Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  511
HIỆU QUẢ CỦA VALPROATE SODIUM  
TRONG ĐIỀU TRỊ ĐỘNG KINH TOÀN THỂ VÔ CĂN Ở TRẺ EM 
Lê Văn Tuấn*, Phạm Quỳnh Nga** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Sodium valproate lần đầu được mô tả về tác dụng chống động kinh tại Pháp (1963), ở trong các tài 
liệu Châu Âu và sau đó được sử dụng rộng rãi nhất trong các thuốc chống động kinh. Hiện tại sodium valproate 
được sử dụng trong điều trị chống động kinh ở trẻ em với nhiều loạị cơn khác nhau, đặc biệt là trong nhóm trẻ 
động kinh toàn thể vô căn. 
 Mục  tiêu  nghiên  cứu:  đánh  giá  khả  năng  dung  nạp  và  cải  thiện  lâm  sàng  của  đơn  trị  liệu  sodium 
valproate, liều điều trị trung bình, các yếu tố ảnh hưởng đến việc đáp ứng thuốc và tác dụng phụ của thuốc. 
 Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả trên 72 bệnh nhân động kinh toàn thể vô căn dùng đơn trị 
liệu valproate. Các biến số thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0.  
Kết quả: Tổng số 72 bệnh nhân, tuổi trung bình 5 tuổi 4 tháng; 59,7% bệnh nhân hết cơn hoàn toàn. Đáp 
ứng tốt nhất với thuốc điều trị là nhóm bệnh nhân có cơn co cứng‐co giật.Nhóm bệnh nhân có cơn vắng ý thức, 
bệnh nhân có cơn co cứng, hay cơn giật cơ đáp ứng kém hơn. Liều điều trị ở mức trung bình. Các tác dụng phụ 
thường nhẹ hay thoáng qua, thường gặp chủ yếu là tăng cân. 
Kết luận: valproate kiểm soát tốt cơn động kinh toàn thể vô căn ở trẻ nhỏ với tỷ lệ hết cơn cao, liều điều trị ở 
mức 10‐20mg/kg cân nặng. Tác dụng phụ đa phần nhẹ và không ảnh hưởng đến việc ngưng thuốc điều trị. 
Từ khóa: thuốc chống động kinh, động kinh trẻ em, chữa trị động kinh. 
ABSTRACT 
THE EFFICACY OF SODIUM VALPROATE IN TREATMENT  
OF IDIOPATHIC GENERALIZED EPILEPSIES IN CHILDREN 
Le Van Tuan, Pham Quynh Nga  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 511 ‐ 515 
Background: Sodium valproate was first described with antiepileptic effect in France (1963), in Europe and 
then is used as an anti‐epileptic drugs the most widely now. Currently sodium valproate is used in the treatment 
of epilepsy in children with many different types of seizures, especially in the group of children with idiopathic 
generalized epilepsies. 
Objective: The aim of this study was to evaluate tolerability and clinical improvement of sodium valproate 
monotherapy, factors affecting drug response and side effects of medications  
Methods:, descriptive cross‐sectional  study was performed  in 72 patients  suffering  from  IGE on  sodium 
valproate monotherapy. Statistical analysis is done with the software SPSS 16.0 for window.  
Result: The total number of 72 patients, median age 5 years 4 months, 59.7% of children became seizure‐free 
on valproate monotherapy. Respond well to treatment as patients with generalized tonic‐clonic seizures, Group of 
patients  with  absence,  tonic  or myoclonic  seizures  response  worse.  The  response  doses  are  in  the  average. 
Common side effects are mild weight gain, other side effects are generally mild and transient. 
Conclusion:  children with  diagnosed  IGE  response well  to  sodium  valproate.  The  average  dose  of  the 
responders was 10‐20 mg/kg. Side effects were mostly mild and do not affect the treatment discontinuations. 
Keywords: antiepileptic drugs, child neurology, epilepsy, treatment, neuropharmacology. 
* Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM  
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Quỳnh Nga ĐT: 0909333538 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 512
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Động  kinh  toàn  thể  vô  căn  chiếm  khoảng 
20% trẻ em được điều trị bệnh động kinh(5) Hầu 
hết  các  hội  chứng  động  kinh  toàn  thể  vô  căn 
khởi đầu ở trẻ em hoặc thiếu niên nhưng không 
như nhiều thông tin về các đáp ứng điều trị ở trẻ 
em mới được chẩn đoán. Trong các thuốc động 
kinh cổ điển thì sodium valproate có thể điều trị 
được tất cả các thể lâm sàng của cơn động kinh 
toàn thể(6). Năm1963, đặc tính chống động kinh 
của  valproate  được  khám  phá  bởi  Meunier. 
Năm 1964 đầu tiên công bố sodium valproate là 
thuốc chống động kinh. Năm 1978 FDA chuẩn 
thuận cho chỉ định điều trị động kinh cơn vắng 
ý thức, sau đó là điều trị động kinh cục bộ. Theo 
Guerri(2) nhận  định: với phổ  tác dụng  rộng  đối 
với  các  loại  cơn  động kinh và hội  chứng  động 
kinh, valproate  là  thuốc  lựa  chọn  đầu  tiên  cho 
trè em được chẩn đoán động kinh  lần đầu  tiên 
(cục bộ và  toàn  thể),  toàn  thể nguyên phát vô 
căn, động kinh giật cơ và động kinh với nhiều 
loại cơn khác nhau, động kinh với kích thích ánh 
sáng.  Nghiên  cứu  về  tác  dụng  của  valproate 
được  thức hiện ở nhiều nơi  trên  thế giới,  trong 
các  nghiên  cứu  so  sánh  với  các  nhóm  thuốc 
chống động kinh khác hay nghiên cứu mở trong 
đó valproate được chỉ định điều trị đầu tiên cho 
nhóm  trẻ mới được chẩn đoán động kinh  toàn 
thể vô căn, nhưng chưa được thực hiện tại Việt 
Nam. Xuất phát  từ  vấn  đề  trên  chúng  tôi  tiến 
hành  nghiên  cứu  trên  nhóm  trẻ  động  kinh  vô 
căn tại bệnh viện Nhi Đồng Hai với những mục 
tiêu cụ thể sau: Khả năng dung nạp và cải thiện 
lâm sàng của đơn trị liệu sodium valproate, tiều 
điều trị trung bình và các yếu tố ảnh hưởng đến 
khả năng đáp ứng cơn, tác dụng phụ của thuốc, 
đánh giá giữa tác dụng phụ với ích lợi việc kiểm 
soát cơn. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Chọn mẫu  là  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán 
động kinh toàn thể vô căn tuổi từ 12 tháng đến 
15 tuổi tại phòng khám bệnh viện Nhi Đồng hai 
được  chỉ  định  điều  trị  sodium  valproate  từ  6 
tháng trở lên. Thông tin từ lịch sử và xét nghiệm 
chẩn đoán đã được sử dụng để phân  loại động 
kinh của mỗi đứa  trẻ Các biến số gồm các đặc 
điểm  lâm  sàng,  loại  cơn  động  kinh,  hình  ảnh 
học,  điện  não  đồ,  thời  gian  điều  trị,  khả  năng 
đáp ứng cơn, tác dụng phụ của thuốc. Việc đánh 
giá mức độ đáp ứng thuốc được thực hiện bằng 
cách phỏng vấn thân nhân, thu nhận các dữ liệu 
cận  lâm  sàng mới  như  EEG,  xét  nghiệm  chức 
năng gan  thận về  tác dụng phụ của  thuốc. Các 
dữ liệu thu thập được ghi trong bệnh án nghiên 
cứu, sau đó nhập liệu vào phần nhập dữ liệu của 
phần mềm thống kê SPSS 16.0 để khảo sát về sự 
liên quan của các biến số với khả năng đáp ứng 
thuốc.  Trong  phân  tích  đơn  biến,  các  biến  số 
định  tính  được  phân  tích  bằng  phép  kiểm  chi 
bình phương, các biến số định  lượng phân  tích 
bằng phép kiểm t mẫu độc  lập nếu có phân bố 
chuẩn, bằng phép kiểm Anova  trong phân  tích 
đa biến. Từ đó rút ra nhận định về khả năng đáp 
ứng cơn với  từng nhóm  trẻ  theo phân  loại cơn 
động kinh toàn thể vô căn, liều thuốc trung bình 
được sử dụng, mối liên hệ giữa các yếu tố lên sự 
đáp ứng cơ, tác dụng phụ của thuốc.  
KẾT QUẢ 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
 Tỷ  lệ  trẻ nam nhiều hơn  trẻ nữ  (59,7%, và 
40,3%), trẻ ở nhóm từ hai đến năm tuổi chiếm tỷ 
lệ cao nhất trong nhóm (55,6%), tuổi trung bình 
là  5 năm  4  tháng.Trẻ  được phân  loại  theo  cơn 
động kinh trong đó cơn co cứng‐co giật chiếm tỷ 
lệ cao nhất (61,1%), cơn vắng ý thức(16,7%), cơn 
giật cơ (11,1%), cơn co cứng là 7 (9,7%), cơn mất 
trương lực (1,4%), không ghi nhận được cơn co 
giật. 20,6% trẻ có tiền căn sốt co giật, chiếm tỷ lệ 
khá cao trong nhóm. Đặc điểm điện não đồ ghi 
nhận 75% có sóng động kinh điển hình toàn thể, 
21,4%  có  sóng bất  thường nhưng không  điển 
hình, 3,6% có điện não đồ bình  thường. Hình 
ảnh học được  thực hiện  trên 33,3% bệnh nhân 
và  không  ghi  nhận  bất  thường.  9,7%  bệnh 
nhân phát triển tâm thần vận động chậm hơn 
so  với  lứa  tuổi,  nhóm  trẻ  phát  triển  bình 
thường là 90,3%. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  513
Đáp ứng với điều trị sodium valproate 
Số trẻ có thời gian điều trị kéo dài trên 2 năm 
chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  trong  nhóm  nghiên  cứu 
chiếm 51,1%. Thời gian điều  trị  trung bình của 
nhóm nghiên cứu là 20 tháng. Tuân thủ điều trị 
chiếm 68/72 trẻ. Đáp ứng điều trị hết cơn 100% 
sau 6  tháng  là 46%, sau 1 năm  là 52% và sau 2 
năm là 71 %. Đáp ứng chung hết cơn 100% toàn 
nhóm  nghiên  cứu  là  59,7%.  Đáp  ứng  tốt  với 
thuốc  điều  trị  là  nhóm  bệnh  nhân  có  cơn  co 
cứng‐co giật. Nhóm bệnh nhân  có  cơn  vắng  ý 
thức  cũng  đáp  ứng  khá  tốt  với  sodium 
valproate,  tuy  nhiên  với  bệnh  nhân  có  cơn  co 
cứng,  hay  cơn  giật  cơ  đáp  ứng  khá  với  thuốc 
điều trị, ghi nhận 1 bệnh nhân giật cơ đáp ứng 
kém với thuốc điều trị dù đã được dùng ở  liều 
điều trị trung bình. 
Đáp ứng với điều trị sodium valproate 
Liều điều trị và các yếu tố ảnh hưởng đến 
khả năng đáp ứng cơn 
Liều điều trị trung bình ở nhóm nghiên cứu 
là  14,2mg/kg/liều  2  lần một  ngày,  nhóm  động 
kinh giật cơ có  liều điều  trị  trung bình cao hơn 
các nhóm khác 18,9 ± 6,7 mg/kg/liều 2  lần một 
ngày.  Ở  nhóm  bệnh  nhân  hết  cơn  100%,  liều 
điều trị trung bình là 11,01 ± 4,4 mg/kg/liều 2 lần 
một ngày,  thấp hơn  so với nhóm  đáp  ứng hết 
cơn 50% và 30%, có thể nói Valproate sử dụng ở 
mức liều điều trị trung bình theo khuyến cáo từ 
10‐20mg/kg/liều 2 lần một ngày cho kết quả đáp 
ứng  thuốc  tốt.  Sự  khác  nhau  ở  khả  năng  đáp 
ứng cơn phụ thuộc vào loại cơn động kinh ở trẻ, 
đặc biệt ở nhóm bệnh nhân giật cơ, co cứng, mất 
trương lực với lâm sàng đa dạng, chẩn đoán khá 
phức tạp, khả năng đáp ứng kém hơn các nhóm 
khác. Các yếu  tố gồm  tuổi, giới,  tiền căn sốt co 
giật,  đặc  điểm  phát  triển  tâm  thần  vận  động 
không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng thuốc 
trên bệnh nhân. 
Tác dụng phụ của thuốc 
Tác dụng phụ nhận thấy trên 14 bệnh nhân, 
với  chủ yếu  là nhẹ hoặc  thoáng qua,  trong  đó 
chủ yếu là tăng cân trên 10 trẻ, tuy nhiên các tác 
dụng phụ này không  làm  cho bệnh nhân phải 
giảm liều hay ngưng điều trị. Không thấy có mối 
liên hệ giữa  liều  trung bình và  tác dụng phụ ở 
bệnh nhân. 
BÀN LUẬN 
Các nghiên cứu trên thế giới về tác dụng của 
sodium valproate  thường  được  thực hiện  ở  đa 
trung  tâm,  trong  đó  thường  so  sánh  tác  dụng 
điều  trị  của  sodium  với  các  loại  thuốc  chống 
động kinh khác như nghiên cứu của SANAD(8) 
đánh  giá  hiệu  quả  của  Sodium  Valproate, 
Lamotrigine, hoặc Topiramate đối với động kinh 
toàn  thể và không  xếp  loại năm  2007  tại Anh, 
một  thử  nghiệm  lâm  sàng  ngẫu  nhiên,  đối 
chứng, không mù đôi trên 716 bệnh nhân, trong 
đó valproate được sử dụng trên 238 bệnh nhân, 
tác giả nhận định: tỷ lệ không lên cơn sau 1 năm 
đối  với  valproate  cao  hơn  80%.  Sodium 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 514
valproate  vẫn  là  sự  lựa  chọn  tốt  hơn 
Lamotrigine.  Topiramate  có  hiệu  quả  ở  giữa 
Valpraote và Lamotrigine. Nghiên cứu  so  sánh 
tác  dụng  của  Sodium  valproate  và 
Carbamazepine  trên  260  trẻ  em với  động  kinh 
toàn thể nguyên phát hoặc động kinh cục bộ (có 
hoặc  không  toàn  thể  hóa  thứ phát)  của Verity 
CM(13) et al tại 63 phòng khám tại Anh và Ailen. 
Kết quả phân tích cho thấy có ít sự khác biệt của 
hai  loại  thuốc  đối  với  tác dụng  kiểm  soát  cơn 
động kinh cục bộ hay  toàn  thể, cả hai  loại đều 
cho  thấy khoảng 75% bệnh nhân không có cơn 
động kinh  trong vòng 12  tháng khoảng 45‐55% 
không  có  cơn  trong  vòng  hai  năm.  Một  số 
nghiên cức mở cũng được thực hiện như nghiên 
cứu của Holland K.D(4) và cộng sự  trên 84 bệnh 
nhân nhi tuổi từ 2‐18 mới được chẩn đoán động 
kinh  toàn  thể  vô  căn  được  sử  dụng  sodium 
valproate là đơn trị liệu đầu tiên năm 2010 57 % 
trẻ không có cơn động kinh sau khi dùng thuốc 
được 12 tháng. Kết quả đáp ứng thuốc toàn mẫu 
của chúng tôi là 59.7% cũng phù hợp với kết quả 
thu được  từ các nghiên cứu khác. Trong nhóm 
trẻ nghiên  cứu, nhóm  trẻ  có  cơn  động kinh  co 
cứng‐co giật toàn thể đáp ứng tốt nhất với điều 
trị.  Theo  nghiên  cứu  của  Nicolson  sử  dụng 
valproate trên trẻ động kinh vô căn, tác giả ghi 
nhận  bệnh  nhân  có  cơn  co  cứng‐cogiật  có  kết 
quả đáp  ứng  điều  trị  tốt nhất. Nhóm  trẻ động 
kinh vắng ý  thức  trong nghiên  cứu  của  chúng 
tôi  cũng  đáp  ứng  50%  hết  cơn  hoàn  toàn  với 
sodium  valproate.  Trong  một  nghiên  cứu 
Ollivier ML(12),  ông  nhận  thấy  nhóm  trẻ  ó  cơn 
vắng  ý  thức  không  đáp  ứng  tốt  thường  kèm 
theo  cơn  toàn  thể  co  cứng‐co  giật,  có  hơn  10 
cơn/ngày,  có  tuổi mắc bệnh nhỏ. Nhóm  trẻ  có 
cơn giật cơ, cơn co cứng, cơn mất trương lực với 
lâm  sàng  đa  dạng  và  phức  tạp  đáp  ứng  với 
thuốc khác nhau. Theo nghiên  cứu  của Hirano 
Y(3), về các yếu tố lâm sàng liên quan đến kháng 
trị ở động kinh giật cơ thiếu niên. Theo ông, mặc 
dù động kinh giật cơ thiếu niên có thể dễ dàng 
kiểm soát bằng các thuốc chống động kinh thích 
hợp, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy 
15 đến 20% bệnh nhân động kinh giật cơ  thiếu 
niên  kháng  trị  với  điều  trị mặc dù  được  chẩn 
đoán  chính  xác  và  lựa  chọn  thuốc  thích  hợp. 
Theo  nghiên  cứu  của  Fernando‐Dongas(1),  về 
động kinh giật cơ kháng trị với valproate, nhóm 
bệnh  nhân  không  đáp  ứng  với  đơn  trị  liệu 
valproate có  tần số bất  đối xứng  trên  điện não 
đồ nhiều hơn so với nhóm đáp ứng với điều trị, 
một  giả  thuyết  bệnh  nhân  đông  kinh  giật  cơ 
không đáp ứng với valproate có liên quan đến ổ 
động kinh cục bộ.  
Nhận thấy nhóm trẻ đáp ứng hết cơn 100% 
có  liều  điều  trị  trung  bình  là  11,01  ±  4,42 
mg//kg/liều, nằm trong khoảng khuyến cáo liều 
điều  trị duy  trì  ở mức  trung bình  theo khuyến 
cáo tứ 10‐20mg/kg cân nặng/liều. Nhóm trẻ đáp 
ứng  thuốc  kém  được  sử  dụng  ở  liều  cao  hơn 
nhưng không vượt quá 30mg/kg cân nặng. Theo 
nghiên  cứu  Lundberg(7)  về  liều  valproate  trên 
bệnh nhân nhi động kinh ông nhận thấy nhóm 
trẻ vắng ý  thức  đáp ứng  tốt với  thuốc với  liều 
10‐20mg/kg cân nặng 2  lần ngày và bệnh nhân 
động kinh giật cơ cần  liều cao hơn 15‐30mg/kg 
cân nặng 2 lần một ngày. 
Tuổi, giới, tiền căn sốt co giật, đặc điểm phát 
triển tâm thần khác khác nhau ở trẻ trong nhóm 
nghiên cứu không ảnh hưởng đến khả năng đáp 
ứng. Kết quả này của chúng tôi cũng có những 
nét  tương  đồng  với  kết  quả  nghiên  cứu  của 
Nicolson(10),  ông  cho  rằng  các yếu  tố như  tuổi, 
giới,  tiền  căn  sốt  co giật  của nhóm  bệnh nhân 
động  kinh  toàn  thể  vô  căn  không  ảnh  hưởng 
đến đáp ứng với thuốc chống động kinh mà yếu 
tố quyết  định  tác dụng  của  điều  trị phụ  thuộc 
chính vào loại đơn trị liệu nào được sử dụng 
Tác dụng phụ thường gặp có 10 trẻ tăng cân 
nhẹ so với cân nặng  trước khi sử dụng. Không 
có  trường  hợp  bệnh  nhân  phải  đổi  thuốc  do 
không  chấp  nhận  được  tác  dụng  phụ.  Theo 
nghiên  cứu  của Novak GP(11), về nguy  cơ  tăng 
cân trên trẻ điều trị động kinh, tác giả ghi nhận 
chỉ số cân nặng ban đầu ảnh hưởng lớn nhất đến 
mức  độ  tăng  cân  của  trẻ  khi  được  sử  dụng 
valproate mà không phụ  thuộc vào  các yếu  tố 
khác. Theo Mehrotra TN(9) sử dụng valproate với 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  515
liều  điều  trị  trung  bình  19,6mg/kg  cân  nặng/2 
lần ngày trong 90 bệnh nhân động kinh, ông chỉ 
nhận  thấy  tác dụng phụ  rất nhẹ, không  có bất 
thường về các chỉ số huyết học hay độc tính trên 
gan được ghi nhận. 
KẾT LUẬN 
Tóm  lại  valproate  kiểm  soát  tốt  cơn  động 
kinh toàn thể vô căn ở trẻ nhỏ với tỷ lệ hết cơn 
cao, liều sử dụng điều trị nằm ở mức trung bình. 
Tuổi,  giới,  đặc  điểm  phát  triển  tâm  thần  vận 
động, tiền căn sốt co giật, liều điều trị trung bình 
không ảnh hưởng lên sự đáp ứng cơn. Valproate 
có  tác  dụng  tốt  nhất  với  nhóm  trẻ  động  kinh 
toàn  thể vô căn với cơn co cứng‐co giật, nhóm 
trẻ động kinh giật cơ, co cứng đáp ứng kém hơn 
và đòi hỏi  liều  trung bình  thường cao hơn. Tác 
dụng phụ đa phần nhẹ và  thoáng qua,  thường 
gặp chủ yếu  là  tăng cân nhẹ nhưng không ảnh 
hưởng đến giảm liều hay ngưng điều trị.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Fernando‐Dongas  MC,  Radtke  RA,  VanLandingham  KE, 
Husain AM  (2000).  ʺCharacteristics  of  valproic  acid  resistant 
juvenile myoclonic epilepsyʺ. Seizure, 9 (6), pp. 385‐8. 
2. Guerrini  R  (2006).  ʺValproate  as  a  mainstay  of  therapy  for 
pediatric epilepsyʺ. Paediatr Drugs, 8 (2), pp. 113‐29 
3. Hirano Y, Oguni H, Osawa M (2008). ʺClinical factors related to 
treatment  resistance  in  juvenile  myoclonic  epilepsyʺ.  Rinsho 
Shinkeigaku, 48 (10), pp. 727‐32. 
4. Holland KD Monahan  S, Morita D, Vartzelis G, Glauser  TA 
(2010), ʺValproate in children with newly diagnosed idiopathic 
generalized epilepsyʺ. Acta Neurologica Scandinavica, 121 (3), pp. 
149‐153 
5. Jallon  P.,  Patrick  L.  (2005),  ʺEpidemiology  of  Idiopathic 
Generalized Epilepsiesʺ. Epilepsia, 46 (supplement s9), pp. 10‐14 
6. Lê Quang Cường  (2009).  ʺPhân  loại và  các nguyên nhân gây 
động kinh ʺ, Điều trị động kinh. Nhà xuất bản Y học, TP Hồ Chí 
Minh, tr.5‐44 
7. Lundberg  B,  Nergardh  A,  Boreus  LO  (1982).  ʺPlasma 
concentrations  of  valproate  during  maintenance  therapy  in 
epileptic childrenʺ. J Neurol, 228 (2), pp. 133‐41. 
8. Marson AG, Al‐Kharusi AM, Alwaidh M, Appleton R, Baker 
GA,  et  al  (2007).  ʺThe  SANAD  study  of  effectiveness  of 
valproate,  lamotrigine,  or  topiramate  for  generalised  and 
unclassifiable  epilepsy:  an  unblinded  randomised  controlled 
trialʺ. Lancet, 369 (9566), pp. 1016‐26. 
9. Mehrotra  TN, Aneja GK, Arora V, Goel  S,  Singh VS  (1990). 
ʺValproate  sodium  in  epilepsy.  A  clinical  trial  including 
monitoring of drug  levelsʺ. J Assoc Physicians  India, 38  (4), pp. 
277‐9. 
10. Nicolson  A,  Appleton  RE,  Chadwick  DW,  Smith  DF  (2004). 
ʺThe  relationship  between  treatment  with  valproate, 
lamotrigine, and topiramate and the prognosis of the idiopathic 
generalised epilepsiesʺ. J Neurol Neurosurg Psychiatry, 75 (1), pp. 
75‐9. 
11. Novak GP, Maytal  J, Alshansky A, Eviatar L, Sy‐Kho R, et al 
(1999).  ʺRisk  of  excessive  weight  gain  in  epileptic  children 
treated with valproateʺ. J Child Neurol, 14 (8), pp. 490‐5. 
12. Ollivier ML, Dubois MF, Krajinovic M, Cossette P, Carmant L 
(2009).  ʺRisk  factors  for  valproic  acid  resistance  in  childhood 
absence epilepsyʺ. Seizure, 18 (10), pp. 690‐4. 
13. Verity  CM,  Hosking  G,  Easter  DJ  (1995),  ʺA  multicentre 
comparative  trial  of  sodium  valproate  and  carbamazepine  in 
paediatric  epilepsy.  The  Paediatric  EPITEG  Collaborative 
Groupʺ. Dev Med Child Neurol, 37 (2), pp. 97‐108 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013  
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014