Câu chuyện về Johnson & Johnson là bài học đắt giá cho 
các công ty trong ngành hàng tiêu dùng, đặc biệt là sản 
phẩm tiêu dùng vì sức khỏe con người
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu J&J và hành trình tự đánh mất mình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
J&J và hành trình tự đánh mất mình 
Câu chuyện về Johnson & Johnson là bài học đắt giá cho 
các công ty trong ngành hàng tiêu dùng, đặc biệt là sản 
phẩm tiêu dùng vì sức khỏe con người. 
Dẫu biết bất kỳ công ty nào cũng có thể gặp vấn đề 
về chất lượng sản phẩm, nhưng quả thật bất ngờ khi 
đó lại là Johnson & Johnson (J&J), một trong những 
thương hiệu uy tín của Mỹ hơn một thế kỷ qua. 
Bê bối nối tiếp bê bối 
Thời gian qua, chất lượng sản phẩm của J&J luôn là 
một dấu hỏi lớn. Kể từ tháng 9.2009, Bộ phận chuyên 
cung cấp thuốc không kê đơn của McNeil, một công 
ty con của J&J chuyên sản xuất dược phẩm dành cho 
trẻ em, đã phải tiến hành 8 đợt thu hồi, với tổng cộng 
136 triệu sản phẩm. Trong đó, hầu hết là các nhãn 
hiệu quen thuộc dành cho trẻ em như Tylenol, Motrin, 
Benadryl và Zyrtec. J&J phải chịu trách nhiệm trước 
Cơ quan Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ (FDA) bởi 
các vấn đề của McNeil. 
Trước cuộc khủng hoảng, Ban Lãnh đạo của J&J 
không đạt được sự đồng thuận. Tháng 5 vừa qua, khi 
đối mặt với dư luận, cựu Tổng Giám đốc của J&J là 
Colleen Goggins lộ vẻ mệt mỏi, nhưng bà không hề tỏ 
ra nao núng. Goggins gửi lời xin lỗi đến các bậc phụ 
huynh, chuyên viên y tế vì những lo âu và phiền phức 
do quá trình thu hồi sản phẩm gây ra. Sau đó, bà 
dành phần lớn thời gian để xoa dịu tình hình. 
Hồi năm 1982, J&J gặp một sự cố còn nghiêm trọng 
hơn với sản phẩm Tylenol (về sau trở thành bài học 
vàng cho môn quản trị khủng hoảng). Và Tổng Giám 
đốc của J&J khi đó là James Burke đã không ngừng 
xuất hiện trên truyền hình để trấn an công chúng 
rằng, mọi chuyện đều đang trong tầm kiểm soát. Dù 
việc thu hồi sản phẩm khiến J&J tiêu tốn hết 100 triệu 
USD nhưng sau đó, công việc kinh doanh và danh 
tiếng của Công ty dần hồi phục. 
Còn vị Tổng Giám đốc hiện tại, Bill Weldon, hầu như 
vô hình với công chúng suốt thời gian qua. Mãi đến 
buổi phỏng vấn vào giữa tháng 8, ông thừa nhận: “Dù 
chưa có mối đe dọa nào về sức khỏe nhưng những 
việc như thế này lẽ ra không được phép xảy ra”. 
Nhiều người tin rằng, thảm họa Tylenol năm 1982 
chính là điều tốt nhất từng xảy ra với McNeil. Bộ phận 
quản lý chất lượng của McNeil sau thảm họa ấy đã 
nhận được rất nhiều lời tán dương nhờ phương châm 
“không có ngoại lệ” mà họ áp dụng. Theo đó, nếu bất 
kỳ một sản phẩm nào có vấn đề thì cách xử lý duy 
nhất là chôn nó đi. “Nó đã trở thành một phần văn 
hóa của chúng tôi. Chúng tôi làm những điều đúng 
đắn và hiệu quả”, một cựu giám đốc của McNeil giai 
đoạn giữa thập niên 1990 nhớ lại.Môi trường đạo đức 
của McNeil thời gian này cũng được đánh giá là hết 
sức ưu việt. Công nhân rất lịch sự. Cấp quản lý đối 
xử với nhân viên như người nhà, họ còn tặng cho 
nhân viên gà tây nhân lễ Tạ ơn. 
Mặc dù vậy, đôi khi sản phẩm của McNeil cũng gặp 
vấn đề về chất lượng. Năm 1996, sau khi nhận được 
thư cảnh cáo từ FDA, Tổng Giám đốc khi đó là Ralph 
Larsen đã cải tổ triệt để hệ thống quản lý chất lượng. 
Và thay vì quát tháo mọi người, lời chỉ trích quen 
thuộc của ông là: “Đầu tiên và trước nhất, chúng ta 
phải kinh doanh theo một cách đúng đắn. Và nếu 
không thể làm như thế, chúng ta sẽ bị đào thải”, một 
cựu Phó Giám đốc của McNeil nhớ lại. 
Larsen cũng xây dựng một chương trình hành động 
trị giá nhiều triệu USD và kéo dài trong nhiều năm 
nhằm cải thiện hệ thống chất lượng của J&J. Tuy 
nhiên, chương trình này chỉ thành công cho đến khi 
Larsen về hưu năm 2002. 
Sáp nhập, sa thải, Giám sát lỏng lẻo 
Kể từ năm 2002, những hiệu quả mà Larsen tạo ra 
bắt đầu suy yếu. Thủ phạm chính gây ra tình trạng 
này mang tên “cắt giảm chi phí”, nhưng ở dạng tinh vi 
hơn. Nhằm cắt giảm quỹ lương, không có một sự sa 
thải nhân viên hàng loạt nào, nhưng những nhân viên 
có kinh nghiệm lần lượt được thay thế bằng người 
mới hầu như không có kinh nghiệm hay chuyên môn 
về ngành dược. Trước đây, chỉ những nhà khoa học 
và người làm toàn thời gian mới được làm việc trong 
phòng thí nghiệm của Công ty, nhưng đến năm 2008, 
hơn một nửa ở đó là người làm thời vụ. 
Tệ hại hơn, hệ thống chất lượng từng rất nghiêm ngặt 
của McNeil cũng xuống cấp nghiêm trọng. Trước đây, 
nếu một sản phẩm không vượt qua được hệ thống 
tiêu chuẩn, nó sẽ bị loại bỏ. Ngày nay, các kỹ sư sẽ 
điều chỉnh lại những thông số của hệ thống này để 
kết quả kiểm tra sản phẩm đạt tiêu chuẩn. 
Sau cùng thì những sai sót trên cũng bị FDA phát 
hiện. Năm 2004, FDA đưa ra báo cáo gọi là 483, nêu 
rõ những sai sót hiện hữu của Công ty sau quá trình 
thẩm tra. 
Cuối năm 2006, trong nỗ lực tìm kiếm tăng trưởng và 
lợi nhuận, J&J đã mua lại Pfizer, một công ty dược 
nổi tiếng của Mỹ với giá 16,6 tỉ USD. Thương vụ này 
giúp J&J tiết kiệm được thêm 500-600 triệu USD mỗi 
năm. 
Vụ sáp nhập này thay đổi hẳn vị trí của McNeil, từ 
một đơn vị dược phẩm chuyển thành lĩnh vực tiêu 
dùng do Colleen Goggins đứng đầu. Do khác biệt cả 
về văn hóa lẫn tài chính, liên minh mới chỉ có thể đạt 
được biên lợi nhuận khoảng 10%, chưa bằng đến 
một nửa mức mà McNeil tạo ra.Phong cách quản lý vi 
mô của Colleen Goggins không được lòng nhân viên. 
Nhân viên của McNeil cảm thấy tức giận vì mất sự tự 
chủ và vì ban lãnh đạo mới chỉ chăm chăm cắt giảm 
chi tiêu của Công ty để đạt những mục tiêu sau sáp 
nhập. 
Do thiếu hiểu biết về ngành dược, ban lãnh đạo mới 
thường đưa ra nhiều quyết sách sai lầm. J&J tuyên 
bố sa thải hơn 4.000 nhân viên. Và một khi lượng 
nhân viên sản xuất giảm, ngân sách cho trang thiết bị 
thu hẹp, sai sót xảy ra ngày càng nhiều. 
Và những hậu quả 
Những tưởng sau cảnh báo 483 của FDA năm 2004, 
hệ thống quản lý chất lượng của McNeil sẽ được cải 
thiện. Nhưng việc thắt chặt chi tiêu và triệt để tiết 
kiệm dưới thời của Goggins đã khiến Công ty ngày 
càng lún sâu vào khó khăn. 
Tháng 6.2009, cơ quan này phát hiện thêm 6 lỗi liên 
quan đến việc giải quyết khiếu nại của khách hàng và 
rà soát quy trình quản lý chất lượng. Tháng 7 năm đó, 
họ có một phát hiện chấn động về việc McNeil âm 
thầm thuê các công ty bí mật thu hồi sản phẩm Morin 
do không vượt qua được các tiêu chuẩn về chất 
lượng. Hành động che mắt công chúng của McNeil 
khiến vấn đề Công ty đang gặp phải càng nghiêm 
trọng hơn. Trước những sai sót có hệ thống của 
McNeil, tháng 5.2010, FDA quyết định đóng cửa nhà 
máy tại Fort Washington đến năm 2011. 
Hơn bao giờ hết, trong lúc này, J&J đang cần sự 
mạnh mẽ của đội ngũ lãnh đạo, tuy nhiên, Tổng Giám 
đốc hiện tại Bill Weldon, dường như không có động 
thái nào. Chính ông từng cũng thừa nhận mình không 
có kinh nghiệm về lĩnh vực tiêu dùng. 
Mới đây nhất, vào ngày 26.8, DePuy, bộ phận sản 
xuất trang thiết bị giải phẫu của J&J với doanh thu 5,4 
tỉ USD năm ngoái, cho biết đang tiến hành thu hồi 2 
sản phẩm ASR XL Acetabular System và ASR Hip 
Resurfacing System, vốn rất phổ biến trong giải phẫu 
khớp háng và khớp gối. Ước tính có khoảng 93.000 
thiết bị cấy ghép được thu hồi trong đợt này trên toàn 
cầu. Từ đầu năm 2008 đến nay, chỉ riêng tại Mỹ, FDA 
đã nhận được hơn 400 lời khiếu nại về chất lượng 
sản phẩm của DePuy. 
“Nhiều người vẫn giữ vững niềm tin của họ cho sản 
phẩm của J&J, nhưng rõ ràng, khoảng thời gian gần 
đây là những ký ức buồn đối với nhiều nhân viên của 
McNeil”, một cựu kỹ sư của McNeil tâm sự. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 57_0695.pdf 57_0695.pdf