với chi phí nhỏ nhất 
 Như vậy, để tối thiểu hoá chi phí sản xuất doanh nghiệp phải lựa chọn kết hợp 
giữa lao động và vốn tại điểm E sao cho đường đồng lượng tiếp xúc với đường đồng 
phí. Tại điểm tiếp xúc Eta có độ dốc đường đồng lượng bằng độ dốc đường đồng phí. 
Hay: 
K
L
MP
MP
L
K
r
w
r
w
L
K
  
r
MP
w
MP KL  
 Điều kiện tối thiểu hoá chi phí là: MPK MPL 
 r w 
 TC = w.L + r.K 
 Điều kiện này cho biết, khi các chi phí dược tối thiểu hoá thì một đồng chi phí 
cho mỗi yếu tố sản xuất là như nhau . 
 70 
 Trên thực tế, giá cả của các yếu tố sản xuất thường xuyên thay đổi. Trong điều 
kiện kỹ thuật cho phép nếu giá của yếu tố sản xuất nào rẻ hơn doanh nghiệp sẽ ưu tiên 
sử dụng yếu tố sản xuất này được gọi là tác động thay thế. 
 Dù rằng, sự thay đổi giá cả yếu tố sản xuất làm cho doanh nghiệp thay đổi việc 
sử dụng các yếu tố sản xuất theo hướng ưu tiên sử dụng yếu tố sản xuất có giá thấp 
hơn và cắt giảm yếu tố sản xuất có giá cao hơn, nhưng trong vài trường hợp sự giảm 
giá của một loại yếu tố sản xuất có thể khuyến khích doanh nghiệp tăng sản lượng, do 
đó sử dụng nhiều hơn cả hai loại yếu tố sản xuất. Tác động này được gọi là tác động 
cắt giảm chi phí. 
2. LÝ THUYẾT VỀ CHI PHÍ, DOANH THU VÀ LỢI NHUẬN 
Taị sao các doanh nghiệp lại quan tâm đến chi phí? Rõ ràng họ phải rất quan tâm 
đến chi phí đều làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác, chi phí còn quan 
trọng vì một lý do sâu sắc hơn là: các doanh nghiệp sẽ quyết định sản xuất và cung 
ứng một mặt hàng theo giá cả và chi phí của nó. 
2.1. Chi phí sản xuất 
2.1.1. Khái niệm về chi phí sản xuất 
 Chi phí sản xuất của một doanh nghiệp thường được coi là những chi phí bằng tiền 
mà doanh nghiệp phải ứng ra để mua các yếu tố sản xuất dùng vào việc sản xuất ra sản 
phẩm. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ nói lên một phần của toàn bộ chi phí sản xuất mà chi 
phí sản xuất đầy đủ phải bao gồm cả những khoản không thực sự chi ra. Khoản chi phí 
không thực sự chi ra này thường bị bỏ qua trong sự tính toán các khoản chi tiêu của doanh 
nghiệp và nó được gọi là chi phí cơ hội. Các khoản chi phí cơ hội này nằm dưới dạng như: 
từ sở hữu các yếu tố sản xuất, tiền lương của chủ doanh nghiệpvà khoản này được trả 
dưới hình thức lợi nhuận. Doanh nghiệp không chi ra bằng tiền các khoản chi phí cơ hội 
nhưng nó lại ảnh hưởng rất lớn trong quyết định cung ứng của doanh nghiệp. 
 Giả sử bạn có một căn nhà và bạn sử dụng nó để mở quán Cafe. Các khoản chi 
phí phát sinh thực tế là 10 triệu đồng /tháng và doanh thu là 15 triệu đồng /tháng. Như 
vậy, lợi nhuận mỗi tháng trong tính toán của bạn là 5 triệu đồng. Tuy nhiên, khi tính 
toán bạn đã bỏ qua các khoản chi phí như: nếu bạn không sở hữu căn nhà thì bạn phải 
thuê nó với mức tiền thuê có thể là 2 triệu đồng, bạn phải quản lý quán Cafe nếu 
không bạn có được mức lương 2 triệu đồng trên/tháng nếu đi làm cho một doanh 
nghiệp nào đó. Trong trường hợp này, lợi nhuận thực sự chỉ là 1 triệu đồng/tháng, 
nghĩa là ngoài các khoản chi phí thực tế phát sinh lẽ ra phải cộng thêm 4 triệu gọi là 
chi phí cơ hội. Nếu bạn là một nhà khoa học thì có thể bạn có được một khoản tiền 
lương là 10 triệu đồng/tháng và chắc chắn bạn đã quyết định không mở quán Cafe bạn 
sẽ bị lỗ 15 - (10 + 10 + 2) = -7 triệu đồng/tháng so với là một nhà khoa học. 
 Phần chi phí thực tế chỉ ra để mua các yếu tố sản xuất được gọi là chi phí kế 
toán . 
 Chi phí đầy đủ bao gồm cả phần chi phí kế toán và các chi phí cơ hội được gọi 
là chi phí kinh tế . 
 71 
 Trong kinh tế vi mô, khi nghiên cứu các loại chi phí là nhằm xem xét quyết định 
cung ứng của các doanh nghiệp nên chúng ta chỉ quan tâm đến các khoản chi phí kinh tế . 
Ngoài ra, do khái niệm chi phí kinh tế này đã bao gồm các khoản chi phí cơ hội, 
nên lợi nhuận bằng 0 cũng đủ để các doanh nghiệp tồn tại. 
2.1.2. Các loại chi phí sản xuất trong ngắn hạn 
 Tổng chi phí 
 Tổng chi phí TC là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã sử dụng để mua các yếu 
tố sản xuất phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh . 
 Tổng chi phí sẽ thay đổi nếu mua nhiều hơn các yếu tố sản xuất và tất nhiên 
trong điều kiện sản xuất hiệu quả thì số lượng đầu ra cũng nhiều hơn, tức là giữa đồng 
chi phí và số lượng đầu ra có mối quan hệ đồng biến. Ngoài ra, khi biểu diễn hàm tổng 
chi phí người ta thường biểu diễn nó theo số lượng sản phẩm được sản xuất ra: 
TC = f (Q) 
 Nếu biểu diện tổng chi phí trên hệ trục toạ độ (hình 4.9) thì đường tổng chi phí 
có hình dáng mang những đặc điểm sau: 
 + Thoạt đầu, khi số lượng sản phẩm được sản xuất ra tăng lên thì tổng chi phí 
cũng tăng nhưng với tốc độ chậm dần. Nguyên nhân là do trong giai đoạn sản xuất này 
mức sản lượng chịu ảnh hưởng của quy luật năng suất biên tăng dần nên tiếp kiệm 
được các khoản chi phí nhờ quá trình chuyên môn hoá . 
 + Khi đạt đến giới hạn trong chuyên môn hoá thì tổng chi phí sẽ tăng với tốc độ 
nhanh hơn tốc độ tăng của mức sản lượng. Lúc này, mức sản lượng chịu ảnh hưởng của 
quy luật năng suất biến giảm dần nên mỗi đơn vị sản lượng được sản xuất thêm phải hao 
tốn nhiều hơn các yếu tố sản xuất và vì vậy mà tổng chi phí cũng tăng với tốc độ cao 
hơn. 
 Như đã đề cập ở trên, các yếu tố sản xuất được phân chia thành hai loại là: Yếu 
tố sản xuất cố định và yếu tố sản xuất xuất biến đổi. Do đó, trong tổng chi phí cố định 
và chi phí biến đổi . 
 Chi phí cố định 
Chi phí cố định là khoản chi phí không lệ thuộc vào số lượng sản phẩm được sản 
xuất. Nó chính là chi phí cho các yếu tố sản xuất cố định như: khấu hao nhà xưởng, 
máy móc thiết bị trong ngắn hạn, các yếu tố sản xuất này không thay đổi khi tăng thêm 
sản lượng nên chi phí cho nó cũng không đổi. Đường chi phí cố định là một đường 
thẳng nằm ngang. 
 Chi phí biến đổi (VC) 
 Chi phí biến đổi là khoản chi phí phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được sản 
xuất, nó là chi phí để mua các yếu tố sản xuất biến đổi như: tiền lương của công nhân 
trực tiếp sản xuất, nguyên vật liệu, điện nước  
 72 
 Hình dạng của đường chi phí biến đổi giống như của đường tổng chi phí nhưng 
nằm bên dưới đường tổng chi phí một đoạn đúng bằng chi phí cố định. 
 Như vậy, có thể viết công thức tính tổng chi phí như sau : 
TC = FC +VC 
 Chi phí trung bình 
 Chi phí trung bình là tổng chi phí tính trên một đơn vị sản phẩm được sản xuất. 
Với khái niệm về chi phí trung bình như trên ta có công thức tính như sau: 
 Vì tổng chi phí TC bao gồm hai bộ phận là chi phí cổ định FC và chi phí biến 
đổi VC nên trong chi phí trung bình AC cũng bao gồm hai bộ phận là: Chi phí cố định 
trung bình và chi phí biến đổi trung bình. 
 Chi phí cố định trung bình 
 Chi phí cố định trung bình là C là chi phí cố định tính trên một đơn vị sản 
phẩm, công thức: 
 Chi phí biến đổi trung bình AVC là chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm 
 Công thức tính: 
 Như vậy, ta cũng có công thức khác để tính chi phí trung bình AC là : 
 AC = AFC + AVC 
Đường biểu diễn của chi phí trung bình 
có dang hình chữ U. 
Hình 4.10: Các đường chi phí trung bình 
Ban đầu ở những mức sản lượng thấp 
khi tăng thêm số lượng sản phẩm được sản 
xuất thì chi phí cố định trung bình giảm 
nhiều, đồng thời khả năng sử dụng công 
suất các máy móc thiết bị tăng lên, chuyên 
môn hoá sâu hơn do đó doanh nghiệp tiết 
kiệm được nhiều chi phí cho mỗi đơn vị 
sản phẩm làm ra. 
Tuy nhiên, khi đạt đến một giới hạn 
nào đó nếu tăng thêm sản lượng thì chi phí 
trung bình bắt đầu đi lên. Nguyên nhân là: 
Hiệu quả hoạt động trong sản xuất giảm 
sút, chi phí quản lý gia tăng. 
 Chiphí 
 AC 
 AVC 
ACmin 
AVCmin 
 AFC 
 Q 
 Hình dạng của các đường chi phí trung bình như trong hình 4.10. Đường chi phí cố 
định trung bình AFC luôn đi xuống khi sản lượng tăng. Đường chi phí biến đổi trung bình 
Q
FC
AFC 
Q
VC
AVC 
 73 
AVC có hình dáng tương tự như đường chi phí trung bình AC nhưng nằm ở vị trí thấp hơn, 
ngoài ra vì AFC luôn giảm nên điểm cực tiểu của AVC cũng nằm về bên trái nhiều hơn. 
 Chi phí biên 
 Chi phí biên là chi phí tăng thêm trong tổng chi phí khi sản xuất thêm một đơn 
vị sản phẩm. Có thể tính chi phí biên theo công thức: 
 MC = 
Q
TC
 = TC' = VC 
 Chi phí biên chính là độ dốc tại điểm của đường tổng chi phí. 
 Đường chi phí biên có dạng hình chữ U. Ban đầu, chi phí biên giảm dần do ảnh 
hưởng của quy luật năng suất biên tăng dần và sau đó tăng dần do ảnh hưởng của quy 
luật năng suất biên giảm dần. 
 Mối quan hệ giữa các đường chi phí ngắn hạn 
- Tổng chi phí (TC) , chi phí trung 
bình (AC) và chi phí biên (MC): 
Vì chi phí biên MC là độ dốc của 
đường tổng chi phí tại một điểm nên khi 
tổng chi phí có dạng lồi (đạo hàm cấp hai 
của TC âm TC " < 0) thì chi phí biên đi 
xuống và khi tổng chi phí chuyển từ lồi 
sang lõm thì chi phí biên lại đi lên. Ngay 
tại điểm uốn của một đường tổng chi phí 
(TC '' = 0) chính là điểm cực tiểu của 
đường MC. 
Đối với đường chi phí trung bình AC, 
vì AC = TC/ Q nên AC là độ dốc của 
đoạn thẳng tính từ góc toạ độ đến điểm đó 
trên đường tổng chi phí. Nếu từ gốc toạ độ 
kẻ một đường thẳng tiếp xúc với đường 
tổng chi phí TC tại điểm E, thì độ dốc của 
đoạn thẳng tính từ gốc toạ độ của điểm E 
trên đường tổng chi phí bằng với đoạn dốc 
của đường thẳng này. Tất cả những điểm 
khác nhau trên đường tổng chi phí (ngoại 
trừ điểm E) thì đoạn thẳng từ nó đến gốc 
toạ độ đều có độ dốc lớn hơn đường thẳng 
tiếp xúc kẻ từ góc toạ độ này. Nên tại 
điểm E đường chi phí trung bình AC đạt 
cực tiểu (Hình 4.11) 
 Hình 4.11: Mối quan hệ giưã đường 
tổng chi phí TC với đường chi phí biên 
MC và chi phí trung bình AC 
Chi phí TC 
 E 
 I 
 Q1 Q2 Q 
 Chi phí 
 MC 
 AC 
 Q1 Q2 Q 
 74 
 - Chi phí biên MC, chi phí trung bình AC và chi phí biến đổi trung bình AVC: 
 Xét về bản chất thì mối quan hệ giữa MC và AC giống như mối quan hệ của 
đường MPLvà đường APL mà ta đã nghiên cứu trong mục lý thuyết sản xuất, nên ta có 
thể dễ dàng thấy được đường MC cũng đi qua đường cực tiểu của đường AC. 
Hình 4.12 mối quan hệ giữa đường chi phí biên MC và các đường chi phí trung bình 
 Thật vậy, có thể dễ dàng chứng minh đặc điểm này như sau: 
 AC cực tiểu khi AC’ = 0 
  
2
'.'.
Q
TCQQTC 
 = 0  TC' .Q- TC = 0 
  MC= TC' = 
dQ
dTC
 = AC 
 Hay MC đi qua AC khi AC đạt cực tiểu 
 Mối quan hệ này có thể áp dụng cho đường chi phí biên MC và đường 
chi phí biến đổi trung bình AVC, cách chứng minh cũng tương tự. 
2.1.3. Chi phí sản xuất trong dài hạn 
 Trong dài hạn doanh nghiệp có thể thiết lập bất cứ quy mô sản xuất nào. Tất cả 
các yếu tố sản xuất đều được thay đổi nên không có khái niệm chi phí cố định. 
 Dài hạn có thể được xem như là một chuỗi những thời kỳ ngắn hạn kế tiếp 
nhau. 
 Chi phí trung bình dài hạn 
 Giả sử doanh nghiệp có 3 đơn vị xí nghiệp sản xuất có quy mô khác nhau. 
Những quy mô sản xuất này biểu thị bằng những đường chi phí trung bình ngắn hạn 
khác nhau là AC1, AC2, AC3. 
 Ứng với những sản lượng khác nhau doanh nghiệp sẽ lựa chọn quy mô có chi 
phí trung bình thấp nhất để sản xuất.Với mức sản lượng Q1, doanh nghiệp sẽ chọn xí 
Chi 
phí 
MC 
AC
 AVCmin 
Q 
AC 
AVC 
0 
 75 
nghiệp 1 vì quy mô của xí nghiệp này có chi phí trung bình AC1 thấp hơn chi phí trung 
bình AC2 của xí nghiệp 2. 
 Với mức sản lượng Q2 có thể lựa chọn xí nghịêp 1 hoặc 2 đều có chi phí trung 
bình như nhau. 
 Chi phí 
 AC1 ACn 
 AC2 AC3 
 LAC 
 Q1 Q2 Q3 Q4 Q 
Hình 4.13 Đường chi phí trung bình dài hạn LAC 
 Đối với mức sản lượng Q3 xí nghiệp sản xuất 2 sẽ có hiệu quả hơn. 
 Ở sản lượng Q4 thì xí nghiệp 3 sản xuất có chi phí trung bình thấp hơn của xí 
nghiệp 2. 
 Tương tự như vậy, doanh nghiệp có thể thiết lập hàng loạt xí nghiệp khác và ta 
có hàng loạt những đường chi phí trung bình. Chi phí trung bình dài hạn LAC của 
doanh nghiệp là hình bao của tất cả các đường chi phí trung bình AC ngắn hạn như 
trong hình 4.13 
 Nói chung, đường chi phí trung bình dài hạn LAC của doanh nghiệp có dạng 
hình chữ U. Trong dài hạn, doanh nghiệp gia tăng mức sản lượng bằng cách mở rộng 
quy mô sản xuất. Khi sản lượng tăng, đường chi phí trung bình dài hạn đi xuống, 
nghĩa là quy mô sản xuất lớn có 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 gtkt0010_p1_0664.pdf gtkt0010_p1_0664.pdf