Hiệu quả mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tỉnh Hậu Giang năm 2017

Nghiên cứu đánh giá hiệu quả mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa đã được thực

hiện trong năm 2017 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang nhằm đánh giá hiệu quả của các mô hình

được chuyển đổi trên đất lúa. Trong nghiên cứu này, mục tiêu của đề tài tập trung vào đối

tượng nông dân đang canh tác trên đất lúa ở tỉnh Hậu Giang qua cách tiếp cận điều tra xã hội

học. Kết quả nghiên cứu cho thấy diện tích đất sản xuất của nhóm nông hộ chuyển đổi mô hình

canh tác thấp hơn so với diện tích đất của nhóm nông hộ trồng 3 vụ lúa. Kết quả phân tích về

hiệu quả của các mô hình canh tác được chuyển đổi cho thấy lợi nhuận của các mô hình chuyển

đổi cao hơn so với nhóm nông hộ trồng 3 vụ lúa. Kiểm định sự khác biệt về chi phí đầu tư và

lợi nhuận giữa các nhóm hoa màu được trồng trên đất lúa cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê ở mức ý nghĩa α=5%. Đối với nhóm hoa màu gồm dưa hấu, dưa gang có chi phí đầu

tư cao nhất, đồng thời cũng là nhóm hoa màu mang lại lợi nhuận cao nhất trong 4 nhóm hoa

màu được phân tích trong nghiên cứu. Tuy nhiên, giá cả không ổn định của các sản phẩm từ

các mô hình chuyển đổi luôn là yếu tố được quan tâm của nông hộ. Sự liên kết trong sản xuất

được xem như là một giải pháp được đề xuất trong nghiên cứu này nhằm nâng cao hiệu quả

chuyển đổi mô hình canh tác trên đất lúa của nông hộ.

pdf7 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 20/05/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Hiệu quả mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tỉnh Hậu Giang năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguồn thông tin tiếp cận về giá cả sản phẩm Kết quả khảo sát của nghiên cứu cho thấy Kỷ yếu Hội nghị khoa học 26 nguồn thông tin về giá cả hoa màu chủ yếu được nông dân tiếp cận từ thương lái thu mua, chiếm tỉ lệ cao nhất 45,7%. Kế đến là nguồn thông tin từ hàng xóm (chiếm tỉ lệ 40,6%), nguồn thông tin giá cả được tiếp cận tiếp theo là trên các phương tiện truyền thông như tivi, radio chiếm 13,7%. Trong phạm vi nghiên cứu này cho thấy nguồn thông tin hỗ trợ giá cả sản phẩm từ ngành khuyến nông địa phương, câu lạc bộ, hợp tác xã chưa phát huy được vai trò. Tất cả nông dân được phỏng vấn đều cho rằng không nhận được thông tin hỗ trợ giá cả từ ngành khuyến nông địa phương. Điều này cho thấy trong sản xuất hoa màu, nông dân vẫn còn bị động đối với giá cả của sản phẩm đầu ra, chủ yếu họ được cung cấp từ chính người mua. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, việc liên kết với công ty để đảm bảo sản phẩm đầu ra được thu mua ổn định vẫn còn sự bấp bênh đối với nông hộ. Hầu hết hoa màu được nông hộ sản xuất chủ yếu bán cho thương lái (chiếm 97,1%). Một tỉ lệ rất nhỏ nông hộ bán sản phẩm sau khi thu hoạch cho hàng xón hoặc ở chợ, lần lượt chiếm tỉ lệ là 1,9% và 1% (Hình 9). Việc cung cấp sản phẩm hoa màu cho công ty chưa từng xảy ra đối với các hộ sản xuất hoa màu được phỏng vấn trong phạm vi nghiên cứu này. Trong sản xuất nông nghiệp, hình thành mối liên kết giữa nhà nông với nhà doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết nhằm giảm chi phí đầu tư cho nông dân do được nông nghiệp hỗ trợ vật tư, kỹ thuật. Đồng thời đảm bảo đầu ra ổn định, tránh giá cả bấp bênh khi bán sản phẩm. Sự hình thành mối liên kết trong vùng sản xuất hoa màu của nông dân là điều cần thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất và thu nhập cho nông hộ. Lý do của sự chuyển đổi mô hình trên đất lúa Kết quả khảo sát lý do của sự chuyển đổi mô hình canh tác trên đất lúa cho thấy lợi nhuận của mô hình trồng màu trên đất lúa là yếu tố quan trọng tác động đến sự chuyển đổi của nông hộ. Trong phạm vi nghiên cứu này, yếu tố lợi nhuận được nông dân đánh giá rất cao và xem đó là tiêu chí hàng đầu của sự chuyển đổi mô hình, chiếm tỉ lệ 57,3%. Kế tiếp là những nông hộ làm theo hàng xóm, họ cho rằng hàng xóm canh tác các mô hình hoa màu có hiệu quả nên học hỏi làm theo (chiếm tỉ lệ 17,4%). Kết quả khảo sát cho thấy sự ảnh hưởng của dịch bệnh do canh tác 3 vụ lúa trong năm cũng là yếu tố làm cho nông dân phải đổi mô hình canh tác, tuy nhiên yếu tố này chỉ chiếm tỉ lệ 14% trong sự chuyển đổi. Bên cạnh đó, yếu tố về thời tiết cũng có tác động đến sự chuyển đổi của nông hộ nhưng chiếm tỉ lệ thấp (chiếm 10%). Riêng về chính sách của Nhà nước, nông dân cho rằng chưa ảnh hưởng nhiều đến việc chuyển đổi mô hình của họ trên đồng ruộng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng vai trò của ngành khuyến nông trong việc chuyển đổi mô hình canh tác của nông hộ, sự hỗ trợ của ban ngành địa phương chưa thật sự ảnh hưởng đến sự chuyển đổi mô hình canh tác ở nông hộ. Những yếu tố giúp nâng cao hiệu quả canh tác của các mô hình chuyển đổi trên đất lúa Kết quả phân tích cho thấy nông dân cho rằng chọn giống có chất lượng trong canh tác các mô hình chuyển đổi là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa (chiếm tỉ lệ cao nhất, 27,7%). Kế đến là ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong canh tác, chiếm tỉ lệ 24,3%. Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả của mô hình chuyển đổi canh tác, nông dân còn cho rằng các mô hình hoa màu được canh tác trên đất lúa phải phù hợp với mùa vụ sản xuất, thích nghi với điều kiện tưới tiêu của từng vùng (chiếm 19,9%). Sự liên kết trong sản xuất của các mô hình canh tác nông dân chưa có sự nhận thức về vai trò quan trọng, họ cho rằng sự liên kết với thị trường trong sản xuất là điều cần thiết đối với nông hộ (chiếm tỉ lệ thấp nhất, 13%). Từ kết quả nhận thức của nông dân cho thấy rằng, sự bấp bênh của giá cả sản phẩm nông nghiệp cũng ảnh hưởng một phần từ nhận thức của người nông dân, họ chưa chủ động tạo ra sự liên kết với công ty, doanh nghiệp để đưa thương hiệu của sản phẩm ra thị trường. Chính vì sự lõng lẽo trong liên kết sản xuất này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất, tình trạng được mùa mất giá thường xuyên diễn ra trong sản xuất nông nghiệp. Kết quả phỏng vấn nông hộ cho thấy, trong nhận thức của nông dân cho rằng việc liên kết với thị trường đầu ra là thuộc về vai trò của Nhà nước, còn đối với họ là sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng. Những khó khăn của nông hộ khi chuyển đổi Kỷ yếu Hội nghị khoa học 27 các mô hình canh tác Kết quả khảo sát về những khó khăn của nông hộ khi chuyển đổi các mô hình canh tác cho thấy giá cả sản phẩm đầu ra không ổn định luôn là yếu tố được quan tâm của nông hộ (chiếm tỉ lệ cao nhất, 31,3%). Chính vì thiếu sự liên kết trong sản xuất nên giá cả sản phẩm hoa màu chưa ổn định đối với nông hộ. Mặc dù vậy, yếu tố thiếu sự liên kết trong sản xuất nông dân chỉ nhận thức khó khăn chiếm tỉ lệ 10,3%. Yếu tố khó khăn tiếp theo sau giá cả là thiếu hụt nguồn lực lao động cho các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa, chiếm tỉ lệ 20,6%. Kết quả thảo luận nhóm với nông dân cho thấy, canh tác các mô hình trồng màu trên ruộng lúa đòi hỏi cần nhiều lao động do phải chăm sóc, tưới tiêu hằng ngày. Do vậy, đối với các nông hộ thiếu hụt nguồn lực lao động thì đây là một trong những khó khăn lớn để chuyển đổi mô hình. Song đó, không nắm vững kỹ thuật canh tác cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sản xuất, chiếm tỉ lệ 19,1%. Chi phí đầu tư vào các mô hình canh tác chuyển đổi trên ruộng lúa đòi hỏi khá cao, đây cũng là một trong những áp lực về tài chính đối với nông hộ khi chuyển đổi sang các mô hình canh tác này. Trong nghiên cứu này, thiếu vốn sản xuất được nông dân cho rằng là một trong những khó khăn của nông hộ (chiếm tỉ lệ 18,7%). KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu cho thấy nông hộ có chuyển đổi mô hình canh tác trên đất lúa có thu nhập cao hơn so với nông hộ trồng 3 vụ lúa/năm. Mặc dù chi phí đầu tư và lợi nhuận vào sản xuất lúa của nhóm nông hộ 2 lúa - màu thấp hơn so với nhóm nông hộ trồng 3 vụ lúa/năm nhưng lợi nhuận từ mô hình hoa màu trên đất lúa mang lại thu nhập cao hơn. Diện tích đất sản xuất của nhóm nông hộ chuyển đổi mô hình canh tác thấp hơn so với diện tích đất của nhóm nông hộ trồng 3 vụ lúa. Kiểm định sự khác biệt về chi phí đầu tư và lợi nhuận giữa các nhóm hoa màu được trồng trên đất lúa cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa α=5%. Đối với nhóm hoa màu gồm dưa hấu, dưa gang có chi phí đầu tư cao nhất, đồng thời cũng là nhóm hoa màu mang lại lợi nhuận cao nhất trong 4 nhóm hoa màu được phân tích trong nghiên cứu. Phân tích nguồn thông tin tiếp cận giá cả hoa màu của nông hộ cho thấy nông dân chủ yếu tiếp cận thông tin giá cả từ thương lái. Bên cạnh đó, thương lái cũng chính là người chủ yếu thu mua sản phẩm của nông hộ. Sự liên kết của nông hộ với công ty, doanh nghiệp tìm đầu ra cho sản phẩm còn hạn chế. Kết quả phân tích cho thấy giá cả sản phẩm đầu ra không ổn định còn là yếu tố khó khăn hàng đầu của nông hộ khi chuyển đổi mô hình canh tác trên đất lúa. TÀI LIỆU THAM KHẢO DƯƠNG VĂN CHÍN, (2004), Nghiên cứu đánh giá kinh tế, kỹ thuật và môi trường của hệ thống lúa – thủy sản và hệ thống lúa – cây trồng cạn ở Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2003, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu cấp Bộ. NGUYỄN CÔNG THÀNH, (2013), Những cơ sở chuyển đổi cơ cấu cây trồng một số vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Hội thảo “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, 25/10/2013, Đồng Tháp, trang 23-27. NGUYỄN NGỌC ĐỆ, LÊ ANH TUẤN, (2012), Sản xuất lúa và tác động của biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 141 trang. TRƯƠNG THỊ NGỌC CHI, DƯƠNG NGỌC THÀNH, (2012), Đánh giá lực lượng lao động nông thôn và đề xuất giải pháp đào tạo nghề cho lao động nông thôn thành phố Cần Thơ, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tỉnh. TRƯƠNG THỊ NGỌC CHI, (2013), Nghiên cứu mô hình canh tác tại một số địa điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Hội thảo “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, 25/10/2013, Đồng Tháp, trang 71-75.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_mo_hinh_chuyen_doi_co_cau_cay_trong_tren_dat_lua_ti.pdf
Tài liệu liên quan