Giáo trình Triết lí giáo dục

+ Tầng vật chất của hiện đại hóa là biểu tầng bao gồm các thành quả về kỹ thuật

công nghệ, dịch vụ, . Đây là hiện đại hóa diện mạo (bềmặt).

+ Tầng chế độ: Bao gồm tổ chức hành chính, quản lý xí nghiệp, phát luật, cơ cấu

tài chính , chế tạo độ giáo dục . (các nước công nghiệp hóa đều sớm thấy rằng, nếu

không có sự đảm bảo của chế độ hiện đại mà chỉ đơn thuần hiện đại và vật chất thì

không bao giờ thành công trong hiện đại hóa đất nước).

+ Tầng quan niệm hành vi: Là tầng sâu của hiện đại hóa. Đây là biểu hiện vềsự

cần thiết của việc thiết lập mô hình tư tưởng.

+ Quan niệm hành vi hiện đại (nếu không thực hiện chuyển biến con người

truyền thống sang con người hiện đại từ trong tâm lý, tưtưởng, phương pháp hành vi,

thực sự có thể thích ứng và thúc đẩy chế độ kinh tế, chính trịthì hiện đại hóa chất là

hữu danh vô thực. Hiện đại hóa con người được thực hiện theo 2 con đường chính:

thamg ra vào hoạt động thực tiễn của sự nghiệp HĐH và giáo dục).

pdf55 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Triết lí giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện tương rộng, bởi mỗi người vừa có thể 40 đi phục vụ người khác và cũng là đối tượng phục vụ của người khác). Phục vụ hoàn toàn là quan hệ công việc, là một quan hệ xã hội phổ biến. Mọi người đều bình đẳng về nhân cách. Ở thời hiện đại, không thể so sánh được bề rộng và chiều sâu của đời sống xã hội cũng như tốc độ và nhịp điệu đổi mới tri thức, do đó không có sự vật vĩnh cửu, bất biến, không có kinh nghiệm trêu chuẩn nào có thể áp dụng cho mọi sự vật). Mô hình giáo dục phục vụ lấy giáo dục suất đời là sợi dây chính, lấy giáo dục sơ cấp và trung cấp làm nền tảng cơ sở cho giáo dục suất đời. + Nội dung và phương pháp giáo dục suất đời là sợi dây chính, lấy giáo dục sơ cấp và trung cấp làm nền tảng cơ sở giáo dục suất đời. + Nội dung không hạn chế trong nhà trường mà tạo ra sự liên tưởng tới mọi gia đình (dưới sự trợ giúp của tin học) và theo nguyên tắc "hợp tác", "đối thoại". Việt Nam đang trong gia đoạn phát triển công nghiệp, giáo dục được xây dựng theo mô hình có lợi cho việc mở rộng phạm vi được giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục làm chính. Tuy nhiên ở chừng mực nhất định, ảnh hưởng của xã hội thông tin, ở một số khu vực cũng sẽ thể hiện tôn chỉ giáo dục suất đời, phát triển theo hướng xã hội hóa học tập. Chính bởi vậy chúng ta đang đứng trước việc xây dựng một một hình giáo dục chưa có trong hiện thực phát triển lịch sử vừa mang tính cạnh tranh công nghiệp hóa, vừa đượm màu sắc của xã hội thông tin, giáo dục phục vụ). - Căn cứ vào đặc tính phát triển kinh tế trong thế kỷ XX, tương ứng với nó, giáo dục tồn tại 2 mô hình cơ bản: mô hình kế hoạch hóa và mô hình tự do. + Mô hình kế hoạch hóa: Mô hình này được hình thành trong cơ chế phát triển kinh tế có kế hoạch, sản xuất, lưu thông, phân phối đều căn cứ vào kế hoạch,(kế hoạch này được huế lập trên cơ sở hiểu biết và dự đoán của một số tổ chức trong cơ quan Nhà nước, vì thế cũng có thể phù hợp với thực tê và có thể sai lệch. Đây chính là sự phát triển kinh tế theo chủ nghĩa chủ quan- duy ý chí). Tương ứng với nền kinh tế kế hoạch hóa, giáo dục cũng phản ánh những tính chất tương tự: Kế hoạch giáo dục như đầu tư giáo dục, quản lý giáo dục, điều phối nguồn giáo viên, phân phối chiêu sinh, chế định giáo trình, chuyên ngành đào tạo, ... đều thực hiện thông qua kế hoạch. Thứ hai, giáo dục là đơn nhát, theo kế hoạch cứng, tất cả những qui phạm giáo dục, phát triển giáo dục, thời gian, đối tượng giáo dục, hệ thống giáo dục, chế độ chính sách giáo dục là không thay đổi, được hạn chế trong phạm trù giáo dục trường học, thước đo giá trị của giáo dục là học lực, lên lớp, văn bằng theo chuẩn mực qui định của Nhà ngước. + Mô hình tự do: Mô hình này được hình thành dựa trên sự phát triển kinh tế thị trường, nền kinh tế này không do kế hoạch mà là do thị trường điều trết quá trình sản xuất lưu thông, phân phối, trêu dùng hàng hóa. Giá trị hàng hóa được thể hiện thông 41 qua tự do cạnh tranh . Tương ứng với nó, giáo dục tạo nguồn nhân lực cũng trở thành một dạng thị trường sản xuất hàng hóa đặc biệt - con người, bởi vậy giáo dục đào tạo phải căn cứ vào nhu cầu thị trường để không ngừng điều tiết (mục trêu đào tạo, cơ cấu, tỷ lệ nguồn nhân lực cần đào tạo,cơ cấu loại hình trường học, chuyên môn, chương trình ... đều có kế hoạch động, mềm dẻo. Ở mô hình này nổi lên 2 đặt điểm là: Thứ nhất là tính tự do: Tính tự do được biểu hiện trong sự linh hoạt của hệ thống, nội dung chương trình, tuyển sinh, ... tính tự trị và tự chủ của phát triển giáo dục. Thứ hai là tính đa dạng: Thị trường vốn đa dạng, bởi vậy giáo dục đào tạo phải tương thích với loại thị trường này (loại hình trường lớp, hình thức đào tạo . ) - Tuy nhiên các mô hình nêu trên không hoàn toàn là tuyệt đối về kế hoạch hay tự do. Tên gọi của loại kiểu mô hình chỉ hàm ý về nguyên tắc cơ bản, khuynh hướng chỉ đạo của nó. Mô hình kế hoạch trong mô hình tự do trong phát triển giáo dục luôn thống nhất với chính trị, kinh tế và văn hóa tương ứng. Mỗi quốc gia là một thể hữu cơ hoàn chỉnh, giáo dục là bộ phận cấu thành của hệ hữu cơ này, có sự ảnh hưởng qua lại để điều hòa lẫn nhau. Song, do yêu cầu của sản xúât~hiện đại và sự phát triển KHKT,do sự tăng cường lẫn nhau giữa các nước, sự khác biệt giữa hai loại mô hình này càng được thu hẹp (hơn 400 năm trước trong "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" Mác đã chỉ rõ:"Tình trạng bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp của địa phương, của dân tộc trước kia đã mất đi, bây giờ đã được thay thế bởi sự qua lại lần nhau, dựa vào nhau trên các phương diện của các danh tộc. Sản xuất vật chất như vậy, sản xuất của tinh thần cũng như vậy, thành quả của hoạt động tinh thần của các dân tộc đã trở thành thứ mà mọi người cùng hưởng thụ"). Trên thực tế, hiện nay các nước đều đang kéo dài niên hạn giáo dục bắt buộc, phổ cập trung học, mở rộng và phát triển giáo dục cao đẳng, đại học, phát triển mạnh giáo dục nghề nghiệp. Về quản lý, nước tập quyền giáo dục như Liên Xô Pháp đã lần lượt giảm bớt quyền lực tập trung, giảm bớt kế hoạch, tăng cường tính linh hoạt. Ngược lại, các nước có sự phân quyền giao dục như Mỹ đã nhấn mạnh tới vai trò của tập trung thông qua việc đầu tư ngân sách trong việc cơ cấu nhà trường, phát triển mạng lưới, ... Trong chương trình học, các nước đều chuyển theo xu hướng tăng cường kiến thức cơ sở chuyên ngành, một mặt ở cấp độ cao thì phân hóa chuyên biệt để đào tạo nhân tài. - Giáo dục Việt Nam hiện náy chủ yếu thuộc mô hình kế hoạch hóa, song đã dần có tính thích ứng và linh hoạt, trếp thu một số yếu tố của mô hình tự do để phát triển giáo dục. - Cần hiểu răng sự khác biệt giữa mô hình kế hoạch và mô hình tự do không chỉ là sự khác biệt của chế độ giáo dục (bao gồm chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ chi ngân sách, phân phối, chiêu sinh, chế độ dạy học ... ) mà còn là sự khác biệt của hình thái ý thức. Không nên nhấn mạnh tính chung (sự tự do trong phát triển) mà coi nhẹ ý 42 thức hệ do ĐCS VN lãnh đạo. 3. Thuyết dao động chu kỳ "đồng hồ quả lắc" và mô hình giáo dục Sự phát triển giáo dục của mỗi quốc gia có thể dựa trên những quan điểm khác nhau: đa dạng hóa, xã hội hóa giáo dục,nhà nước,thống nhất quản lý giáo dục. Nhấn mạnh kiến thức lý luận (học thuật), lấy trường học làm trung tâm và nhấn mạnh kiến thúc thực tiễn, lấy xã hội làm trường học. Trên thế giới, phát triển giáo dục luôn tồn tại 2 cực: chủ trương giáo dục chính qui,coi trọng học thuật và chủ trương giáo dục phi chính qui, coi nhẹ học thuật, coi trọng thực tiễn. 2.1. Mục đích trung tâm của mô thức học thuật của giáo dục là coi trọng học thuật, việc học tập được thực hiện ở nhà trường, tất cả hoạt động giáo dục đều có liên hệ với nhà trường, trếp nhận giáo dục đồng nghĩa với đi học, hạt nhân của trường học, đọc sách, tự nghiên cứu. Trình độ nhận thức được phân cấp thành cấp học, sự chuyển đổi cấp học được thực hiện qua thi cử, đánh giá và qua đó chọn lọc để đảm bảo chất lượng. Trình độ giáo dục càng cao, chọn lọc càng kỹ lưỡng, cạnh tranh càng gay gắt * Mô hình học thuật bị phê phán về đặc điểm yếu nhất của nó là chế độ thủ cựu cứng nhắc và thoát ly cuộc sống. Nó hạn chế phạm vi của chương trình học, hạn chế việc phát triển kinh nghiệm sống của học sinh 2.2. Mô hình thực tiễn (cách mạng) cắt giảm vị trí trung tâm trường học, coi trường học chỉ là một trong nhiều cơ cấu giáo dục, xã hội có tác dụng tích cực trong giáo dục, coi xã hội tà giáo viên Mô hình thực tiễn lấy xã hội làm trung tâm, nếu như mô hình học thuật có định hướng tới việc chiếm lĩnh kiến thức, còn mô hình thực tiễn lấy định hướng là hành động. Chương trình nội dung trong mô hình học thuật được xây dựng bởi các chuyên gia, học giả, còn trong mô hình thực tiễn nó được xây dựng bởi nhà chính trị hoặc quần chúng có kinh nghiệm. 2.3. Sự chao đảo, thay thế lẫn nhau giữa 2 mô hình giáo dục là hiện tượng phổ biên trong phát triển giáo dục của nhiều nước trên thế giới. * Ở Mỹ vào những năm 20 giáo dục phản đối lấy trường học làm trung tâm, lấy giáo viên làm trung tâm mà lấy học sinh làm trung tâm, chủ trương lấy xã hội làm giảng đường. * Sau chiến tranh thế giới thứ 2 đã ban hành "Luật giáo dục quốc phòng "lấy việc bồi dưỡng nhân tài có khoa học kỹ thuật cao làm mục trêu, tăng cường chương trình học về toán, khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, tăng cường hệ thống tri thức khoa trong giảng dạy ở trường học . * Sau những năm 60, xã hội Mỹ có nhiều vấn đề (mâu thuẫn chủng tộc, phong 43 trào phản chiếu , phong trào thanh niên , phụ nữ ... ) .Họ phê phán trường học, cho rằng nhà trường thiếu gánh vác trách nhiệm xã hội. Giáo dục Mỹ lại chuyển sang mô hình thực tiễn nhằm nâng cao quyền chủ động, tự giác của học sinh cải cách kết cấu chương trình, giới hạn niên cấp bị cắt bỏ, chương trình học truyền thống được thăng bằng chương trình "học tập độc lập", "chương trình học xây dựng học sinh". * Sau thập niên 80, chất lượng giáo dục nhà trường Mỹ xuống cấp, nhiều chương trình học thật nông cạn, trêu chuẩn học thuật bị hạ thấp, quản lý giáo dục bị buông lỏng, kỷ luật nhà trường bị xáo trộn, ... Nước Mỹ lại khôi phục nền giáo dục học thuật phục vụ cho sự phát triển các khoa học đi đầu như hàng không, sinh vật, hải dương học, năng lượng , vi tính . Giáo dục được phát triển nghiêng về các mô hình học thuật. Có thể nói, nước Mỹ đã trải qua 4 lần dao động theo chu kỳ, mỗi khi mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, chính trị, kinh tế xuất hiện nguy cơ, khi đó họ phai dựa vào giáo dục để trung hòa mâu thuẫn - Giáo dục Việt Nam theo mô hình thực tiễn. Còn khi gặp phải sự tụt hậu về khoa học, kỹ thuật, đào tạo nhân tài, phát triển khoa học mũi nhọn, giáo dục lại được phát triển theo mô hình học thuật. Lịch sử giáo dục Mỹ cũng cho thấy, độ dao động của đồng hồ quả lắc giữa 2 cực ngày càng nhỏ, các mô hình ngày càng trếp thu ưu điểm của nhau và có xu thế dung hòa, pha trộn. * Ở Liên Xô (cũ) nên giáo dục cũng trải qua 4 lần dao động lớn: - Trước năm 20, cuộc cải cách phá bỏ nền giáo dục xa hoàng, nền giáo dục phát triển theo mô hình thực tiễn (cách mạng), nhấn mạnh vai trò hoạt động của người học , xã hội hóa quá trình dạy học ... - Sau những năm 30, do nhà trường chưa duy trì được chất lượng dạy học, không thích ứng được sự phát triển kinh tế, nền giáo dục được chuyển sang mô hình học thuật với việc nâng cao chất lượng dạy học, khôi phục chế độ phương pháp giáo dục truyền thống, nhiệm vụ chính của nhà trường là truyền thụ tri thức khoa học. - Sau năm 1958 giáo dục Liên Xô được cải cách toàn diện, nhấn mạnh giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, với đời sống xã hội, xóa bỏ qui phạm giáo dục truyền thống, chuyển giáo dục sang mô hình thực tiễn (cách mạng). - Sau năm 1984, Liên Xô trếp tục triển khai cải cách giáo dục với sự dung hòa giữa 2 loại mô hình giáo dục. 2.4. Ở Việt Nam, mô hình giáo dục được xây dựng và chuyển đổi dựa trên sự phát triển khách quan và sự khác nhau của đời sống xã hội - Việt Nam là một quốc gia coi trọng luân lý truyền thống, nội dung giáo dục trong xã hội cũ chủ yếu là "tứ thư", "ngũ kinh'!, theo đuổi "hiểu biết mọi vật, chính tâm, thành ý" để tu dưỡng bản thân. Kẻ đi học chủ yếu là tầm chương, trích cú hiểu biết về luân thường đạo lý để ứng xử chứ không phải trếp thu tri thức hệ thống tri thức khoa học chủ yếu bởi sự hiếu kỳ - e dè - đành phải chấp nhận. 44 - Sau cách mạng tháng 8/1945 cho tới cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2(1956) trong việc xây dựng một nền giáo dục mới, chúng ta đã chú trọng cả mặt tăng cường học thuật và tính thực tiễn trong tổ chức các hoạt động giáo dục, đặc biệt là sau hòa bình lập lại(1954) ở miền Bắc cùng với cải cách ruộng đất, đánh đôi giai cấp tư sản mại bản, xóa bỏ công thương nghiệp tư bản tư doanh, đấu tranh chống tư tưởng nhân văn trong giới văn học nghệ thuật và giáo dục là luồn) sinh khí mới về tính thực tiễn trong giáo dục. Các hình thức lao động sản xuất được đưa vào nhà trường, các điển hình như lá cờ đầu Bắc Lý, trường thanh niên lao động XHCN Hòa Bình ... đều là những tấm gương về gắn giáo dục với việc đào ra lớp người lao động có năng lực hành động để phục vụ quê hương. Mô hình giáo dục nghiêng về mô hình thực tiễn hơn là học thuật. Thời gian thực hiện mô hình này kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới của đất nước 1991 với quan điểm chiến lược : Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài . Từ đó cho tới nay, vấn đề học thuật trong giáo dục được đề cao, cải cách giáo dục đề cập tới vấn đề nâng cao chất lượng của nội dung chương trình, hệ thống giáo dục mở rộng việc đào tạo đại học sau đại học, xã hội có xu hướng trọng người có bằng cấp thi cử là cửa ải đầy gian nan cho lớp trẻ, cũng từ đó, những tiêu cực trong xã hội cũng gia tăng. Những năm cuối cùng của thế kỷ 20, giáo dục gắn liền với nhà trường nhiệm vụ chính của học sinh là học tập, cùng với sự xâm nhập của cơ chế thị trường, lao động của học sinh được thay thế bằng đồng tiền đóng góp cho cơ sở đào tạo...chính điều này tạo nên nguồn lực ngăn cách ở mức độ khác nhau giữa học sinh và đời sống xã hội. Cơ cấu đào tạo, nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội đi theo mô hình học thuật cũng tạo ra sự mất cân đối: chú trọng đào tạo đại học là coi nhẹ đào tạo công nhân - "lắm thầy nhiều thợ", chương trình đào tạo, NCKH nặng tính hàn lâm nên hiệu quả thực tiễn không cao, nguồn ngân sách chi cho đào tạo không nhỏ nhưng sau khi ra trường nhiều người không có việc làm, gây ra tình trạng lãng phí mang tính xã hội. - Từ sau Đại hội Đảng X, giáo dục Việt Nam đang có xu thế chuyển sang mô hình thực tiễn, chú trọng tới tính hữu dụng của nội dung chương trình, đào tạo ngành nghề được chú trọng, thu hút các lực lượng xã hội tham gia đào tạo để đáp ứng nhu cầu của chính họ...Sự "chuyển cực " này trong sự phát triển giáo dục Việt Nam là tín hiệu đáng mừng trong giai đoạn CNH - HĐH đất nước khi mà nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ khoa học và đặc biệt là tay nghề được đặt lên như một trêu chuẩn cất lõi để đáp ứng đòi hỏi của phát triển sản xuất. Tuy nhiên, nếu phát triển thái quá phần thực tiễn mà sao nhãng phần học thuật sẽ là một sai lầm mà việc sửa chữa nó sẽ rất nan giải ? Để dung hòa giữa 2 mô hình này, một mặt chúng ta mở rộng mạng lưới ở trường cao đẳng và THCN, tăng qui mô và số lượng, mặt khác tạo ra hệ thống các trường đại học có chất lượng - trường trọng điểm, mở rộng xã hội hóa giáo dục, quyền tự chủ của cơ sở đào tạo nhưng có sự tự kiểm định, đánh giá chất lượng nghiêm ngặt, thay đổi hình thực thi tuyển, tăng cường quản lý theo luật .... cùng với sự thay đổi cơ chế quản lý Nhà nước về giáo dục sẽ làm giảm bớt khoảng cách giữa hai mô hình phát triển giáo 45 dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Phân tích sự chuyển đổi mô hình giáo dục giúp chúng ta có được cách nhìn và cách làm hợp lý và hiệu quả đối với giáo dục trọng những điều kiện của sự phát triển kinh tế - xã hội, đó là: - Phải có sự phân tích kỹ lưỡng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nước, khu vực và thế giới, không chạy theo phong trào quần chúng, đôi khi cả dư luân xã hội. - Không ham lợi trước mắt dễ dẫn tới vội vàng, phải từng bước, thận trọng thực hiện nhằm đạt tới kết quả bền vững. - Giáo dục phải dựa vào sức mạnh xã hội, dựa vào thầy giáo, vào lực lượng cán bộ khoa học có trình độ. - Cần thường xuyên xem xét các mô hình giáo dục trong nước và nước ngoài, trước đây để làm ra, từ đó những ưu điểm vận dụng vào hiện tại để phát triển giáo dục. - Cần thống nhất giữa đào tạo thực dụng và học thuật, giữa thông và chuyên, không nên tư duy theo kiểu tách biệt và đối lập giữa lập. 3. Thuyết tương phản trong phát triển mô hình giáo dục - Khoa học xã hội đưa ra khái niệm tương phải để chỉ một hiện tượng hay một vấn đề lý luận khi được nhìn ở những góc độ khác nhau, thì có thể rút ra được nhuận kết luận khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. - Từ góc độ triết học, Kante đã bàn về mâu thuẫn giữa 2 luận đề cùng tồn tại và bài trừ lẫn nhau và ông gọi hiện tượng này là thai qui luật tương phản", ông đã đưa ra 4 nhóm hai qui luật tương phản làm ví dụ: + Thời gian và không gian có hạn, thời gian và không gian là vô hạn. + Trên thế giới tất cả là đơn nhất, không thể phân chia, trên thế giới tất cả là phức hợp có thể phân chia. + Trên thế giới có sự tồn tại của tự do, trên thế giới không tồn tại tự do. + Thế giới có nguồn gốc, thế giới không có nguồn gốc. Trong giáo dục ta có thể nêu ra một sôi hiện tượng tương phản sau: * Về bản chất giáo dục và mục đích giáo dục: + Giáo dục tái hiện cuộc sống - Giáo dục chuẩn bị cho cuộc sống. + Giáo dục hướng đạo - giáo dục phục vụ. + Giáo dục nhằm tới phát triển cá nhân - giáo dục nhằm phục vụ xã hội. + Bình đẳng trong giáo dục - bất bình đẳng trong giáo dục. + Giáo dục nhằm phát triển toàn diện - giáo dục phiến diện. 46 + Giáo dục có mục đích - giáo dục phi mục đích. * Về chế độ giáo dục: + Chế độ giáo dục tập quyền - chế đô phân quyền. + Thống nhất, tập trung giáo dục - đa dạng hóa giáo dục. + Đơn phương hóa giáo dục - xã hội hóa giáo dục. * Về tổ chức nhà trường: + Giáo dục trường học - giáo dục phi trường học. + Trường học khép kín - trường học mở cửa. + Trường học chính qui - trường học phi chính qui. * Về nội dung chương trình giáo dục: + Trọng tâm là các khoa học tự nhiên - trọng tâm là các khoa học xã hội. + Lấy khoa học làm cất lõi - lấy thực hành làm cất lõi. + Chú trọng kiến thức phổ thông - chú trọng kiến thức hướng nghiệp. + Chú trọng kinh nghiệm gián trếp (phòng thí nghiệm) - chú trọng kinh nghiệm trực trếp (tham gia vào thực tiễn). +Chú trọng khoa học cơ bản - chú trọng khoa học chuyên ngành. * Về mặt phương pháp giáo dục : - Học qua sách vở - học bằng kinh nghiệm cuộc sống. -Thầy giáo là trung tâm của quá trình giáo dục - học sinh là trung tâm của QTGD. - Thụ động trếp nhân kiến thức - chủ động phát hiện kiến thức. - Lý trí là điểm tựa cho phát triển - cảm xúc là điểm tựa cho phát triển (nỗ lực - hứng thú). - Lớp học là môi trường giáo dục - phân nhóm theo năng lực. - Nguyên tắc tập thể trong giáo dục - cá biệt hóa trong giáo dục. - Giáo dục kỷ luật - chủ nghĩa tự do. - Hợp tác - cạnh tranh. Dựa trên thuyết tương phản, chúng ta sẽ xem xét một số vấn đề cụ thể trong giáo dục. * Xã hội bản vị và cá nhân bản vị : Quan điểm xã hội bản vị và cá nhân bản vi được hiểu là việc giáo dục con người hoặc là lấy xã hội làm xuất phát điểm, nhấn mạnh lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, hoặc 47 là lấy cá nhân làm xuất phát điểm, nhấn mạnh lợi ích cá nhân khi lý giải và xử lý mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, cá nhân với tập thể. - Ở Việt Nam trước đây, việc giáo dục (tự giác hay tự phát) đều lấy xã hội làm gốc, lợi ích quốc gia là "thiên đạo" cá nhân phải phụ tùng xã hội. Khi vô điều kiện (cơ chế của sự nhượng bộ lợi ích này được thực hiện theo đẳng cấp tông pháp "quân, thần, phụ, tử"). - Ở Trung Quốc, tư tưởng giáo dục của Không Tử, Mạnh Tử, Đổ Trọng thư đều theo quan điểm lấy xã hội bản vị làm gốc trong đạo làm người. - Ở Phương Tây, từ Beclatu đến Heghen cũng chủ trương đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, song nhìn chung, triết học phương Tây, nhấn mạnh lợi ích, quyền lợi, hưng thú cá nhân lấy sự vận động của cá nhân làm xuất phát điểm, xã hội chỉ được coi như yếu tố cố vấn. Cũng theo đó, người ta coi lợi ích vật chất là xuất phát điểm, lấy việc cá nhân thu được lợi ích nào không trong hành động làm trêu chí cơ bản để phân biệt hiệu quả hoạt động, nó không thừa nhận lợi ích trừu tượng nào ngoài lợi ích cá nhân. Hậu quả của quan điểm này làm cho chủ nghĩa cá nhân cực đoan có đất để mở rộng: Sự bùng nổ của hàm muốn cá nhân dẫn tới việc xâm phạm lợi ích tập thể lợi ích xã hội, hình thành một loại trói buộc xã hội: Mọi người đều có quyền tự do phát triển, có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của người khác. Các thành viên trong xã hội đều có nguyện vọng được tự chủ, mong muốn thu được lợi ích cao nhất phản đối sự can thiệp của người khác, bảo vệ quyền lợi và tự do của mình, hy vọng trong công tác xã hội sẽ thực hiện được mong muốn của mình. Để hạn định mưu cầu cũng có lợi. Nếu trong khuôn khổ của sự hợp tác này, nếu ai chỉ chăm lo đến lợi ích của riêng mình, không tôn trọng người khác thì sẽ bị trừng phạt thông qua pháp luật (chứ không phải do người này áp đặt cho người kia). Sự phát triển của xã hội đến một lúc nào đó sẽ hình thành ý thức về việc bảo vệ quyền lợi cá nhân không còn là việc riêng ai đó mà trở thành vấn đề chung của toàn xã hội. Sự ra đời của pháp luật nảy sinh từ ý thức này, trong đó có tính đến quyền lợi, lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng để cố định những gì cá nhân có thể thực hiện và những gì cá nhân phải tuân thủ. Pháp luật đại diện cho xã hội, thay mặt xã hội bảo vệ quyền lợi cá nhân và trừng phạt những hành vi xâm phạm đến lợi ích cá nhân và cộng đồng (ở Việt Nam trước đây, để diết trết mối quan hệ giữa người với người, con người với xã hội, người ta lấy luân lý đạo đức làm phương trện. Còn ở phương tây lại thông qua pháp luật để điều trết mối quan hệ này. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng trong xã hội có giai cấp, có kẻ thống trị là người bị trị, pháp luật nằm trong một số người tàn có và bảo vệ của quyền lợi của họ). - Trong xã hội lấy cá nhân làm gốc, vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để giúp cho mọi người quan tâm đến xã hội, đến tập thể, khi cần thể sẵn sàng từ bỏ lợi ích cá nhân đế mang lại lợi ích cho tập thể. 48 - Trong xã hội lấy xã hội làm gốc, vấn đề cần quyết là làm thế nào để đảm bảo cho những nhu cầu, lợi ích ham muốn chính đáng của con người được thực hiện, bảo đảm được sự phát triển tự do của cá nhân. - Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, sự phát triển của con người không tách rời với sự phát triển lịch sử, tư duy của con nói là sản phẩm của lịch sử, rằng sự phát triển của con người chính là một trong những trêu chí đánh giá sự phát triển của xã hội, sự phát triển của cá nhân là trền đề cho sự phát triển tập thể, sự phát triển của tập thể luôn bắt đầu bởi sự phát triển cá thể của mối cá nhân. Trong cùng một thời đại lịch sử, sự phát triển của con người là có sự khác biệt. Điều này được tạo nên bởi nhân tố tự nhiên và nhân tố xã hội - trong đó có giáo dục. Mác cũng cho rằng coi nhẹ mục trêu xã hội hay coi nhẹ mục trêu cá cá nhân đều là sai lầm, phiến diện. Không thể bàn về sự phát triển cá nhân đơn thuần về mặt tâm lý (nhu cầu, hứng thú, sở thích ...) thoát ly khỏi trình độ phát triển xã hội, và cũng không thể cho rằng chú trọng sự phát triển cá nhân sẽ ngăn cản sự phát triển của xã hội. * Giáo dục nhân tài và giáo dục đại chúng. Giáo dục là nhu cầu của cá nhân và của xã hội, bởi vậy trong mọi giai đoạn lịch sử, phát triển giáo dục là trách nhiệm của mỗi gia. -Trong xã hội phong kiến, giáo dục là một đặc quyền, là một giá trị tượng trưng về phân biệt đẳng cấp. Nhà nước có trách nhiệm giáo dục cho thiểu sổ tầng lớp đặc quyền, tách rời lao động sản xuất chứ không có trách nhiệm giáo dục cho quảng đại quần chúng lao động. Với cách làm đó, giáo dục nhân tài đồng nghĩa với trách nhiệm giáo dục của Nhà nước. - Sau cách mạng tư sản, cùng với việc xây dựng pháp luật bảo vệ quyền bình đẳng của mọi người, về phương diện lý luận, là sự bình đẳng về giáo dục cho mỗi cá nhân. Mặt khác, sự phát triển của sản xuất hiện đại đặt ra nhu cầu giáo dục đến với mọi người, để tất cả cần có trình độ văn hóa nhất định đáp ứng nhu cầu sản xuất. - Tuy nhiên, trong tình trạng kinh phí, đầu tư có hạn cho giáo dục, giáo dục muốn thích ứng được với nền sản xuất đại hiện, cần thiết phải lựa chọn một bộ phận người, đề đào tạo, giúp cho có thể đảm nhận được những ví trí trọng yếu trong nên sản xuất xã hội. Đây chính là là sự hy sinh lợi ích trước mắt của một bộ phận người, thậm chí của nhiều người để đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất cho một số người, giúp cho họ có sự cống hiến nhiều hơn cho xã hội. (Braxin là một ví dụ: Sau những năm 70, hơn một nửa kinh phí giáo dục được đấu tư cho giáo dục cao cấp: Trong vòng 5 năm (70 - 75) số lượng sinh viên tăng gấp 3 lần, gấp hơn 5 lần tốc độ phát triển của giáo dục sơ cấp: năm 1960 kinh phí cho giáo dục mầm non và trểu học là 3 3 ,5 % tổng kinh phí giáo dục, nhưng đến năm 1976 chỉ còn 15,1%, gần 114 số trẻ em ở độ tuổi đi học không có trường học ). (Việc đào tạo nhân tài không chỉ tính đến trước mắt mà phải bồi dưỡng lớp nhân 49 tài cho tương lại, thêm nữa phát triển giáo dại phải đảm bảo yêu cầu về gia trị nhân văn trong giáo dục về dân chủ, bình đẳng xã hội, quyền lợi của cá nhân. Đây là điều mà Braxin, đất nước có nền kinh tế xếp thứ 8 trên thế giới đx mắc sai lầm trong phát triển giáo dục). - Để dung hòa giữa quan điểm giáo dục nhân tài và giáo dục đại chúng, xu thế phịu triển giáo dục của thế giới hiện nay là coi trọng giáo dục đại chúng ở giai đoạn đầu (giáo dục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdsgfuiapgo[perohuaioehrpoj[e (2).pdf
Tài liệu liên quan