Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, Jean Jacques Rousseau được biết đến 
không chỉ với tư cách nhà tư tưởng vĩ đại, nhà Khai sáng lỗi lạc của Triết 
học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Ông còn được biết đến với tư cách nhà 
chính trị học, nhà nghệ thuật học, nhà văn, nhà giáo dục học.
Với tư cách nhà triết học, về phương diện thế giới quan, J.J.Rousseau là 
người theo thuyết thần luận. Ngoài sự tồn tại của thần linh, ông còn thừa 
nhận sự tồn tại của linh hồn bất tử. Trong lĩnh vực lý luận nhận thức, ông 
đề cao cảm giác luận, mặc dù ông thừa nhận tính chất bẩm sinh của các ý 
niệm đạo đức(1). Trong đạo đức học, ông coi đức hạnh là “khoa học cao 
siêu của các tâm hồn đơn sơ”, bởi triết học đích thực là “lắng nghe tiếng 
nói của lương tâm”(2).
Với tư cách nhà chính trị học, J.J.Rousseau mang lập trường cấp tiến. Ông 
là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp tiểu tư sản theo đường lối cánh tả trong 
các nhà Khai sáng Pháp. Từ lập trường cấp tiến -tả khuynh, ông phê phán gay 
gắt các quan hệ đẳng cấp phong kiến v à chế độ chuyên chế, ủng hộ nền dân chủ
tư sản và các quyền tự do của công dân, tán thành sự bình đẳng của con ng ười 
bất chấp nguồn gốc xu ất thân; đồng thời, lên án các lãnh t ụ chính trị đề cao khía 
cạnh kinh tế v à h ạ thấp vai trò của đạo đức, của đức hạnh trong chính trị. Những 
tư tư ởng này của ông đã tr ở thành khẩu hiệu và phương châm hành đ ộng của giai 
cấp tư sản Pháp trong cuộc cách mạng (1789 - 1794).
              
                                            
                                
            
 
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Jean jacques rousseau (1712 -1778) nhà triết học khai sáng pháp mang lập trường chính trị cấp tiến – Tả khuynh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JEAN JACQUES ROUSSEAU (1712 - 1778) NHÀ TRIẾT HỌC KHAI 
SÁNG PHÁP MANG LẬP TRƯỜNG CHÍNH TRỊ CẤP TIẾN – TẢ 
KHUYNH 
 NGUYỄN THỊ BÍCH LỆ(*) 
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, Jean Jacques Rousseau được biết đến 
không chỉ với tư cách nhà tư tưởng vĩ đại, nhà Khai sáng lỗi lạc của Triết 
học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Ông còn được biết đến với tư cách nhà 
chính trị học, nhà nghệ thuật học, nhà văn, nhà giáo dục học. 
Với tư cách nhà triết học, về phương diện thế giới quan, J.J.Rousseau là 
người theo thuyết thần luận. Ngoài sự tồn tại của thần linh, ông còn thừa 
nhận sự tồn tại của linh hồn bất tử. Trong lĩnh vực lý luận nhận thức, ông 
đề cao cảm giác luận, mặc dù ông thừa nhận tính chất bẩm sinh của các ý 
niệm đạo đức(1). Trong đạo đức học, ông coi đức hạnh là “khoa học cao 
siêu của các tâm hồn đơn sơ”, bởi triết học đích thực là “lắng nghe tiếng 
nói của lương tâm”(2). 
Với tư cách nhà chính trị học, J.J.Rousseau mang lập trường cấp tiến. Ông 
là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp tiểu tư sản theo đường lối cánh tả trong 
các nhà Khai sáng Pháp. Từ lập trường cấp tiến - tả khuynh, ông phê phán gay 
gắt các quan hệ đẳng cấp phong kiến và chế độ chuyên chế, ủng hộ nền dân chủ 
tư sản và các quyền tự do của công dân, tán thành sự bình đẳng của con người 
bất chấp nguồn gốc xuất thân; đồng thời, lên án các lãnh tụ chính trị đề cao khía 
cạnh kinh tế và hạ thấp vai trò của đạo đức, của đức hạnh trong chính trị. Những 
tư tưởng này của ông đã trở thành khẩu hiệu và phương châm hành động của giai 
cấp tư sản Pháp trong cuộc cách mạng (1789 - 1794). 
Với tư cách nhà nghệ thuật học, mặc dù thừa nhận nghệ thuật là lĩnh vực 
mãi mãi cần thiết cho nhân loại, song J.J.Rousseau vẫn giữ quan điểm coi 
nghệ thuật là lĩnh vực luôn chứa đựng những yếu tố nhục cảm và do vậy, 
nó luôn bị con người sử dụng cho những mục đích bất chính của họ và là 
một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy đồi của xã hội. Với 
năng khiếu âm nhạc, ông đã đề xuất một kiểu ký âm mới cho âm nhạc và 
sáng tác nhạc kịch. 
Với tư cách nhà văn, J.J.Rousseau đã để lại cho nhân loại những áng văn 
tuyệt tác ca ngợi tình yêu chân thật, đấu tranh cho tự do hôn nhân, tự do 
luyến ái. Những cuốn tiểu thuyết của ông đã tạo nên một trào lưu văn học 
lãng mạn mới, trong đó tiểu thuyết July hay nàng Heloise mới được coi là 
câu chuyện tình nổi tiếng nhất thế kỷ XVIII. 
Với tư cách nhà giáo dục học, J.J.Rousseau kịch liệt phê phán hệ thống 
giáo dục theo đẳng cấp của chế độ phong kiến và đề xuất xây dựng một hệ 
thống giáo dục mới lấy việc đào tạo những công dân tích cực, biết quý 
trọng lao động làm mục tiêu chính. 
J.J.Rousseau sinh ngày 28 tháng 6 năm 1712 trong một gia đình thợ thủ 
công làm nghề sửa chữa đồng hồ ở Geneve (Thụy Sĩ). Ông nội của 
J.J.Rousseau vốn là người Pháp. Bố đẻ của J.J.Rousseau là Issac Rousseau. 
Khi J.J.Rousseau mới ra đời được 9 ngày thì mẹ đẻ ông mất. Mười năm 
tuổi thơ của cậu bé mồ côi J.J.Rousseau sống trong sự đùm bọc, nuôi dạy 
của cha. Ông Issac Rousseau cho cậu con trai đọc rất nhiều cuốn sách viết 
về cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật lịch sử. Trong số đó, 
J.J.Rousseau thích nhất là những cuốn sách của Plutarque (50 - 125) viết về 
các nhân vật lịch sử Hy Lạp và La Mã cổ đại. Sau này, khi nhớ lại thời thơ 
ấu của mình, J.J.Rousseau đã nói rõ, sở dĩ ông thích các tác phẩm của nhà 
văn Hy Lạp cổ đại là bởi chúng đã đem đến cho ông một tinh thần tự do và 
cộng hòa, một tính cách bất khuất và kiêu căng, một lối sống không cam chịu, 
không chấp nhận số phận nô lệ(3). 
Năm 1722, do khó khăn trong cuộc sống gia đình, ông Issac Rousseau đã 
phải rời bỏ Geneve đi kiếm sống ở nhiều nơi. Ông gửi J.J.Rousseau cho em 
trai mình ở lại Geneve. Trong 5 năm sống với chú ruột, thoạt đầu 
J.J.Rousseau được gửi vào học ở một trường nội trú và tại đây, theo lời ông 
kể trong tập hồi ký – Tự bạch, “chúng tôi học… tất cả cái rác rưởi vớ vẩn 
từng được coi là sự giáo dục”(4). Sau hai năm, ông thôi học ở đây để theo 
học nghề chạm khắc vỏ đồng hồ. Trong những năm tháng này, mặc dù có 
cuộc sống không đến nỗi vất vả, lại được sống ở Geneve - nơi mà trong 
lòng chế độ phong kiến đã có sự xuất hiện của bầu không khí dân chủ tư 
sản, nhưng vốn là con người có khát vọng tự do từ nhỏ, J.J.Rousseau luôn 
cảm thấy cuộc sống của mình là tù túng, bản thân mình bị bạc đãi, coi khinh. 
Do vậy, ngày 14 tháng 3 năm 1728, khi gần tròn 16 tuổi, J.J.Rousseau đã tìm 
cách trốn khỏi Geneve. 
Trong những năm tháng lưu lạc để kiếm sống và mưu tìm sự nghiệp, từ 
1728 đến 1741, thoạt đầu ở Thụy Sĩ, sau đó ở Pháp, Italia và năm 1742 đến 
Paris - thủ đô nước Pháp, J.J.Rousseau đã trải qua nhiều công việc, từ thư 
ký sở địa chính, chép nhạc thuê đến gia sư. Ở đâu, làm nghề gì, ông cũng 
luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, không hài lòng với công việc và phải 
chứng kiến những cảnh bất công, phi lý. Ngay cả ở Paris – thủ đô hoa lệ 
của nước Pháp, ông cũng luôn cảm thấy xã hội thượng lưu xa lạ với chính 
mình, xa lạ với cuộc sống của những người lao động mà ông yêu mến. Để 
ổn định cuộc sống, đã có lúc ông buộc phải từ bỏ đạo Tin lành mà ông vốn 
là một tín đồ ngay từ nhỏ để trở thành một tín đồ Giatô giáo theo ý muốn 
của người khác. Mặc dù phải lo kiếm sống hàng ngày, song J.J.Rousseau 
vẫn không từ bỏ thói quen đọc sách. Ở tuổi 20, ông đã đọc rất nhiều tác 
phẩm của Plato, Virgil, Horace, Montaigne, Pascal, Voltaire,… Với ông, 
đọc sách bao giờ cũng là công việc hứng thú và là cách tốt nhất để tự trang 
bị kiến thức. Tư duy triết học, chính trị học, văn học và cả âm nhạc, nghệ 
thuật của ông đã được hình thành và phát triển trong chính những năm 
tháng lưu lạc để kiếm sống này. Vào những năm cuối của cuộc sống lưu lạc 
này, ông đã bắt đầu ghi chép những suy nghĩ tản mạn của mình về những 
lĩnh vực mà ông quan tâm. 
Sự nghiệp sáng tạo lý luận của J.J.Rousseau thực sự bắt đầu trong những 
năm 1742 - 1756 khi ông chuyển tới sống ở Paris. 
Năm 1742, J.J.Rousseau viết tác phẩm đầu tay - Kiến nghị lập bản ký âm mới 
cho âm nhạc. Ông gửi bản kiến nghị này lên Viện Hàn lâm khoa học Paris, 
nhưng không được Hội đồng giám định thông qua, vì phương pháp ghi âm 
mới của ông còn rắc rối, phức tạp hơn cách ghi nốt nhạc đương thời. 
Năm 1743, J.J.Rousseau làm thư ký riêng cho De Montaigu - Đại sứ Pháp 
tại Vinise. Với công việc này, ông đã có thêm những hiểu biết về chính trị. 
Song, với bản tính của một con người phóng khoáng, yêu tự do, ông không 
chịu nổi cách đối xử keo kiệt, bủn xỉn và thái độ trịnh thượng của viên đại 
sứ này và do vậy, ông đã xin thôi việc (năm 1744). 
Năm 1745, J.J.Rousseau làm quen, rồi sau đó kết hôn (1768) và sống trọn 
đời với cô gái nghèo, thất học Therese Levasseur - người đã chia sẻ với ông 
mọi nỗi đau buồn của cuộc sống, cùng ông nếm trải mọi khó khăn, gian 
khổ cũng như niềm hạnh phúc giản dị. Trong tập hồi ký - Tự bạch, khi nói 
về Therese Levasseur, ông viết: “Therese là niềm an ủi duy nhất và có thực 
mà Trời đã ban cho tôi trong cảnh cùng khổ, và chỉ riêng niềm an ủi ấy đủ 
giúp tôi chịu đựng được cuộc đời”(5). 
Năm 1746, J.J.Rousseau làm thư ký riêng cho bà Dupin, giúp bà chép bản 
thảo cuốn sách về vấn đề phụ nữ. Cùng với công việc này, ông còn làm 
nghề chép nhạc thuê để kiếm sống. Trong thời gian này, ông làm quen với 
D.Diderot (1713 - 1784) và cùng với D.Diderot, D’ Alambert và một số 
nhà tư tưởng khác biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư. Trong bộ Từ điển 
(gồm 35 tập) này, ông viết các mục về kinh tế chính trị và âm nhạc. Cũng 
trong thời gian này, ông còn viết một số bài báo nhằm truyền bá kiến thức 
khoa học, nghệ thuật, tuyên truyền tư tưởng tự do, bình đẳng, chống giáo 
hội và chế độ quân chủ chuyên chế đương thời. 
Năm 1749, J.J.Rousseau viết luận văn Luận về khoa học và nghệ thuật để 
tham dự cuộc thi do Viện Hàn lâm khoa học Dijon tổ chức với chủ đề 
“Việc chấn hưng khoa học và nghệ thuật có góp phần làm cho phong tục 
thuần khiết hay không”. Trong luận văn này, ông đã khẳng định sự tiến bộ 
của khoa học và nghệ thuật là cái mà nhân loại luôn cần đến, song tội lỗi là 
ở chỗ, do khoa học lấn át tôn giáo, tính nhục cảm chiếm ưu thế trong nghệ 
thuật và sự phóng đãng tràn ngập văn chương đã để cho con người lợi dụng 
khoa học, văn học và nghệ thuật thực hiện những mục đích bất chính. Với 
quan điểm này, ông còn cho rằng, do tầng lớp thượng lưu quý tộc chỉ biết 
sống xa hoa trên đầu những người dân lao động, nên khoa học, văn học và 
nghệ thuật càng phát triển thì xã hội quý tộc càng lún sâu vào con đường 
trụy lạc và những người lao động ngày càng nghèo khổ. Và, để phân biệt 
những nhà khoa học, nghệ thuật chân chính với những kẻ áp bức, bóc lột 
nhân dân, ông đã dành những trang cuối của luận văn này để ca ngợi công 
lao của các nhà khoa học, nhà triết học, như Bacon, Descartes, Newton. 
Luận văn này đã được Viện Hàn lâm khoa học Dijon trao giải thưởng. Nó 
đã làm cho J.J.Rousseau trở nên nổi tiếng và khiến cho D.Diderot phải thốt 
lên rằng, chưa bao giờ ông thấy có trường hợp nào lại thành công đến thế. 
Song khi được công bố vào năm 1750, nó đã gây nên nhiều phản ứng trái 
ngược nhau trong xã hội Pháp đương thời: giới quý tộc Pháp thì lên tiếng 
chê bai, thậm chí công kích, còn đông đảo quần chúng nhân dân thì hoan 
nghênh cả nội dung lẫn tác giả của nó(6). 
Năm 1753, J.J.Rousseau viết luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng 
cũng lại để tham dự cuộc thi do Viện Hàn lâm khoa học Dijon tổ chức với 
chủ đề “Nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa người và người là gì? Nó có 
phù hợp với luật tự nhiên hay không?”. Trong luận văn này, ông đã vạch rõ 
nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội là ở chế độ tư hữu tài sản. Với 
khẳng định này, ông kịch liệt phản đối chế độ tư hữu tài sản và lên án mạnh 
mẽ những kẻ quyền thế đã ra sức bênh vực và biện minh cho sự bất bình 
đẳng đó. Ông viết: “Những kẻ quyền thế luôn tìm mọi cách để bênh vực 
cho sự bất bình đẳng. Họ giải thích rằng, bất bình đẳng là một quy luật tự 
nhiên, cũng như bàn tay có ngón ngắn, ngón dài. Nhân dân rên rỉ dưới sự 
áp bức của họ thì họ lại dẫn Kinh thánh ra để bịt miệng thiên hạ”(7). Theo 
ông, bất bình đẳng không phải là một quy luật tự nhiên, mà là sản phẩm 
của xã hội loài người; nó tồn tại và phát triển từ khi xuất hiện chế độ tư hữu 
tài sản; rằng con người đã tạo ra sự bất bình đẳng thì con người cũng có thể 
xóa bỏ nó. Ông cũng đã phân biệt rõ hai loại bất bình đẳng giữa người với 
người. Đó là bất bình đẳng tự nhiên như người cao, kẻ thấp; người thông 
minh, kẻ đần độn và bất bình đẳng xã hội - bất bình đẳng do cơ chế xã hội tạo 
nên, như kẻ giàu, người nghèo. 
Với luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng, trong những năm 1754 - 
1755, J.J.Rousseau đã thực sự dấn thân vào một cuộc đấu tranh chính trị. 
Khi luận văn này bị loại ra khỏi cuộc thi, ông đã gửi bản thảo sang Hà Lan 
nhờ Nhà xuất bản Michel Ray ấn hành. Tháng 6 năm 1755, luận văn này đã 
ra mắt công chúng Hà Lan và ngay lập tức, nó cũng đã xuất hiện ở các hiệu 
sách của thủ đô Paris. Cũng ngay lập tức, luận văn này đã nhận được sự 
công kích mãnh liệt từ giới thượng lưu quý tộc Paris và tác giả của nó - 
J.J.Rousseau - cũng chịu chung số phận. Vua Louis XV, khi gọi 
J.J.Rousseau là “gã dân đen khốn nạn”, “tên ngoại kiều Geneve”, đã chất 
vấn ông với tư cách đó mà “dám trổ tài múa chữ, tự cho mình cái quyền 
công khai nói về tự do ngay giữa Paris ư?”. Hầu tước D’Argenson - một 
chính khách Pháp, bạn của các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, người 
được J.J.Rousseau ca ngợi là nhà thông thái đáng kính - lên án ông về tội 
đã lăng mạ, phỉ báng xã hội Pháp, bác bỏ chế độ tư hữu tài sản, phê phán 
lối sống của giới quý tộc thượng lưu và coi những quan niệm mà ông đưa 
ra là “hết sức quá đáng”. Ngay cả F.M.Voltaire (1694 - 1778) - nhà Khai 
sáng Pháp hàng đầu, người được coi là thần tượng của tầng lớp thị dân 
Pháp đương thời và là bạn cao niên của J.J.Rousseau, khi nhận được sách 
tặng của J.J.Rousseau đã viết thư phê phán ông và gọi triết lý của ông là 
thứ “triết lý của bọn khố rách áo ôm”, là lời lẽ của kẻ chuyên “xui bọn nhà 
nghèo cướp lại tài sản của nhà giàu” mà khi đọc nó, “người ta thấy ngứa 
ngáy”. Không thể chấp nhận được sự công kích ấy, J.J.Rousseau đã viết 
thư đáp trả và công khai phản kích lại trên báo chí với những lời lẽ còn cay 
độc, sâu sắc hơn nữa(8). 
Tuy nhiên, trước sự công kích dữ dội của giới quý tộc thượng lưu Paris, 
J.J.Rousseau đã buộc phải trở về quê hương ông - Geneve. Tại đây, ông 
cho tái bản luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng với lời tựa mới và 
đề tặng nền cộng hòa Geneve. Cũng tại đây, ông đã lấy lại tư cách công 
dân Genene và khôi phục tín ngưỡng gốc của mình là đạo Tin lành. 
Năm 1756, J.J.Rousseau lại rời bỏ Geneve để đến sống ẩn dật ở 
Montmorency - một vùng quê hẻo lánh ở phía Bắc Paris, trong một ngôi 
nhà nhỏ bỏ hoang của một ẩn sĩ đã quá cố từ lâu. Những ngày sống ở đây, 
ông hầu như không tiếp xúc với bạn bè và bạn bè ông, kể cả D.Diderot, 
cũng xa lánh ông, vì họ không đồng tình với việc ông rời bỏ Paris để sống 
trơ trọi, cô độc ở đây với thái độ của một con người ghét đời và kiêu kỳ. 
Cũng do vậy mà tình bạn giữa ông với các nhà triết học trong nhóm Bách 
khoa toàn thư ngày càng phai nhạt, tan vỡ. 
Tháng 1 năm 1761, J.J.Rousseau cho ra mắt công chúng Pháp cuốn tiểu 
thuyết July hay nàng Heloise mới. Trong tiểu thuyết này, thông qua câu 
chuyện tình éo le, trắc trở giữa nàng July - con gái một nam tước với chàng 
gia sư Xanh - Prơ, ông đã đưa ra một quan niệm mới về tình yêu và hết 
lòng ca ngợi tình yêu chân thật, ngợi ca những con người dám đấu tranh 
cho tự do hôn nhân, tự do luyến ái, đồng thời lên án gay gắt kiểu cưỡng ép 
hôn nhân của chế độ phong kiến đương thời. Chính vì thế mà tiểu thuyết này 
đã được đông đảo công chúng Paris, nhất là các bậc mệnh phụ và lớp trẻ nồng 
nhiệt tiếp nhận. 
Tháng 5 năm 1762, J.J.Rousseau tiếp tục cho ra mắt công chúng Pháp cuốn 
tiểu thuyết thứ hai của ông - Emile hay bàn về giáo dục. Trong tiểu thuyết 
này, thông qua câu chuyện hư cấu về cách dạy dỗ của anh gia sư Jean 
Jacques đối với cậu học trò Emile, J.J.Rousseau đã đưa ra một quan niệm 
mới về giáo dục: hãy để cho trẻ được phát triển theo quy luật tự nhiên, bố 
mẹ không nên cưỡng chế con cái theo ý mình. Quan điểm giáo dục này của 
ông tuy có đôi chỗ thái quá, nhưng nhìn chung, hoàn toàn trái ngược với 
nền giáo dục gò bó của chế độ phong kiến và Giáo hội đương thời. Cái bao 
trùm toàn bộ quan điểm giáo dục này là nêu cao tinh thần dân chủ và tự do, 
hướng sự nghiệp giáo dục vào việc đào tạo ra những công dân kiểu mới 
trong một xã hội mới. Chính vì lý do này mà ngay sau khi ra mắt công 
chúng Pháp, tiểu thuyết Emile hay bàn về giáo dục đã bị thu hồi và tác giả 
của nó bị truy nã. 
Một tháng trước khi tiểu thuyết Emile hay bàn về giáo dục ra đời, tháng 4 
năm 1762, tác phẩm quan trọng nhất, có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất của 
J.J.Rousseau - Bàn về Khế ước xã hội đã được Nhà xuất bản Michel Ray ở 
Amsterdam (Hà Lan) cho ra mắt độc giả. 
Bàn về Khế ước xã hội, như tác giả của nó - J.J.Rousseau đã viết: “Luận 
văn nhỏ này trích từ một công trình nghiên cứu rộng hơn mà trước kia tôi 
đã tiến hành nhưng chưa lượng sức mình, nên phải bỏ đi từ lâu. Đoạn rút ra 
ở đây là đoạn khá nhất mà tôi có thể yên tâm trình bày với công chúng. 
Những phần khác không còn nữa”(9). Mục đích của tác phẩm này, như 
J.J.Rousseau đã chỉ rõ, là để “tìm xem trong trật tự dân sự có chăng một số 
quy tắc cai trị chính đáng, vững chắc, biết đối đãi với con người như con 
người; và có chăng những luật pháp đúng với ý nghĩa chân thực của nó”; 
đồng thời “gắn liền cái mà luật pháp cho phép với cái mà lợi ích thúc đẩy 
phải làm, khiến cho công lý và lợi ích không tách rời nhau”(10). 
Toàn bộ nội dung tác phẩm này được J.J.Rousseau chia làm bốn quyển. 
Quyển thứ nhất gồm 9 chương, trình bày những ý niệm chung về quá trình 
hình thành xã hội từ trạng thái tự nhiên chuyển sang trạng thái dân sự và 
những ý niệm chung về việc thành lập “Công ước xã hội”. Quyển thứ hai 
gồm 12 chương, chủ yếu bàn về vấn đề lập pháp, trong đó hai chương đầu 
bàn về ý chí chung của toàn dân, về chủ quyền tối cao và cơ quan quyền 
lực tối cao của một nước. Quyển thứ ba gồm 18 chương, chủ yếu bàn về 
vấn đề hành pháp và cơ quan hành pháp. Quyển thứ tư gồm 9 chương, chủ 
yếu bàn về vấn đề tư pháp và cơ quan tư pháp. 
Tư tưởng chủ đạo của J.J.Rousseau trong Bàn về Khế ước xã hội cũng như 
trong các tác phẩm khác (“những áng văn chương”) của ông, như nhà 
nghiên cứu, dịch giả Hoàng Thanh Đạm - người dịch, chú thích và bình 
giải Bàn về Khế ước xã hội đã khẳng định, là “lý tưởng tự do, bình đẳng”, 
là đề cao và hết lòng “bênh vực tự do, bình đẳng”, “bảo vệ tự do, dân 
chủ”(11). 
Thật vậy, trong Bàn về Khế ước xã hội, J.J.Rousseau đã khẳng định: 
“Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong 
xiềng xích”; “tự do là từ bản chất con người mà có. Luật đầu tiên của tự do 
là mỗi người phải được chăm lo sự tồn tại của mình… và do đó tự mình 
làm chủ lấy mình”. Rằng, “từ bỏ tự do của mình là từ bỏ phẩm chất con 
người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người” và nếu cần phải 
tìm xem “điều tốt nhất cho tất cả mọi người” là gì, “đỉnh cao nhất của các 
hệ thống lập pháp” là gì thì tất cả chúng ta đều thấy “điều đó quy gọn vào 
hai mục tiêu: Tự do và bình đẳng”. Do vậy, mọi cộng đồng quốc gia đều 
cần đến một Khế ước xã hội và vấn đề cơ bản của Khế ước xã hội đó là 
“mỗi thành viên trong khi khép mình vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, 
vẫn được tự do đầy đủ như trước, vẫn chỉ tuân theo chính bản thân 
mình”(12). 
Với tư tưởng đó, J.J.Rousseau đã công khai tuyên bố lập trường chính trị cấp 
tiến của ông - đấu tranh cho tự do, bình đẳng và dân chủ, cho nền cộng hòa 
và chống lại chính thể quân chủ chuyên chế. Cũng chính vì thế mà ngay sau 
khi ra mắt công chúng, Bàn về Khế ước xã hội của ông đã bị cấm lưu hành 
và bản thân ông cũng bị truy nã. 
Trong bối cảnh đó, giữa tháng 6 năm 1762, ông đã rời Pais để trở về 
Geneve. Nhưng tại Geneve - quê hương ông, chính quyền và Giáo hội 
Geneve cũng ra lệnh đốt sách của ông và truy nã ông, khiến ông phải lẩn 
tránh khắp nơi. Năm 1765, khi ông đang ẩn náu ở Motier - một địa phương 
nhỏ thuộc vùng Neuchatel(Thụy Sĩ), ngôi nhà nhỏ mà ông đang sống đã 
thường xuyên bị những người dân quá khích trong vùng ném gạch đá theo 
sự xúi giục của các giáo sĩ. 
Năm 1766, J.J.Rousseau được nhà triết học Anh - D.Hume tạo điều kiện 
cho cùng đi sang Anh. Nhưng tại Anh, ông vẫn cảm thấy bất ổn, nhất là khi 
ông cảm nhận thấy cách đối xử có ý đồ không tốt của D.Hume đối với ông 
trên bước đường lưu vong. Trong tập hồi ký Tự bạch, ông viết: “Những kẻ 
khốn khổ thì ở đâu cũng bị khốn khổ. Ở Pháp người ta hạ lệnh bắt giam, ở 
Thụy Sĩ người ta ném đá vào nhà, ở Anh người ta làm nhục. Người ta đã 
bán cho mình mảnh đất dung thân bằng giá quá đắt”(13). Không thể sống 
mãi trong tình cảnh đó, đầu năm 1768, ông trở lại Pháp ẩn náu tại một vùng 
gần biên giới Pháp - Italia cho đến giữa năm 1769 thì trở lại Paris, khi việc 
truy lùng ông không còn gay gắt như trước nữa. 
Trong những năm 1772 - 1773, J.J.Rousseau tập trung viết tập Đối thoại 
với tiêu đề Rousseau - người phán xét Jean Jacques nhằm mục đích thanh 
minh để công chúng đương thời và đời sau hiểu rõ con người thực của ông, 
tư tưởng của ông và tâm địa độc ác của những kẻ từng làm hại ông. Năm 
1766, ông bắt đầu viết tập ký sự Những điều mơ mộng của một người lãng 
du cô đơn để nói lên tâm sự và những suy nghĩ của mình về tương lai. Tập 
ký sự này hoàn thành thì cũng là lúc ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 2 
tháng 7 năm 1778. Thi hài ông được chôn cất tại một hòn đảo nhỏ có tên 
gọi Dương Liễu, nhưng vào ngày 9 tháng 11 năm 1794, nhân dân Pháp đã 
rước di hài của ông từ đảo Dương Liễu vào điện Pantheon - nơi chôn cất 
các danh nhân đã làm rạng rỡ nước Pháp. 
Nhân 230 năm ngày mất của nhà tư tưởng vĩ đại, nhà triết học Khai sáng 
Pháp - J.J.Rousseau, nhắc lại mấy nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo lý 
luận của ông để thêm một lần nữa, chúng ta hiểu vì sao, ông được nhân dân 
Pháp và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới tôn vinh, ngợi ca. Vì sao, tư 
tưởng của ông cùng với tư tưởng của các nhà triết học Khai sáng Pháp, như 
Montesquieu, Vontaire, Diderot lại có ảnh hưởng sâu rộng đến tiến trình 
của cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp thế kỷ XVIII (1789 - 1794). Vì 
sao, tác phẩm Emily hay bàn về giáo dục của ông lại được coi là tác phẩm 
hay nhất về giáo dục, kể từ tác phẩm Nền cộng hoà của Pheđơ và cuốn hút 
I.Kant đến mức, khi đọc tác phẩm này, ông quên mất cuộc đi dạo bộ đều 
đặn hàng ngày của mình. Thậm chí tác phẩm này còn khiến I.Kant phải 
thốt lên rằng, D.Hume là người đánh thức ông khỏi giấc ngủ giáo điều 
trong lý thuyết về tri thức, còn J.J.Rousseau chính là người đã chỉ đường 
cho ông tới một lý thuyết mới về đạo đức học và tin rằng J.J.Rousseau là 
một Newton trong thế giới đạo đức học. I.Kant ngưỡng mộ J.J.Rousseau 
đến mức treo ảnh ông trong phòng làm việc của mình. Vì sao, July hay 
nàng Heloise mới được thừa nhận là cuốn tiểu thuyết lãng mạn hay nhất thế 
kỷ XVIII. Vì sao, Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng và Bàn về tinh thần 
pháp luật của ông lại có ảnh hưởng độc đáo và sâu sắc đến triết học chính 
trị hơn bất cứ tác phẩm nào khác đương thời. Và, trên hết, vì sao Bàn về 
Khế ước xã hội - tác phẩm quan trọng nhất của ông lại trở thành di sản lý 
luận cho nhiều chính khách, nhiều người thuộc thế hệ sau ông và cho cả 
các chính khách, những người thuộc thế hệ chúng ta hôm nay, nhất là vì 
sao, tác phẩm này cùng với Tinh thần pháp luật của Montesquieu lại được 
coi là bộ đôi khai sáng về quan điểm pháp chế, vạch ra định hướng xây 
dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân ở nhiều nước trên thế giới 
và giờ đây, vẫn còn có giá trị gợi mở cho chúng ta trong công cuộc xây 
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự ở Việt Nam.r 
(*) Thạc sĩ, Đại học Mỏ - Địa chất. 
(1`) Xem: Rôdentan (Chủ biên). Từ điển triết học. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 
1986, tr. 491. 
(2) Dẫn theo: Samuel Enoch Stumpf. Rousseau: Con người lãng mạn giữa 
thời đại lý trí. Trong: Lịch sử triết học và các luận đề. Nxb Lao động, Hà 
Nội, 2004, tr.239. 
(3) Xem: Nguyễn Mạnh Tường. Lý luận giáo dục châu Âu. Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội, 1994, tr. 418. 
(4) Dẫn theo: Samuel Enoch Stumpf. Sđd., tr.235. 
(5) Dẫn theo: Phùng Văn Tửu (Biên soạn). Giăng Giắc Rútxô. Nxb Văn 
học, Hà Nội, 1978, tr. 155. 
 (6) Xem: Phùng Văn Tửu. Sđd., tr. 172. 
(7) Dẫn theo: Phùng Văn Tửu. Sđd., tr. 206. 
(8) Xem: Phùng Văn Tửu. Sđd., tr. 218 - 223. 
(9) J.J.Rousseau: Bàn về Khế ước xã hội (Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, 
chú thích và bình giải). Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr. 49. 
(10) J.J.Rousseau. Sđd., tr. 51. 
(11) Xem: Hoàng Thanh Đạm. Jean Jacques Rousseau: cuộc đời và tác 
phẩm. Trong: J.J.Rousseau. Bàn về Khế ước xã hội. Sđd., tr. 25. 
(12) J.J.Rousseau. Sđd., tr. 52, 53, 59, 66 - 67, 115. 
(13) Dẫn theo: Phùng Văn Tửu. Sđd., tr. 365. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 triet_hoc_34__9589.pdf triet_hoc_34__9589.pdf