Mục tiêu : xác định tỉ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng về chăm 
sóc huyết trắng bệnh lý (HTBL) và mối liên quan giữa thực hành với kiến 
thức, thái độ của phụ nữ từ 15 –49 tuổi bị viêm âmđạo (VÂĐ) đến khám 
phụ khoa tại các bệnh viện tuyến 2 TP. Hồ Chí Minh, năm 2005.
Phương pháp : nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành từ 23/05 
đến 07/09/2005 trên 422 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản bị VÂĐ đến khám 
phụ khoa tại bệnh viện (BV) Da Liễu, Hùng Vương, Trung tâm Kế Hoạch 
Hóa Gia Đình & Bảo vệ Bà Mẹ Trẻ Em (TTKHHGĐ). Phỏng vấn trực tiếp 
các đối tượng dựa trên bảng câu hỏi cấu trúc để thu thập các dữ kiện khảo 
sát.
Kết quả: trong 422 đối tượng được phỏng vấn, 70,62% trường hợp có 
kiến thức đúng về HTBL nói chung, 78,20% có thái độ đúng đối với việc xử 
trí HTBL, 77,25% phụ nữ nhận biết được tình trạng HTBL nhưng chỉ 
65,34% đi khám-điều trị tây y và 43,56% có quan hệ tình dục đúng khi ra 
HT bệnh. Khả năng đi khám-điều trị tây y ngay khi ra HTBL tăngcao nếu 
có thái độ đúng, sống ở nội thành hoặc bị VÂĐ do nấm, Trichomonas 
vaginalis/lậu. Thái độ đúng và việc tìm hiểu thông tin có thể giúp phụ nữ 
thực hành QHTD đúng trong thời gian ra HT bệnh.
Kiến nghị : tăng cường truyền thông, giáo dục về HTBL để phụ nữ 
nhận biết chính xác hơn tình trạng xuất tiết từ âm đạo, đi khám phụ khoa 
ngay khi phát hiện HTBL và ngưng QHTD hoặc yêu cầu dùng bao cao su 
nếu quan hệ trong thời gian VÂĐ do bất kỳ tác nhân nào.
              
                                            
                                
            
 
            
                 37 trang
37 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Huyết trắng -Bệnh lý của phụ nữ bị viêm âm đạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HUYẾT TRẮNG - BỆNH LÝ CỦA 
PHỤ NỮ BỊ VIÊM ÂM ĐẠO 
 HUYẾT TRẮNG - BỆNH LÝ CỦA PHỤ NỮ 
BỊ VIÊM ÂM ĐẠO 
TÓM TẮT 
Mục tiêu : xác định tỉ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng về chăm 
sóc huyết trắng bệnh lý (HTBL) và mối liên quan giữa thực hành với kiến 
thức, thái độ của phụ nữ từ 15 – 49 tuổi bị viêm âm đạo (VÂĐ) đến khám 
phụ khoa tại các bệnh viện tuyến 2 TP. Hồ Chí Minh, năm 2005. 
Phương pháp : nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành từ 23/05 
đến 07/09/2005 trên 422 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản bị VÂĐ đến khám 
phụ khoa tại bệnh viện (BV) Da Liễu, Hùng Vương, Trung tâm Kế Hoạch 
Hóa Gia Đình & Bảo vệ Bà Mẹ Trẻ Em (TTKHHGĐ). Phỏng vấn trực tiếp 
các đối tượng dựa trên bảng câu hỏi cấu trúc để thu thập các dữ kiện khảo 
sát. 
Kết quả: trong 422 đối tượng được phỏng vấn, 70,62% trường hợp có 
kiến thức đúng về HTBL nói chung, 78,20% có thái độ đúng đối với việc xử 
trí HTBL, 77,25% phụ nữ nhận biết được tình trạng HTBL nhưng chỉ 
65,34% đi khám-điều trị tây y và 43,56% có quan hệ tình dục đúng khi ra 
HT bệnh. Khả năng đi khám-điều trị tây y ngay khi ra HTBL tăng cao nếu 
có thái độ đúng, sống ở nội thành hoặc bị VÂĐ do nấm, Trichomonas 
vaginalis/lậu. Thái độ đúng và việc tìm hiểu thông tin có thể giúp phụ nữ 
thực hành QHTD đúng trong thời gian ra HT bệnh. 
Kiến nghị : tăng cường truyền thông, giáo dục về HTBL để phụ nữ 
nhận biết chính xác hơn tình trạng xuất tiết từ âm đạo, đi khám phụ khoa 
ngay khi phát hiện HTBL và ngưng QHTD hoặc yêu cầu dùng bao cao su 
nếu quan hệ trong thời gian VÂĐ do bất kỳ tác nhân nào. 
ABSTRACT 
Objectives: to determine the prevalence of correct knowledge, 
attitude, practice in case of pathologic leucorrhea and the association 
between practice and knowledge, attitude among women from 15 to 49 years 
old with vaginitis attended at the gynecologic service of second level 
hospitals in Ho Chi Minh city in 2005. 
Methods: a cross-sectional descriptive study from May 23 to Sep 7 of 
2005 was carried on 422 women in reproductive age with vaginitis who had 
gynecologic exam at hospitals Da Lieu, Hung Vuong, Centre for Family 
Planning & Mother and Child Protection. These subjects were face-to-face 
interviewed based upon a constructed questionnaire to collect data. 
Results: among 422 subjects interviewed, 70.62% had correct 
knowledge on pathologic leucorrhea in general, 78.20% had correct attitude 
in the management of pathologic leucorrhea. About practice, 77.25% of 
women recognized pathologic leucorrhea but only 65.34% of them get 
medical exam and 43.56% had appropriate sexual activities in case of 
pathologic leucorrhea. The likelihood of early medical consultation in case 
of pathologic leucorrhea increased significantly when the subject had correct 
attitude, lived in inner Ho Chi Minh city or when the causes of leucorrhea 
were mycosis, Trichomanas vaginalis / Neisseria gonorrhoeae. Correct 
attitude and seeking for information may help women to conduct appropriate 
sexual activities during the period of pathologic leucorrhea. 
Suggestions: reinforcement of information and education on 
pathologic leucorrhea will help women to recognize vaginal secretion more 
correctly, to have early gynecologic consultation and to abstain from sexual 
activities or to require condom use during sexual activities in case of 
vaginitis from any causes. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Huyết trắng bệnh lý (HTBL) là một trong những biểu hiện viêm 
nhiễm âm đạo do nhiều tác nhân khác nhau, thường gặp nhất là tạp khuẩn, vi 
nấm, Trichomonas vaginalis. Bệnh có thể làm tăng nguy cơ nhiễm HIV[1] 
[9] và dẫn đến các biến chứng sản phụ khoa như sanh non[4], vỡ ối sớm, 
viêm nội mạc tử cung sau mổ bắt con[3], viêm mô tế bào vùng chậu sau 
phẫu thuật cắt bỏ tử cung[11], vô sinh, rối loạn chức năng sinh sản hoặc 
nhiều bệnh lý nghiêm trọng cho trẻ sinh ra từ mẹ bị nhiễm[4]. Viêm âm đạo 
(VÂĐ) phổ biến một cách âm ỉ trong quần thể phụ nữ 15 – 49 tuổi. Khoảng 
75% phụ nữ ở độ tuổi sinh sản có ít nhất 1 lần than phiền về HTBL và đây là 
bệnh cảnh thường gặp nhất tại các phòng khám phụ khoa[10]. Ở Việt nam, tỉ 
lệ VÂĐ dao động từ 28 – 39%, tùy thuộc vào tác nhân và đối tượng. Nhìn 
chung, tỉ lệ bệnh không thay đổi trong nhiều năm qua[2] [6] [7]. Chương 
trình Chăm Sóc Sức Khỏe Sinh Sản (CSSKSS) giai đoạn 2001 – 2010 đã đề 
cập đến phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh dục nhưng các chỉ tiêu và nội 
dung tư vấn đều tập trung vào bệnh giang mai, lậu, HIV/AIDS, nhằm giảm tỉ 
lệ bệnh, phòng ngừa lây nhiễm. Một số khảo sát kiến thức, thái độ, thực 
hành (KTTĐTH) về VÂĐ chỉ đánh giá các yếu tố nguy cơ nhiễm bệnh, chưa 
quan tâm đến việc chăm sóc khi có biểu hiện HTBL nói chung[2] [6] [7]. Vì 
vậy, nghiên cứu này được thực hiện để xác định tỉ lệ kiến thức, thái độ, thực 
hành đúng về chăm sóc HTBL và mối liên quan giữa thực hành với kiến 
thức, thái độ của phụ nữ từ 15 – 49 tuổi bị VÂĐ đến khám phụ khoa tại các 
bệnh viện tuyến 2 TP. HCM, năm 2005. 
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành từ 23/05 đến 
07/09/2005, với dân số mục tiêu là phụ nữ từ 15 – 49 tuổi bị VÂĐ đến khám 
phụ khoa tại các bệnh viện tuyến 2 thành phố HCM. Các đối tượng được 
chọn theo phương pháp mẫu cụm 2 bậc. Ở bậc 1, rút thăm ngẫu nhiên chọn 3 
điểm thu thập mẫu là bệnh viện Hùng Vương, Da Liễu và TTKHHGĐ. Bậc 
2, chọn mẫu thuận tiện bao gồm các bệnh nhân từ 15 – 49 tuổi đến khám 
phụ khoa vào các buổi sáng trong tuần, được chẩn đoán VÂĐ do tạp khuẩn, 
vi nấm, T. vaginalis và đồng ý tham gia nghiên cứu. Ở Việt Nam chưa có 
điều tra nào đánh giá KTTĐTH về chăm sóc HTBL của phụ nữ trong độ tuổi 
sinh sản vì vậy P = 50% được sử dụng để tính cỡ mẫu. Với phương pháp 
chọn mẫu cụm, độ tin cậy 95%, sai số cho phép 5%, cỡ mẫu tối thiểu cần 
thiết cho nghiên cứu là 768. Số lượng mẫu phân bố cho mỗi bệnh viện tỉ lệ 
với số lượng bệnh nhân thường trú tại tp.HCM đến khám VÂĐ trong năm 
2004 tại mỗi bệnh viện nói trên. 
Biến số phụ thuộc là các biến số thực hành về nhận biết HTBL, khám-
điều trị tây y và QHTD đúng khi ra HTBL. Biến số độc lập bao gồm các 
biến về kiến thức (các đặc điểm của HTBL, các yếu tố thuận lợi cho bệnh, 
các biến chứng của VÂĐ, HTBL là biểu hiện của VÂĐ, các tác nhân gây 
VÂĐ) và các biến về thái độ (khám-điều trị khi ra HTBL, QHTD đúng khi 
ra HTBL). Các biến số kiểm soát là nhóm tuổi, nơi sinh sống, trình độ học 
vấn, nghề nghiệp, dân tộc, tiền sử VÂĐ, tác nhân gây bệnh, tìm hiểu thông 
tin về viêm nhiễm phụ khoa. 
Thu thập dữ kiện bằng phỏng vấn trực tiếp các đối tượng dựa trên 
bảng câu hỏi soạn sẵn. Sử dụng Stata 8.0 để phân tích số liệu. Trình bày kết 
quả dưới dạng bảng. Tần số, tỉ lệ phần trăm của các biến số được tính và so 
sánh với test c2 ở mức ý nghĩa 5%. Ước lượng mức độ liên quan bằng tỉ số 
chênh (OR) và khoảng tin cậy 95%. Phân tích phân tầng để đánh giá khả 
năng tương tác, gây nhiễu của các biến số kiểm soát. Phân tích đa biến với 
hồi qui logistic. 
KẾT QUẢ 
Do những giới hạn về nguồn lực nên thực tế chỉ thu thập được 422 
trường hợp, chiếm hơn phân nửa so với cỡ mẫu dự tính theo công thức. 
Đối tượng khảo sát tập trung ở lứa tuổi 25 – 39 tuổi (54,50%), chủ yếu 
là người kinh (97,39%) đến từ các quận nội thành TP. HCM (84,36%), làm 
nghề tự do, có thể chủ động về giờ giấc (64,93%). Dân tộc Hoa/khác chiếm 
tỉ lệ rất nhỏ (2,61%). Trình độ học vấn phân bố đều ở 2 nhóm <cấp 3 
(51,90%) và ³ cấp 3 (48,10%). Tiền sử VÂĐ xảy ra ở 72,27% đối tượng 
nhưng chỉ 64,93% có tham khảo thông tin về các bệnh viêm nhiễm phụ khoa 
thường gặp (báng 1). 
Bảng 1: Đặc tính của mẫu nghiên cứu 
Đặc tính (N = 422) 
n 
% 
Nhóm tuổi 
15 – 24 
85 
20,14 
25 – 39 
230 
54,50 
40 – 49 
107 
25,36 
Nơi sinh sống 
Ngoại thành 
66 
15,64 
Nội thành 
356 
84,36 
Học vấn 
< cấp 3 
219 
51,90 
≥ cấp 3 
203 
48,10 
Nghề nghiệp 
Tự do 
274 
64,93 
CNVC 
148 
35,07 
Dân tộc 
Hoa/khác 
11 
2,61 
Kinh 
411 
97,39 
Tiền sử VÂĐ 
305 
72,27 
Tìm hiểu về VÂĐ 
274 
64,93 
Bảng 2 : Sự phân bố các tác nhân gây biểu hiện VÂĐ ở đối tượng 
nghiên cứu 
Tác nhân 
Tần số (N = 422) 
Tỉ lệ 
Tạp khuẩn 
350 
82,94 
Vi nấm 
162 
38,39 
T. vaginalis 
16 
3,79 
Lậu 
4 
0,95 
Lactobacillus 
16 
3,79 
Nhiễm tạp khuẩn chiếm ưu thế (82,94%), tiếp theo là vi nấm 
(38,39%), T. vaginalis (3,79%) và lậu cầu (0,95%). Lactobacillus, vi khuẩn 
thường trú bảo vệ âm đạo nhưng khi phát triển vượt trội có thể gây các biểu 
hiện VÂĐ (ngứa, HT nhiều, vón cục, màu trắng sữa) với tỉ lệ 3,79%. 
Bảng 3: Tỉ lệ kiến thức về HTBL ở các đối tượng nghiên cứu. 
Kiến thức (N = 422) 
Đúng (n, %) 
Sai (n,%) 
HTBL là biểu hiện VÂĐ 
382 (90,52) 
40 (09,52) 
Đặc điểm của HTBL 
370 (87,68) 
52 (12,32) 
Tác nhân gây VÂĐ 
248 (58,77) 
174 (41,23) 
Tác hại của HTBL 
211 (50,00) 
211 (50,00) 
Các yếu tố thuận lợi 
186 (44,08) 
236 (55,92) 
Đánh giá chung 
298 (70,62) 
124 (29,38) 
Tỉ lệ kiến thức đúng về HTBL là 70,62%. Các trường hợp kiến thức 
chưa đúng chủ yếu tập trung vào sự thiếu hiểu biết về các yếu tố thuận lợi 
(55,92%), các tác hại của HTBL (50,00%) và các tác nhân gây VÂĐ 
(41,23%). 
Bảng 4 : Tỉ lệ thái độ về chăm sóc HTBL của đối tượng nghiên cứu. 
Thái độ (N = 422) 
Đúng 
n (%) 
Sai 
n (%) 
Khám-điều trị tây y 
359 (85,07) 
63 (14,93) 
Đi khám HTBL 
420 (99,53) 
 2 ( 0,47) 
Điều trị tây y 
359 (85,07) 
63 (14,93) 
QHTD đúng 
385 (91,23) 
37 (8,77) 
Ngưng QHTD 
363 (86,02) 
59 (13,98) 
Yêu cầu dùng BCS (n = 59) 
 22 (37,29) 
37 (62,71) 
Đánh giá chung 
330 (78,20) 
92 (21,80) 
Nhìn chung, 78,20% đối tượng khảo sát có thái độ đúng về xử trí khi 
ra HTBL. Một số ít phụ nữ không muốn điều trị tây y đơn thuần (14,93%) và 
không đồng ý ngưng QHTD (13,98%) trong thời gian ra HTBL. Trong số 
13,98% đối tượng không chấp nhận ngưng QHTD, có 62,71% trường hợp 
không muốn yêu cầu chồng/bạn tình dùng bao cao su (BCS). 
Bảng 5 : Tỉ lệ thực hành đúng về chăm sóc HTBL của đối tượng 
nghiên cứu. 
Thực hành 
Có 
[n (%)] 
Không 
[n (%)] 
Nhận biết HTBL (N = 422) 
326 (77,25) 
96 (22,75) 
Chăm sóc HTBL (n = 326) 
Khám-điều trị tây y 
213 (65,34) 
113 (34,66) 
Đi khám phụ khoa 
213 (65,34) 
Tự mua thuốc tây điều trị 
103 (31,60) 
Điều trị đông y 
10 (03,06) 
QHTD đúng khi có HTBL 
142 (43,56) 
184 (56,44) 
Ngưng QHTD 
96 (29,45) 
230*(70,55) 
Yêu cầu dùng BCS (n = 191)* 
46 (24,08) 
145 (75,92) 
Đánh giá chung về chăm sóc HTBL 
95 (29,14) 
231 (70,86) 
* Trong khảo sát này, “ngưng QHTD khi ra HTBL” nghĩa là bệnh 
nhân ngưng quan hệ vì lý do đang ra HTBL. Có 39 đối tượng không quan 
hệ vì ly dị, ly thân, chồng đi xa, chưa có gia đình ... được xếp vào nhóm 
không ngưng QHTD và do đó số trường hợp được xét thực hành “yêu cầu 
chồng/ bạn tình dùng bao cao su khi QHTD trong thời gian ra HTBL” là 230 
– 39 = 191. 
Trong toàn bộ mẫu nghiên cứu, 326 trường hợp (77,25%) nhận biết 
HTBL, vì vậy chỉ khảo sát thực hành chăm sóc HTBL trên 326 đối tượng. 
Có 3,06% trường hợp điều trị đông y ngay từ đầu, 96,94% đối tượng điều trị 
tây y nhưng đi khám phụ khoa là 65,34%, còn lại 31,60% không đi khám, 
chỉ mua thuốc tây về điều trị. Tỉ lệ đối tượng QHTD đúng chiếm 43,56%, 
gồm 29,45% không QHTD và nếu quan hệ thì 24,08% có yêu cầu dùng 
BCS. Đánh giá chung chỉ có 29,14% đối tượng thực hành đúng về chăm sóc 
HTBL. 
Bảng 6 : Mối liên quan giữa thực hành khám-điều trị tây y với kiến 
thức chung và thái độ khám-điều trị tây y khi ra HTBL (phân tích đa biến 
với hồi qui logistic) 
Biến số 
OR [KTC 95%] 
P 
Kiến thức 
0,78 [0,46 – 1,34] 
0,37 
Thái độ q tây y*ngoại thành 
23,95 [2,57–222,9] 
0,005 
Nội so với ngoại thành 
11,81 [1,31–106,4] 
0,03 
Có nhiễm tạp khuẩn so với không 
0,40 [0,18 – 0,86] 
0,02 
Kiến thức không ảnh hưởng đến thực hành khám-điều trị tây y khi ra 
HTBL. Trong số phụ nữ sống ở ngoại thành, khả năng đi khám-điều trị tây y 
ngay khi ra HTBL có thể tăng gấp 23,95 lần (p = 0,00) nếu có thái độ đúng 
về khám-điều trị tây y. Phụ nữ nội thành sẽ khám-điều trị HT bệnh theo tây 
y cao hơn các phụ nữ ngoại thành 11,81 lần (p = 0,03). Nhiễm tạp khuẩn có 
khuynh hướng đi khám phụ khoa ít hơn “không nhiễm” 0,40 lần (p = 0,02) 
Bảng 7 : Mối liên quan giữa thực hành QHTD với kiến thức chung và 
thái độ QHTD khi ra HTBL (phân tích đa biến với hồi qui logistic) 
Biến số 
OR [KTC 95%] 
P 
Kiến thức 
1,67 [0,12–22,58] 
0,70 
Thái độ QHTD đúng so với sai 
5,11 [1,68–15,60] 
0,00 
Có tìm hiểu so với không 
1,66 [1,00–2,75] 
0,05 
Kiến thức không ảnh hưởng đến thực hành QHTD khi ra HTBL. 
Những phụ nữ có thái độ QHTD đúng sẽ thực hành QHTD đúng cao hơn 
phụ nữ có thái độ chưa đúng 5,11 lần (p = 0,00). Khuynh hướng thực hành 
QHTD đúng ở nhóm có tìm hiểu thông tin về nhiễm trùng phụ khoa cao hơn 
1,66 lần nhóm không tìm hiểu. 
BÀN LUẬN 
Mô tả đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Theo bảng 1, mẫu nghiên cứu tập trung từ 25 – 39 tuổi (54,50%), là 
độ tuổi sinh sản và hoạt động tình dục nhiều nhất, có nguy cơ cao bị nhiễm 
trùng phụ khoa. Phụ nữ nội thành (84,36%), dân tộc kinh (97,39%) chiếm ưu 
thế vì các điểm khảo sát nằm trong các khu vực trung tâm thành phố, thuận 
tiện đi lại; dân tộc Hoa/khác có thể vẫn còn khuynh hướng điều trị HTBL 
theo đông y. Nhóm nghề tự do không bị ràng buộc về giờ giấc, cho phép phụ 
nữ đi khám trong giờ hành chính nên nhóm đối tượng này xuất hiện cao hơn 
nhóm CNVC (64,93%). Tiền sử VÂĐ xảy ra trên 72,27% trường hợp, tương 
tự y văn, nhưng chỉ 64,93% có tham khảo thông tin về nhiễm trùng phụ 
khoa, chưa phù hợp với bối cảnh của một bệnh rất phổ biến ở phụ nữ thành 
phố HCM. Có thể thói quen tìm hiểu các vấn đề liên quan đến sức khỏe chưa 
hình thành sâu đậm ở phụ nữ, nhất là khi trình độ học vấn thấp (nhóm <cấp 
3 chiếm hơn phân nửa mẫu nghiên cứu). 
Quan sát mẫu huyết trắng với NaCl 0,9% (bảng 2) cho thấy sự phân 
bố các tác nhân gây bệnh không khác với bối cảnh chung của nhiều báo cáo 
trước đây : tạp khuẩn giữ vai trò chính, tiếp theo là vi nấm, T. vaginalis. Có 
4 trường hợp lậu tình cờ được phát hiện. Số liệu này chắc chắn thấp hơn 
thực tế vì soi trực tiếp không phải là kỹ thuật đặc trưng để chẩn đoán nhiễm 
lậu cầu; hơn nữa các cá thể nhiễm T. vaginalis ở BV Hùng Vương, 
TTKHHGĐ không được tầm soát một cách hệ thống các bệnh lây lan qua 
đường tình dục khác, trong đó có bệnh lậu. Bảng 2 cũng ghi nhận 16 trường 
hợp có biểu hiện VÂĐ nhưng khi xét nghiệm chỉ thấy Lactobacillus kích 
thước rất dài và dày đặc. Nhiều năm gần đây, y văn đã đề cập đến “bệnh do 
lactobacillus” (lactobacillosis) hoặc “viêm âm đạo phá hủy tế bào” (cytolytic 
vaginosis) để mô tả những trường hợp có biểu hiện tương tự VÂĐ do vi nấm 
nhưng quan sát vi thể không tìm thấy nấm, thay vào đó là Lactobacillus tăng 
sinh vượt trội[5] [8]. Như vậy, 16 trường hợp nêu trên, một lần nữa, có phải 
là những ví dụ củng cố cho các báo cáo trên y văn. 
Kiến thức về HTBL (bảng 3) 
Thống kê số liệu cho thấy các đối tượng mô tả khá chính xác tính chất 
đại thể của HTBL (87,68%) và biết đó là một trong những dấu hiệu viêm 
nhiễm âm đạo (90,52%). So với điều tra của Nguyễn Thị Huệ[7] tại phòng 
khám Đa khoa Cần Thơ, chỉ 67,9% đối tượng trả lời huyết trắng nhiều, đổi 
màu, hôi là bị bệnh phụ khoa. Có thể do thuộc tính dân số học của 2 cộng 
đồng khác biệt nhau (trong mẫu nghiên cứu của Nguyễn Thị Huệ, chỉ 12,3% 
là CNVC, 17,8% có học vấn ≥ cấp 3) và điều kiện tiếp cận thông tin y học ở 
Cần Thơ cũng hạn chế hơn. Phụ nữ chưa hiểu biết nhiều về yếu tố thuận lợi 
của bệnh (44,08%). Điều này ảnh hưởng không ít đến việc phòng ngừa cũng 
như phát hiện bệnh sớm. Đối với tác hại của HT bệnh, 50% đối tượng trả lời 
chưa đúng. Phải chăng do tính phổ biến một cách âm ỉ của bệnh nên các đối 
tượng không nghĩ rằng lại có thể dẫn đến các tai biến sản phụ khoa, ảnh 
hưởng đến sức khỏe sinh sản cũng như sức khỏe chung ? Mặt khác, tuy các 
chương trình CSSKSS, BVSKBM-TE đạt hiệu quả cao trong chiến lược kế 
hoạch hóa gia đình, phòng ngừa tai biến sản khoa và các bệnh lây lan qua 
đường tình dục, nhưng nhiều năm qua, vẫn chưa thực sự quan tâm đến các 
bệnh nhiễm trùng phụ khoa thường gặp. Nếu biết rõ các biến chứng nguy 
hiểm của bệnh, phụ nữ sẽ quan tâm phòng ngừa và điều trị hơn. Tất cả 
những giới hạn nêu trên đã dẫn đến tỉ lệ kiến thức chưa đúng về HT bệnh nói 
chung của phụ nữ là 29,38%. 
Thái độ về chăm sóc HTBL (bảng 4) 
Theo đánh giá chung, 21,80% phụ nữ được phỏng vấn có thái độ chưa 
đúng về xử trí HT bệnh. Kết quả này hầu như bị chi phối bởi thái độ điều trị 
tây y và yêu cầu chồng/bạn tình dùng BCS khi quan hệ trong thời gian ra HT 
bệnh. Mặc dù đa số các trường hợp (99,53%) đều đồng ý đi khám ngay khi 
ra HT bệnh nhưng vẫn còn 14,93% phụ nữ chưa hoàn toàn tin tưởng vào tây 
y. Trong thực tế, hiệu quả điều trị VÂĐ chưa cao vì nhiều lý do như chẩn 
đoán chưa chính xác, phác đồ chưa phù hợp, hiện tượng kháng thuốc, yếu tố 
cơ địa ... nên chưa tạo được niềm tin tuyệt đối cho người bệnh. Mặt khác, 
một số trường hợp rối loạn huyết trắng đã có thể điều chỉnh được bằng các 
phương thuốc đông y. Hơn nữa, HTBL kéo dài gây nhiều phiền toái, lo âu 
cho phụ nữ, thế nên khi có bệnh, theo tâm lý chung, họ sẽ tin vào bất kỳ trị 
liệu nào sao cho nhanh chóng dứt bệnh. 
Về vấn đề quan hệ tình dục khi ra HT bệnh, tỉ lệ phụ nữ có thái độ 
đúng đạt 91,23%. QHTD đúng trong khảo sát nghĩa là ngưng QHTD, hoặc 
nếu quan hệ thì phải yêu cầu chồng/bạn tình dùng BCS. Số phụ nữ không 
chấp nhận ngưng quan hệ khi ra HT bệnh chiếm 13,98% vì vẫn còn quan 
niệm “HT bệnh là do cơ thể nóng nảy”, việc ngưng hay không ngưng 
QHTD, vì thế, cũng không cần thiết. Ngoài ra, tình trạng dai dẳng của HT 
đôi khi là dấu hiệu duy nhất của VÂĐ do tạp khuẩn, thế nên bệnh nhân khó 
chấp nhận ngưng quan hệ trong một thời gian dài nếu không được bác sĩ giải 
thích rõ lợi ích của vấn đề. Trong số phụ nữ không đồng ý ngưng quan hệ 
khi ra HT bệnh, gần 2/3 không chấp nhận yêu cầu chồng dùng BCS. Yếu tố 
tác động phần nào lên thái độ chưa đúng này có thể xuất phát từ hiểu biết 
hạn chế về vai trò của BCS : chỉ để ngừa thai, không tác dụng gì đến điều trị 
và phòng ngừa lây lan. Sự thiếu thông tin về lợi ích sử dụng BCS càng được 
nhân lên khi phối hợp với quan điểm tôn giáo : việc phá và ngừa thai là cấm 
kỵ trong điều luật của đạo Thiên Chúa. 
Thực hành nhận biết HTBL (bảng 5) 
Phân tích số liệu cho thấy 77,25% đối tượng tự xác định có HTBL, số 
còn lại (22,75%) được bác sĩ điều trị phát hiện khi thăm khám bằng mỏ vịt. 
Như vậy, những trường hợp sau đã không nhận diện được HTBL. Có thể do 
số lượng ít, xuất phát từ bản chất của bệnh, hoặc vì bệnh nhân rửa sâu trong 
âm đạo, không thể quan sát dịch xuất tiết bệnh lý. Ngòai ra, biểu hiện HT 
bệnh đôi khi xảy ra chậm và kín đáo hơn những dấu hiệu nổi bật khác như 
ngứa, bỏng rát âm hộ, giao hợp đau. Từ ghi nhận này, thiết nghĩ, nên giải 
thích và khuyến cáo phụ nữ không nên vệ sinh quá kỹ trong âm đạo, đồng 
thời phổ biến hình ảnh HT bệnh để phụ nữ có thể nhận định chính xác hơn 
tình trạng HT của bản thân. Vì khảo sát chỉ bao gồm những trường hợp có 
HT bệnh nên không thể xét liên quan giữa thực hành nhận biết với kiến thức 
về đặc điểm của HTBL. 
Thực hành chăm sóc HTBL (bảng 5) 
Các trường hợp không đảm bảo thực hành khám-điều trị tây y khi ra 
HT bệnh chiếm 34,66%. Chi tiết hơn, 31,60% đối tượng có điều trị tây y 
nhưng không đi khám. Điều này phản ánh tình trạng phụ nữ đến “điều trị” 
hoặc tự mua thuốc đặt/rửa/uống tại các hiệu thuốc tây. Nói cách khác, họ đã 
giao phó sức khỏe của họ cho nhân viên bán thuốc ! Nguyên nhân, hoặc do 
người bệnh thiếu thời gian, do tính “phức tạp” khi khám phụ khoa, hoặc do 
khó tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh ... Nhưng dù lý do gì thì hiện 
tượng này nên được xem xét kỹ để có biện pháp hạn chế, nhất là trường hợp 
mắc các bệnh lây lan qua đường tình dục. 
Thực hành QHTD đúng chỉ xảy ra trên 43,56% đối tượng, gồm 
29,45% trường hợp không quan hệ, và 24,08% có yêu cầu chồng/bạn tình 
dùng bao cao su nếu quan hệ trong thời gian ra HT bệnh. Ngoài những lý do 
vừa trình bày trong phần bàn luận thái độ QHTD đúng, hiện tượng quá tải ở 
các phòng khám không cho phép bác sĩ điều trị tham vấn cho người bệnh 
cũng đã ảnh hưởng phần nào đến kết quả không mong muốn này. Mặc dù, tỉ 
lệ hiện mắc các bệnh lây lan qua đường tình dục trong dân số khảo sát không 
cao (4,74%), nhưng theo cơ chế sinh lý bệnh của VÂĐ không đặc hiệu, pH 
kiềm của tinh dịch thúc đẩy sự rối loạn quần thể vi sinh trong âm đạo theo 
hướng có lợi cho vi khuẩn gây bệnh, vì thế ngưng QHTD hoặc dùng bao cao 
su khi quan hệ cũng là một trong những yếu tố hỗ trợ điều trị thành công. 
Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu ớ nước ngoài đã xác nhận tình 
trạng viêm nhiễm âm đạo làm tăng nguy cơ nhiễm HIV[1] [9]. Do đó, cần 
giải thích rõ lợi ích của ngưng QHTD khi ra HT bệnh để tăng cường sự hợp 
tác của bệnh nhân đồng thời giúp họ phòng ngừa bội nhiễm các tác nhân 
khác. 
Nếu đánh giá chung về thực hành chăm sóc HTBL, tỉ lệ thực hành 
chưa đúng là 70,86%. Đây là con số đáng quan tâm đối với một bệnh rất phổ 
biến, được hình thành chủ yếu từ vấn đề QHTD chưa đúng khi ra HT bệnh, 
nhưng vai trò của QHTD chưa được xem trọng trong tuyên truyền giáo dục 
về VÂĐdo tạp khuẩn và vi nấm. 
Mối liên quan giữa thực hành khám điều trị tây y với kiến thức, thái 
độ (bảng 6) 
Thực hành khám-điều trị tây y của phụ nữ sống ở nội thành cao gấp 
11,81 lần phụ nữ ngoại thành (p = 0,03), có thể do trình độ học vấn ≥ cấp 3 ở 
các đối tượng sống trong khu vực nội thành cao hơn ngoại thành; sự quan 
tâm đến sức khỏe, vì thế sẽ cao hơn. Ngoài ra, sự thuận tiện trong tiếp cận 
các phòng khám phụ khoa ở nội thành cũng phần nào thúc đẩy phụ nữ đi 
khám nhiều hơn khi có dấu hiện nghi ngờ. Mối liên quan này lại được nhấn 
mạnh thêm khi thái độ tác động đến thực hành được phơi bày ở dân số ngoại 
thành : nếu phụ nữ ngoại thành đồng ý đi khám-điều trị tây y khi ra HT bệnh 
sẽ có khuynh hướng thực hành khám-điều trị tây y cao gấp 23,95 lần so với 
người có thái độ chưa đúng (p=0.005). Thật vậy, khả năng tiếp cận các dịch 
vụ y tế chuyên sâu của phụ nữ ngoại thành gặp nhiều khó khăn, cần có thái 
độ đúng, một động lực mạnh mẽ giúp họ vượt qua các rào cản, để thực hành 
đúng. 
Tác nhân gây VÂĐ cũng chi phối thực hành của đối tượng nghiên 
cứu. Khi ra HT bệnh, khám-điều trị tây y ở nhóm phụ nữ nhiễm tạp khuẩn ít 
hơn 0,40 lần (p = 0,02) những trường hợp âm tính. Âm tính với tạp khuẩn 
trong khảo sát này không có nghĩa là hoàn toàn bình thường vì mẫu nghiên 
cứu bao gồm các đối tượng VÂĐ do nhiều tác nhân khác nhau. Nếu không 
nhiễm tạp khuẩn cũng sẽ nhiễm vi nấm, Latobacillus hoặc T. vaginalis. 
Triệu chứng do các tác nhân này thường rõ ràng và khó chịu hơn, kích thích 
bệnh nhân đi khám nhiều hơn so với VÂĐ không đặc hiệu. 
Mối liên quan giữa thực hành QHTD với kiến thức, thái độ (bảng 7) 
Thái độ đúng trong QHTD có thể giúp thực hành đúng về vấn đề này 
gấp 5,11 lần so với người có thái độ chưa đúng (p = 0.003). Việc tiếp theo là 
phải xác định những yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến sự chấp nhận QHTD 
đúng của phụ nữ như tôn giáo, phong tục, tập quán ..., để đề xuất các biện 
pháp thích hợp giúp phụ nữ hình thành thái độ đúng trong QHTD khi ra 
HTBL. 
Tham khảo thông tin về bệnh lý phụ khoa cũng góp phần thực hành 
đúng về QHTD gấp 1,66 lần. Tuy nhiên, mối liên quan này chưa được thuyết 
phục vì KTC 95% có biên độ dưới = 1 (KTC 95% = 1 – 2,75) và p = 0,05. 
Có thể do cỡ mẫu trong nghiên cứu này chưa đủ lớn để bộc lộ rõ bản chất 
của vấn đề. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Tuy cỡ mẫu chưa đủ lớn nhưng khảo sát đã cung cấp được những 
thông tin cơ bản về chăm sóc HTBL của phụ nữ 15 – 49 tuổi bị VÂĐ đến 
khám tại các bệnh viện tuyến 2 tp. HCM. Thực hành nhận biết HTBL, đi 
khám-điều trị theo tây y, ngưng QHTD hoặc yêu cầu chồng/bạn tình sử dụng 
BCS nếu quan hệ trong thời gian ra HTBL vẫn chưa bao phủ đều khắp trong 
các đối tượng. Thái độ, tác nhân gây bệnh, sống ở nội thành cũng như việc 
tìm hiểu thông tin về viêm nhiễm phụ khoa có thể góp phần vào thực hành 
chăm sóc HTBL của phụ nữ. Những nhận định này cho phép đề xuất tăng 
cường truyền thông, giáo dục về HTBL tại địa phương, cơ quan và các dịch 
vụ y tế chuyên khoa để giúp phụ nữ nhận biết chính xác hơn tình trạng xuất 
tiết của âm đạo, hạn chế hiện tượng “điều trị HTBL tại các hiệu thuốc tây“ 
và QHTD đúng trong thời gian bị VÂĐ do bất kỳ tác nhân nào. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 222_326.pdf 222_326.pdf